Đức tin đến bởi sự người ta nghe, mà người ta nghe, là khi lời của Đấng Christ được rao giảng.

September 12, 2012

Tương Quan Giữa Triết Học và Tôn Giáo

I. Về nghi vấn thứ nhất: phân mục Triết Học có phải là một xa xỉ phẩm?


Chúng tôi không phủ nhận, nhu cầu quan trọng, cần thiềt và cấp bách hàng đầu cho số rất đông người Việt Tin Lành vẫn là những hiểu biết về Kinh thánh, thần học và linh đạo.

Nhưng đồng thời trong mấy chục năm vừa qua, với sự phát triển mãnh liệt của kỹ nghệ thông tin và với sự tiếp cận đích thân với những trào lưu tư tưởng của các nền văn minh văn hóa trên thế giới, người Việt Tin Lành trong nước và ngoài nước đều thấy có nhu cầu bức bách và thiết thân cần phát huy TƯ DUY của mình: một đàng là để bắt kịp những suy tư của thời đại, tiếp đến là để đem lại cho những hiểu biết về Kinh thánh, thần học, linh đạo của mình một sức thuyết phục bổ sung, bên cạnh đức tin, truyền thống và có thể cả những tập tục thường mang tính ước lệ và không nhất thiết phải là trường cửu.

Hình thức diễn tả và phương tiện phát huy một nền TƯ DUY bao quát, cơ bản và mang tính phê phán như thế hẳn là có thể và cần thiết nhờ vào sự đóng góp của suy tư triết học.

II. Về nghi vấn thứ hai: Suy tư triết học có mang tính khách quan cho người có tôn giáo cũng như người không tôn giáo?


Phải nhìn nhận rằng, mối tương quan giữa triết học và tôn giáo không phải là một tương quan đơn giản. Triết học và tôn giáo là hai lĩnh vực sinh hoạt tinh thần khác nhau trong đời sống: Triết học thuộc lĩnh vực tư duy của lý tính tự nhiên, còn tôn giáo lại thuộc lĩnh vực tâm linh, cảm tính, niềm tin và có thể cả thiên khải. Nghi vấn về tính khách quan ở đây được đặt ra, là bởi có thể chăng niềm tin tôn giáo sẽ ảnh hưởng đến suy tư của lý tính, và ngược lại có thể chăng tư duy của lý tính sẽ chi phối đến niềm tin? Và nếu có ảnh hưởng lẫn nhau, thì những ảnh hưởng đó có làm mất đi tính khách quan của mỗi lĩnh vực sinh hoạt tinh thần nầy không?

Cuộc sống bình dân của người có tôn giáo thường chỉ dựa vào niềm tin, truyền thống và tập tục. Rất ít khi một tín đồ bình dân suy nghĩ một cách có phê phán và độc lập về những cơ sở và những lý lẽ nền tảng cho cuộc sống hành đạo thường ngày của mình. Ngược lại, người không tôn giáo, nhất là trong những xã hội thế tục hóa ngày nay, lại thường xem tâm linh, tín ngưỡng, tôn giáo là những lĩnh vực xa rời cuộc sống thiết thực và đích thực.

Khi được tiếp cận với nền tri thức rất rộng lớn của nhân loại trong không gian và trong lịch sử, hẳn ta đã nhận thấy những người am thông Kinh thánh và thần học cũng đều là những người đã từng rất thông giỏi trong suy tư triết học, bởi triết học đã đem lại cho họ những nếp tư duy tinh tế và cơ bản để xây dựng vững chắc và có phê phán những hệ thống Kinh thánh và thần học của họ.

Còn đối với những người không tôn giáo thường đánh giá rất cao và rất chính xác các nền khoa học tự nhiên và cả ngành triết học, nhưng đồng thời hẳn ta cũng biết ông tổ của nền triết học khai sáng Đức, Immanuel Kant, sau ba tác phầm Phê Phán vượt tầm thế kỷ, cũng đã cho xuất bản tác phẩm Tôn giáo trong biên giới của lý tính đơn thuần, và trên bia mộ cho đến hiện thời của ông ở Königsberg có ghi khắc câu nói lừng danh: "Bầu trời đầy sao trên tôi và giới luật đạo đức trong tôi". Với những thực kiện này, Immanuel Kant cho thấy chỗ đứng biên giới của lý tính: không chứng minh được sự hiện hữu của Thượng đế, nhưng cũng không thể phủ nhận sự hiện hữu của Thượng đế, nhưng phải để một khoảng trống cho niềm tin tôn giáo. Triết gia lớn Karl Jaspers khi bàn về tác phẩm Tôn giáo trong biên giới của lý tính đơn thuần của Kant nói trên, đã giải thích: "Ven bờ biên giới của lý tính là sự bất khả quan niệm và là một huyền nhiệm. Những điều bất khả quan niệm không có nghĩa là những điều phi lý, nhưng là những điều mà lý tính cảm nghiệm như là biên giới của lý tính và được đón nhận trong ánh sáng của lý tính" (K.Jaspers, Những triết gia lớn, München/Zürich 1997, 511; xem thêm: Lưu Hồng Khanh: Triết Học Nhập Môn, Nxb Trẻ, Sàigon 2005, chg I: Suy tư triết học,18-100; ở đây: 62-70).

Bên cạnh những suy tư mang tính triết học của Kant nói trên, nhà khoa học thiên tài Albert Einstein cũng đã đưa ra một tư tưởng lớn: "Khoa học không có tôn giáo thì bại liệt, tôn giáo không có khoa học thì mù lòa" (Những năm cuối đời tôi, Stuttgart 1952; in: Hans-Peter Dürr (xb): Physik und Transzendenz, Bern/München/Wien 1996, 75).

III. Góc nhỏ triết học: Thông Diễn Học (Hermeneutics).


Giới thiệu điểm giao lộ giữa Thông diễn triết học và Thông diễn tôn giáo của một trong những triết gia lớn nhất của thế kỷ XX, Paul Ricoeur (1913-2005).

Triết học là một trong những ngành khoa học rất lớn. Triết học bao gồm triết cổ, triết hiện đại, triết Đông, triết Tây. Triết học suy tư trên nhiều lĩnh vực của con người và cuộc sống: có triết học lý thuyết, có triết học thực hành. Về lý thuyết, có hữu thể luận, triết học tự nhiên, triết học nhân học, triết học tôn giáo, triết học xã hội, triết học chính trị, tri thức luận, luận lý học… Về thực hành, có đạo đức học, sáng tạo học (Hi-lạp: poièsis, từ đây phân xuất ra poetic: thi văn, sáng tạo)…

Có một lĩnh vực sinh hoạt tinh thần thuộc ngành khoa học nhân văn từ thởi Cổ đại Hi lạp với Platon và Aristoteles, rồi xuyên suốt cho đến hết thời Trung cổ ở châu Âu vào thế kỷ 15/16, đó là ngành giải thích kinh sách truyền thống và tôn giáo, cũng được gọi là khoa Giải kinh, hay Thông giải luận (Exegesis). Nhưng từ thế kỷ 17, cùng với tư trào Khai sáng, việc giải thích kinh sách được mở rộng đến mọi biểu hiện tinh thần của con người, trong những lĩnh vực thuộc các ngành khoa học tinh thần. Cũng từ đây, lần đầu tiên từ thông diễn (Hermeneutik) được thay thế bổ sung cho từ giải kinh (Exegesis). Những triết gia tiêu biểu nhất cho khái niệm thông diễn mới này là Dannhauer, Schleiermacher, Dilthey. Nhưng rồi vào giữa thế kỷ 20, lại đã có một biến chuyển lớn hơn nữa: việc thông giải không còn chỉ nhắm đến những biểu hiện của con người trong các ngành khoa học tinh thần, mà còn triệt để nhắm đến chính sự hiện hữu, sự tồn tại của con người. Triết gia chủ xướng cho khái niệm mới này là Martin Heidegger. Rồi tiếp nối Heidegger, là Gadamer, Habermas, Ricoeur…

Trên môi trường triết học ở Việt Nam, ngành Thông diễn học trong những năm gần đây đã bắt đầu được tìm hiểu, nghiên cứu, trình bày, xuất bản, cách riêng đối với Heidegger, Gadamer, và phần nào Habermas. Riêng về Ricoeur thì có được nhắc đến, nhưng cho đến nay thì hầu như chưa được triệt để nghiên cứu. Ricoeur lại là một triết gia có nhiều đặc điểm quan trọng không thể thiếu cho một nền Thông diễn học bao gồm nhiều truyền thống và văn hóa phương Tây.

Paul Ricoeur tổng hợp trong mình ba truyền thống triết học lớn ở châu Âu: truyền thống triết học nhân linh và phản tư Pháp với Marcel, Mounier, cho đến Nabert, Merleau-Ponty; truyền thống triết học khai sáng, hiện tượng, hiện hữu Đức với Kant, Husserl, Jaspers, Heidegger, Gadamer; triết học phân tích Anh/Mỹ với Wittgenstein, Rorty…

Từ những thử thách khắc nghiệt của hoàn cảnh gia đình và của xã hội châu Âu vào thời thế chiến thứ hai, Ricoeur đã bắt đầu suy tư của mình về sự ác, rồi về những lý do để hy vọng và hành động. Suy tư để tìm hiểu luôn phải bước đi trên con đường thông giải, thông diễn. Thông giải, thông diễn của Ricoeur đi từ bản văn, đến biểu tượng, ẩn dụ, dụ ngôn, truyện kể, huyền thoại, chân trời linh thiêng.

Ricoeur đọc và nghiền ngẫm thường xuyên Kinh thánh. Nhưng Ricoeur tiếp cận Kinh thánh dưới góc độ triết học. Suy tư của Ricoeur về Kinh thánh là suy tư của một triết gia và là một tín đồ Kitô-giáo (hệ phái Tin lành cải cách: Eglise Réformée), chứ không phải một triết gia Kitô-hữu . Với khía cạnh suy tư triết học về Kinh thánh như thế, Ricoeur đã tạo nên điểm giao lộ giữa Thông diễn học triết học và Thông diễn học Kinh thánh. Một đóng góp triết học quý báu cho những người có tôn giáo, đồng thời cũng là một đóng góp triết học tâm linh quý báu cho nhũng người không tôn giáo.

Cái Tôi suy tư (Cogito), đối với Ricoeur, không còn là một chủ thể độc lập tự khẳng định của Descartes, Kant, Hegel. Thực tại hiện hữu của con người không còn là một hiện thể như thế (Dasein) của Heidegger, nhưng là một bản sắc tan vỡ, vụn mảnh, đa phức, biến đổi, tự vượt, một bản sắc sinh động hướng về phía trước, xa lạ, bất ngờ, nơi khác, kẻ khác. Tác phẩm vào cuối đời diễn tả bản sắc con người mà Ricoeur hằng tìm kiếm này mang tên "Chính mình như một người khác" ("Soi-même comme un autre", Paris 1990; Bản dịch 5 chương tiếng Việt, do Trịnh Văn Tùng, Nxb Thế Giới, Hà Nội, 2002).

Chúng tôi nghĩ rằng trang mạng Triết học cùng với Điểm giao lộ giữa Thông diễn học triết học và Thông diễn học tâm linh Kinh thánh này có thể sẽ là một nơi gặp gỡ, chia sẻ và trao đổi suy tư cho nhiều bạn đọc. Và từ đó chúng tôi hy vọng có được những đóng góp tích cực của tất cả quý bạn. Cuối cùng, chúng tôi chúc nguyện người viết cũng như người đọc – có tôn giáo cũng như không tôn giáo – tìm được trên giao lộ Thông diễn học triết học qua con người và tác phẩm của Paul Ricoeur này những tư tưởng giúp khám phá những phương pháp thông diễn mới và giúp thể hiện bản sắc chính mình bằng sự tự vượt về những chân trời phía trước.

Ms.Ts. Lưu Hồng Khanh

Frankfurt/Main, CHLB Đức, 12.02.2012.

(Ghi chú: Trong các bài viết trên bảng mục Triết học thông diễn này, chúng tôi sẽ không liệt kê chức vụ và học vị của các tác giả và các dịch giả).
Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...