TRỞ VỀ NGUỒN:
THÁNH KINH DO THÁI
Daniel L.
Smith-Christopher
![]() |
Daniel L. Smith-Christopher |
Bằng cách nào chúng ta có
thể mô tả tính thống nhất được ghi nhận giữa 39 quyển sách khác nhau được viết
qua một giai đoạn xấp xỉ 850 năm? Có lẽ câu trả lời nằm trong sự kiện rằng bộ
sách này mô tả một mối quan hệ kéo dài trong thời gian. Thật vậy, có thể nói
rằng Thánh Kinh Do Thái mô tả một chuyện tình đầy sóng gió giữa những người bạn
tình “lì lợm”.
Mặc dù việc ví von với
một chuyện tình xem ra có vẻ lạ lùng, song đây quả thật là một chuyện tình.
Ngôn sứ Hôsê vào thế kỷ 8 trước công nguyên đã sử dụng ẩn dụ này một cách tuyệt
vời, đặt tương phản giữa một bên là tình yêu đích thực của Giavê đối với dân Do
Thái và bên kia là “sự thèm khát rẻ tiền” của chính đám dân ấy khi họ
thờ phượng những vị thần nông nghiệp của địa phương – bởi họ tin rằng những vị
thần ấy có thể bảo đảm cho họ được mùa màng phong phú. (Hs 2).
Mô tả về mối quan hệ giữa
It-ra-en và Thiên Chúa, đó là một chủ đề lớn nối kết những quyển sách có nhiều
nét khác nhau thành một tổng thể mạch lạc chặt chẽ. Tất cả các chủ đề thần học
quan trọng xuyên suốt Thánh Kinh Do Thái như “lịch sử cứu độ”, “giao
ước”, “Vương Quốc của Thiên Chúa”… đều có thể coi như là thứ yếu so với chủ đề
số một là mối quan hệ căn bản giữa Thiên Chúa và dân của Ngài.
Mối quan hệ này được mô
tả bởi các văn sĩ Do Thái khác nhau bằng chính những kiểu nói của con người
(thường được ví vớimối quan hệ giữa hai người yêu nhau, song cũng có khi được
ví với cha và con – x. Hs 11), qua đó họ cố gắng diễn tả cảm nhận của họ về
Thiên Chúa, Đức “Giavê”. Giống như mọi mối quan hệ khác, mối quan hệ này giữa
Thiên Chúa và con người được mô tả trong Thánh Kinh Do Thái cũng có những tình
tiết kịch tính như giận, ghen, thất vọng… nhưng có lẽ ấn tượng nhất trong đức
tin của người Do Thái vẫn là một tình yêu, một lòng trắc ẩn và sự tha thứ đầy cảm
kích. Sức thu hút của Thánh Kinh Do Thái đối với những ai tìm hiểu bộ sách này
vì thế có thể sánh với sự quyến luyến đối với một người yêu – những nét kỳ diệu
mới mẻ nơi người ta yêu sẽ đem lại cho ta những ngạc nhiên thích thú, những
thất vọng, và xuyên qua tất cả là niềm vui chất ngất. Vì thế, không lạ gì khi
việc tìm hiểu Thánh Kinh có thể được so sánh với tình yêu sự Khôn Ngoan (Cn
3,13-18). Để phục vụ cho công cuộc nghiên cứu thần học hiện đại, và để phục vụ
cho mối quan hệ của chính chúng ta hôm nay với Thiên Chúa, việc chúng ta đọc
lại những ngôn từ xưa cũng cần thiết không kém chi việc cố gắng tìm ra những
ngôn từ mới để lên lời và những kỹ năng mới để lắng nghe Thiên Chúa nói hôm
nay. Nói tóm, rất cần thiết phải trở về nguồn.
NGUỒN DO THÁI
Đầu tiên, chúng ta cần
ghi nhận rằng, ở đây, nói “Thánh Kinh Do Thái” thì đúng hơn là nói “Cựu Ước”.
“Thánh Kinh Do Thái” nhắc cho chúng ta về ngôn ngữ và văn hóa gốc của nó (ngôn
ngữ sêmít, văn hóa cận đông thời xưa) và nhắc ta nhớ rằng những bản văn này là
“thánh” đối với cả các tín đồ Do Thái giáo lẫn Kitô giáo – một điều mà chúng ta
không nên coi thường. Tiếng Do Thái là một ngôn ngữ sêmít, có quan hệ với những
ngôn ngữ sêmít cổ cũng như hiện đại khác, chẳng hạn tiếng Ả rập.
Thánh Kinh Do Thái là một
bộ sách được viết qua gần một ngàn năm, xấp xỉ giữa năm 1000 và năm 150 trước
công nguyên. Các sách Samuen, Các Vua và Sử Biên Niên được tính là hai quyển
cho mỗi tiêu đề, thì tổng cộng có 39 quyển – được viết chủ yếu bằng tiếng Do
Thái. Tuy nhiên, Giáo Hội Kitô giáo sơ khai không đồng ý với Do Thái giáo thời
sơ khai trong việc ấn định qui điển (tức bộ sách có thẩm quyền làm nên
Thánh Kinh của chúng ta), và đã quyết định bao gồm cả một số sách phần lớn được
viết vào thời sau này (sau năm 250 trước công nguyên) và bằng tiếng Hi Lạp. Bộ
tuyển này được gọi là “Apocrypha” (ngụy thư, tên gọi được sử
dụng bởi những người Tin Lành – là những người không nhìn nhận chúng như thành
phần của qui điển Thánh Kinh), hay được gọi là “Qui Điển đệ nhị” (tên gọi được
sử dụng bởi Công Giáo Rôma – là những người chấp nhận chúng). Thêm vào đó, có
nhiều sách đã sống còn được tới ngày nay, phần lớn từ thời Văn Hóa Hi Lạp
(từ năm 330 trước công nguyên cho đến khoảng năm 250 sau công nguyên), gọi là
“Pseudepigrapha” (mạo thư). Những sách này có tính lịch sử, văn chương
và tôn giáo giúp cho việc nghiên cứu về dân Do Thái, nhưng chúng không trực
tiếp giúp cho việc nghiên cứu lịch sử Do Thái trước thời hoàng kim của văn hóa
Hi Lạp.
Theo truyền thống, các
sách của qui điển Do Thái được phân làm 3 phần phân biệt nhau: các sách Torah
(“Lề Luật” hay “Chỉ Dẫn”), các sách Tiên Tri và Các Sách Khác:
Torah: Sáng Thế, Xuất Hành,
Lêvi, Dân Số, Đệ Nhị Luật.
Tiên Tri: Giosuê, Thẩm Phán,
1&2 Samuen, 1&2 các Vua, Isaia, Giêrêmia, Eâdêkien, Nahum, Habacuc, Amốt,
Hôsê, Giôen, Mika, Malaki, Khácgai, Dacaria, Sôphônia, Obadia, và Giôna.
Các Sách Khác: Thánh Vịnh, Châm Ngôn,
Diễm Ca, Ai Ca, Gióp, Eùt-te, Giảng Viên, Et-ra-Nêhêmia, Sử Biên Niên, Rút, và
Đanien.
Các sách
“Deutero-Canonical” (Qui điển đệ nhị): Huấn Ca, Khôn Ngoan, Tôbia, Giuđít,
1&2 Macabê, và Barúc.
Để hiểu những quyển sách
này, rất cần phải nắm vững một số kiến thức căn bản về lịch sử Do Thái cổ thời,
như chúng ta sẽ phác họa sau đây, trước khi có một tìm hiểu ngắn về các văn
liệu, và cuối cùng sẽ có một giới thiệu về các phương pháp phân tích Thánh
Kinh.
LỊCH SỬ DO THÁI
CỔ THỜI
Muời hai niên biểu sau
đây đánh dấu những cột mốc quan trọng trong lịch sử dân Do Thái và cung cấp một
định hướng căn bản cho phép chúng ta liên hệ mỗi cuốn sách với những biến cố
chuyên biệt và với các thời kỳ nhất định. Nên nhớ rằng những niên biểu này
thường chỉ có tính ước lượng, nhất là đối với các niên biểu xa xưa.
1280 trước CN: Cuộc Xuất
Hành của đám người Do Thái nô lệ
ra khỏi Ai Cập dưới sự lãnh đạo của Môsê.
1020 trước CN: Bắt đầu
thời quân chủ sau giai đoạn các thẩm
phán: Saolê, Đavít
và Salômôn.
922 trước CN:
Salômôn qua đời và đất nước bị chia đôi:
Giuđa miền nam và It-ra-en miền bắc.
722 trước CN:
Sự sụp đổ của vương quốc phía bắc do sự chiếm
đóng của người Assiri đến từ Mêsôpôtamia phía
tây bắc.
640 trước CN: Vua
Giôsia. “Những Cải cách Đệ Nhị Luật” và
các văn phẩm lịch sử, từ Giôsuê đến 2 Các Vua.
587 trước CN: Giuđa hoàn
toàn bị đánh bại bởi dân Babylon và
nhiều người Giuđa bị trục xuất. Đền thờ Giê-ru-
sa-lem bị tàn phá.
539 trước CN: Cyprô của
Batư đánh bại Babylon và cho phép
những người lưu đày trở về quê hương.
520 trước CN: Có lẽ là
thời điểm tái thiết Đền Thờ bị tàn phá ở
Giê-ru-sa-lem.
450 trước CN: Sứ mạng của
Nêhêmia và Eùt-ra
333 trước CN: Alexandre
Đại Đế thôn tính Palestine và Cận
Đông; bắt đầu ảnh hưởng của văn hóa Hi Lạp.
167 trước CN: Antiôkhô IV
(Eâpiphane) cố gắng thống nhất lãnh
thổ của mình bằng cách áp đặt văn hóa Hi Lạp.
Đàn áp Do Thái. Macabê bắt đầu kháng chiến.
64 trước CN:
Palestine bị Rôma kiểm soát.
***
(Đức Giêsu sinh ra) ***
70 sau CN: Người Rôma tàn
phá ngôi Đền Thờ thứ hai.
Thật không khôn ngoan nếu
tách biệt Thánh Kinh Do Thái khỏi dân tộc đã sản xuất ra nó và mảnh đất mà dân
tộc này đã sống. Giới nghiên cứu gần đây đã bắt đầu nhấn mạnh đến tầm
quan trọng của bối cảnh chính trị, kinh tế và xã hội của sự xuất hiện liên bang
It-ra-en vào các thế kỷ 13 và 12 trước công nguyên. Đất Canaan vào lúc đó vốn
đã là một vùng đất tranh chấp lâu dài, đóng vai trò như một cầu nối giữa người
Ai Cập ở phía nam , người Hít-ti chủ yếu tập trung ở Tiểu Á, và các cường quốc
đang nổi lên ở Mêsôpôtamia phía đông (x. bản đồ số 1 ở cuối sách). Như
vậy, lịch sử Thánh Kinh diễn ra trong một “Khu Vực Trung Tâm” của cổ thời.
Các tư liệu của người Ai
Cập cho biết rằng dường như đất Canaan được cư trú bởi “những người dân của
một lãnh địa độc lập”, được điều khiển bởi một bậc vị vọng địa phương; họ
sống nhờ vào lương thực được cung cấp bởi các nông dân trồng ngũ cốc trên miền
bình nguyên và canh tác những vườn cây trái trên các đồi dốc (ôliu, vả và nho).
Ý thức hệ nâng đỡ hệ thống này là một tôn giáo đặt nền trên sự bảo đảm mùa màng
phong phú và con người sinh sôi nảy nở, đồâng thời tôn trọng trật tự hay quyền
bính đã được thiết lập dựa trên sự cúng tế hy lễ cho chư thần. Các vị thần
chính yếu là: thần giông tố Baal, nữ thần Asherah, và thần El. Tôn giáo Canaan
được hậu thuẫn bởi một giới tư tế phụ trách các đền thờ và các trung tâm thờ
cúng khác nhau. Đây chính là tình hình ở Canaan khi đám dân Do Thái nô lệ từ Ai
Cập kéo đến.
Căn cứ vào các truyền
thống Thánh Kinh thì thật khó xác định những dữ kiện chính xác của cuộc “Xuất
Hành”. Chẳng hạn, Xh 10,28-29 kết thúc truyền thống cho đó là một “cuộc trốn
thoát” khỏi Ai Cập, trong khi Xh 11-12 thì trình bày biến cố đó như “một sự
trục xuất” người Do Thái sau nạn dịch thứ 10, và cũng là cuối cùng, giết chết
tất cả con đầu lòng của người Ai Cập. Sách Xuất Hành pha trộn hai truyền thống
này bằng cách nêu sự kiện Pharaô đổi ý và đuổi theo người Do Thái, tạo ra những
truyền thống về sự giải thoát dân Do Thái tại Biển Đỏ. Nhưng, một lần nữa, ở
đây lại có hai truyền thống, một truyền thống mô tả người Do Thái trốn thoát
ngang qua những vùng trũng hơi lầy lội (làm cho xa mã của người Ai Cập trở
thành vô dụng), còn truyền thống kia, muộn hơn, chuyển tình tiết ấy thành hiện
tượng nước biển rẽ ra một cách kỳ diệu, rõ ràng nhằm nêu bật tầm quan trọng
thần học của việc Thiên Chúa cứu giúp dân Do Thái trong những khi họ lâm vào
cảnh khốân cùng.
Dù trường hợp nào, thì
chúng ta cũng ghi nhận một nhóm người vốn là nô lệ ở Ai Cập đã đến Canaan vào
khoảng năm 1250 trước công nguyên, với một tôn giáo hướng về một Thiên Chúa đã
giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai Cập. Tôn giáo này, trong hình thức sơ khai của
nó, gắn bó chặt chẽ với Môsê. Đức tin thuở phôi thai của It-ra-en được đặt nền
trên những kỳ vọng luân lý căn bản (“Lề Luật”), trên việc thực hành phụng tự
trong một cái miếu thờ hay chiếc lều di động, và trên việc tôn thờ một Thiên
Chúa được gọi là “Giavê”. Tuy nhiên, yếu tố chính của tôn giáo này, dưới
cái nhìn của giới nông dân Canaan đương thời, là sự kiện rằng vị Thiên Chúa
Giavê này là một vị thần giải phóng những người nô lệ, và do đó Ngài là một vị
thần có liên can tới hoàn cảnh sống của họ. Tôn giáo này, khi đến Canaan, đã
gây một ảnh hưởng “bùng nổ”, và đại đa số những người làm nên “mười hai chi tộc
It-ra-en” chính là những người Canaan đã cải giáo để theo tôn giáo mới này.
Nhưng việc cải giáo để
theo tôn giáo của Giavê này không trơn tru, và đã không ngừng xảy ra tình trạng
các ý niệm của tôn giáo Canaan và tôn giáo Giavê pha trộn lẫn nhau tạo thành
một vấn đề kéo dài suốt thời đại các Vua của It-ra-en và Giuđa, từ khoảng năm
1000 trước công nguyên cho đến thời của Những Cuộc Cải Cách Đệ Nhị Luật khoảng
năm 640-609 trước công nguyên. Đã có nhiều khám phá mới đây của khoa khảo cổ
cho thấy mức độ của tình trạng hổ lốn này (nghĩa là, sự pha trộn của hai hay
nhiều truyền thống tôn giáo). Chẳng hạn, các kinh nguyện được ghi trên những
miếng đất sét được tìm thấy trong một điện thờ nhỏ gần sa mạc Sinai có nói đến
“Giavê” và “vợ là Asherah”. Một kinh nguyện như thế là chứng cứ cho thấy rằng
người ta đã pha trộn các yếu tố của tôn giáo It-ra-en và tôn giáo Canaan. Lời
tố cáo của Thánh Kinh dành cho nhiều vị vua của It-ra-en và Giuđa bỏ việc phụng
thờ chân chính đối với Giavê cho thấy rằng các vua ấy thường nghiêng chiều về
tính thủ cựu của tôn giáo Canaan hơn là tính cách tân của lòng nhiệt thành phụng
thờ Giavê. Các vị vua ấy bị phê phán kịch liệt bởi những người triệt để ủng hộ
sự phụng thờ Giavê – tức là các ngôn sứ.
Như vậy, dường như sự
phụng thờ Giavê đã bắt đầu trong tư cách là một tôn giáo của “thiểu số” nơi
những người trước kia là nô lệ ở Ai Cập và những người Canaan cải giáo, và rồi
về sau có được uy thế lớn hơn trong thời quân chủ (nhất là dưới triều vua
Giôsia). Tuy nhiên, lúc bấy giờ, số phận của các quốc gia It-ra-en độc lập bị
định đoạt bởi sự nổi lên của các đế quốc ở Mêsôpôtamia, và việc phụng thờ Giavê
sẽ dần phát triển thành Do Thái giáo nơi một dân tộc lụy thuộc các đế quốc ấy
về chính trị và kinh tế. Nói cách khác, căn tính “con cái It-ra-en” đang nổi
lên đã đi vào một bước quặt quan trọng, rứt ra khỏi một căn tính chính trị
khi những đế quốc to lớn này (đầu tiên là Assiri, rồi đến Babylon, sau đó là Ba
tư) bắt đầu bành trướng ảnh hưởng về phía tây, tiến vào vùng duyên hải
Palestine.
Thời đại quân chủ
It-ra-en bắt đầu khoảng năm 1000 trước công nguyên. Đavít là vị lãnh đạo nổi bật
nhất; ông đã thành công trong việc thống nhất các dân Do Thái và Canaan thành
một mối để chống lại sự đe dọa đang ập đến từ những kẻ xâm lăng ở vùng duyên
hải gọi là Philitinh. Đavít cũng thiết lập một thủ đô là Giê-ru-sa-lem, và mở
rộng ảnh hưởng chính trị của It-ra-en qua bên kia sông Giođan, đi vào các vùng
đất Ammon, Moab, Êđom và tràn lên Syria phía bắc (x. bản đồ số 2 ở cuối
sách).
Con trai của Đavít là
Salômôn nối nghiệp cha, tiến hành thêm những hoạt động củng cố mối thống nhất,
bao gồm việc xây dựng một Đền Thờ cho cả quốc gia, thiết kế theo mẫu đền thờ
của người Canaan. Nhưng dù Salômôn rất nổi tiếng về hoạt động ngọai giao và sự
“khôn ngoan”, những công việc xây dựng của ông – huy động nhiều sức người sức
của – đã bị xem là bóc lột, nhất là tại vùng lãnh thổ phía bắc (1V 9,22, nhưng
nên xem thêm 1V 5,27; 11,28 và 1V 12).
Palestine/Canaan vốn
không phải là một môi trường thuần nhất, và những sắc thái nông nghiệp khác
nhau dẫn đến những sắc thái xã hội khác nhau, tình hình càng phức tạp hơn nữa
do bởi các đòi hỏi đóng góp vào công cuộc xây dựng của Salômôn bằng lao động và
thuế má. Khi Salômôn qua đời, các dân phía bắc (gồm 10 trong 12 chi tộc) ly
khai ra khỏi triều đình Giê-ru-sa-lem, và thiết lập một nước It-ra-en mới vào
năm 922 trước công nguyên. Vì thế, Thánh Kinh Do Thái gọi quốc gia phía bắc là
“It-ra-en”, và quốc gia phía nam là “Giuđa”. Nước Giuđa duy trì triều đại của
dòng tộc Đavít, trong khi It-ra-en được cai trị bởi một loạt nối tiếp các vua,
không vị nào trong đó rốt cục có thể thiết lập một vương triều khả dĩ vững
chãi. Vì thế quốc gia phía bắc xem ra bất ổn hơn. Ở phía bắc, các ngôn sứ thỉnh
thoảng dấy lên những cuộc cách mạng bằng cách công bố rằng Thiên Chúa đã chọn
một vị vua mới trong khi ông vua tại vị vẫn còn đang ngồi trên ngai!
Trong nửa sau thế kỷ 8
trước công nguyên, quốc gia phía bắc tham gia vào một khối liên minh các quốc
gia nhằm cố gắng chống lại áp lực ngày càng tăng của đế quốc Assiri. Khi vị vua
của quốc gia phía nam, vua Ahaz, từ chối tham gia vào liên minh này, các thành
viên của liên minh quyết định gây áp lực đối với Ahaz, và phát động một cuộc
chiếân tranh. Để ứng phó, vua Ahaz kêu gọi sự hỗ trợ của người Assiri – thế là
người Assiri bắt đầu xâm lăng về phía tây. Năm 722 trước công nguyên, liên minh
nói trên bị tiêu diệt bởi những người Assiri xâm lăng, trong đó có cả quốc gia
It-ra-en phía bắc.
Đế quốc Assiri sử dụng
một đường lối quân sự, nhằm bảo đảm sao cho các vùng bị chinh phục không thể có
khả năng tập hợp sức đề kháng. Điều này liên quan đến việc trục xuất những bộ
phận lớn dân chúng tại các vùng mới chinh phục, và thay vào đó bằng một nhóm
người được đưa đến từ một vùng khác của đế quốc. Nhưng đế quốc Assiri cuối cùng
bị lật đổ bởi một thế lực hùng mạnh mới nổi lên của người Mêsôpôtamia ở phía
nam vùng lòng chảo hai con sông Tigre và Euphrate – đó là những người Babylon.
Giữa những năm 640 và
609, nghĩa là, giữa cuộc suy tàn của đế quốc Assiri và sự bành trướng thanh thế
của người Babylon, vua Giôsia cai trị ở Giê-ru-sa-lem. Vua Giôsia được nhìn
nhận là có công phát động một cuộc cải cách quan trọng, tập trung mọi việc
phụng tự về Giê-ru-sa-lem (nghĩa là chấm dứt việc phụng tự trong các đền thờ
địa phương, tránh hiện tượng pha tạp với các thực hành tôn giáo của người
Canaan), đồng thời phục hồi một hình thức phụng tự Giavê cách tinh ròng hơn, có
lẽ để hưởng ứng lời kêu gọi của một số ngôn sứ. Công cuộc của vua Giôsia đặt cơ
sở trên Lề Luật được chứa đựng trong Sách Đệ Nhị Luật, và vì thế được gọi là Cuộc Cải Cách Đệ Nhị Luật. Phong trào này cũng gợi cảm hứng
thêm cho việc trước tác văn chương. Sau cái chết bi thảm của Giôsia trong một
chiến dịch chốâng lại người Ai Cập (609 trước công nguyên), “Lịch Sử Đệ Nhị
Luật” được biên soạn, bắt đầu với Giôsuê và tiếp tục tới cuộc xâm chiếm của
người Babylon như được mô tả ở cuối sách 2 Các Vua.
Người Babylon, cuối cùng,
đã có thể đánh bại các đạo binh Assiri vào năm 609 trước công nguyên. Sau khi
lên ngôi, vua Nabucôđônôso đã đưa người Babylon đi xa hơn về phía nam trên vùng
duyên hải Canaan, củng cố quyền kiểm soát của mình đối với khu vực như một trái
độn với người Ai Cập. Năm 597, vua trẻ Jehoiachin thần phục Nabucôdônôso, và
Nabucôdônôso nhận Giuđa làm một nước chư hầu, đặt một nhà cai trị do chính ông
chọn để làm một “tay sai” ở Giê-ru-sa-lem. Nabucôdônôso đặt tên cho vị vua mới
này là “Zedekiah” (sự thay đổi tên thường tượng trưng cho quyền kiểm soát chính
trị), đặt vua ấy lên ngai, rồi trở về Babylon với một nhóm người đi đày – trong
đó có cả vị vua trẻ Jehoiachin. Đây là khởi đầu của cuộc Lưu Đày, và rõ
ràng chỉ liên quan đến giới “thượng lưu của xã hội Giuđa” tức những kẻ có thể
trực tiếp đe dọa đến sự cai trị của Babylon.
Zedekiah làm vua chư hầu
trong 10 năm, nhưng suốt trong thời gian này ông đã nuôi tham vọng cai trị
Giuđa như một quốc gia độc lập. Có lẽ hành động mạo hiểm ấy của ông đã được
khích lệ do bởi những hứa hẹn giúp đỡ từ phía người Ai Cập, (như chúng ta có
thể ghi nhận các ngôn sứ như Giêrêmia đã gay gắt tố cáo ý tưởng cho rằng Ai Cập
sẽ cung cấp sự trợ giúp đáng tin cậy để vãn hồi nền độc lập). Khi Zedekiah
ngừng triều cống người Babyon, thì hành động này của ông có ý nghĩa như một
tuyên bố độc lập, và rồi chẳng bao lâu sau đó Nabucôdônôso một lần nữa kéo binh
mã làm cuộc tây tiến để lập lại quyền kiểm soát. Giê-ru-sa-lem bị tàn phá vào
năm 587-576, sau một cuộc vây hãm kéo dài, và các con của Zedekiah bị hạ sát.
Chính Zedekiah cũng bị tra tấn và bị đưa đi Babylon. Đền thờ bị tàn phá, các đồ
đạc trong Đền Thờ bị “tịch thu và đem đi” cùng với phần lớn dân chúng. Cuộc lưu
đày này có tầm vóc lớn hơn nhiều so với mười năm trước đó, và liên quan tới một
con số rất đông đảo dân chúng. Con số người bị đi đày được ước lượng từ 20 ngàn
tới 70 ngàn – rõ ràng đây là một tỉ lệ rất cao.
Cuộc “Lưu Đày Babylon”
này là một trong những biến cố rất hệ trọng trong vận mệnh của dân Do Thái;
nhưng nhóm người lưu đày đã sống còn và đã tái lập đức tin của họ. Khi rốt cục
người Ba tư đánh bại Babylon vào năm 539, hoàng đế Kyrô đã cho phép người Do
Thái trở về Palestine. Dù một nhóm khá đông những người Do Thái vẫn còn ở lại
Babylon, song “những cuộc hồi hương” khác nhau của người Do Thái (như được mô
tả trong Et-ra) đã cho phép tái lập lại đức tin, cộng đoàn, và ngay cả việc
phụng tự Đền Thờ.
Chúng ta không biết nhiều
về xã hội Giuđa thời hậu lưu đày. Chỉ có một vài cuốn sách được gán cho thời
này, chẳng hạn sách Hacgai, Dacaria, Malaki, và Etra-Nêhêmia. Tình trạng thiếu
thông tin này tiếp tục cho tới giai đoạn Hi Lạp (sau năm 333 trước công nguyên)
là giai đoạn mà chúng ta lại bắt đầu có những nguồn văn chương/lịch sử như các
sách ngụy thư (Apocryphal) và nhiều tác phẩm mạo thư (Pseudepigraphic)
khác nhau. Điều mà chúng ta có thể giả đoán, đó là cộng đoàn Do Thái đã hình
thành một căn tính và đức tin cộng đoàn mạnh mẽ duới sự lãnh đạo của các tư tế,
là những người xuất hiện như những vị lãnh đạo chủ yếu thay cho vương triều
Đavít. Niềm hy vọng về việc khôi phục một quân vương thuộc dòng tộc Đavít đã
trở thành căn bản cho một thời đại trong tương lai; niềm hy vọng này đôi khi
dấy lên những hoạt động có tính dân tộc chủ nghĩa nơi những người Do Thái ở
Palestine. Nhưng vào thời này, nhiều người Do Thái vẫn đang sống trong một
“Diaspora” (nghĩa là, tại những nơi không phải là Palestine/It-ra-en) trải rộng
từ Ai Cập tới xa bên phía đông qua khỏi lãnh thổ Babylon và Ba tư . Đối với họ,
đức tin không còn có nghĩa là sự tồn vong của đất nước, nhưng là căn tính thuộc
chiều kích tinh thần cũng như sự đề kháng lại tình trạng đồng hóa về mặt
văn hóa. Từ những cộng đoàn này chúng ta có những câu chuyện về những người Do
Thái trung kiên sống ở nước ngoài, chẳng hạn Đanien và Esther.
Từ thời lưu đày cho đến
thế kỷ 20, với chỉ một thời gian tương đối ngắn trước cuộc chiếm đóng của người
Rôma vào năm 64 trước công nguyên, dân Do Thái vẫn phải lụy thuộc về chính trị
và kinh tế vào những người không phải là Do Thái. Vì thế, Do Thái giáo và Kitô
giáo là những tôn giáo có gốc rễ được tìm thấy nơi những con người “bị xâm
lăng” về chính trị. Đức Giavê, một vị Thiên Chúa của những người nô lệ được
giải phóng, vì thế trở thành vị Thiên Chúa của những người bất lực và là vị
Thiên Chúa của sự phán xử đối với những kẻ áp bức, những người giàu có và những
người nắm quyền lực.
Nếu chúng ta không quên
rằng hầu như tất cả Thánh Kinh Do Thái đều được biên tập và sắp xếp
(nếu như không phải được viết trọn vẹn) bởi một dân tộc bất lực về chính trị,
thì các bài thánh ca của Thánh Kinh nói với một “Thiên Chúa của chinh chiến” sẽ
– một cách nào đó – mang những âm hưởng khác. Những ý niệm như thế sẽ có một ý
nghĩa hoàn toàn khác (và không có tính Thánh Kinh) khi được những người nắm
quyền lực trích dẫn nhằm phục vụ cho ích lợi của họ, hay khi được sử dụng để
trang trí cho các đại sảnh của Ngũ Giác Đài – biểu tượng của quyền lực thế giới
hiện đại. Còn ở đây, tất cả những nhận thức ấy lại đến với chúng ta từ các loại
văn khác nhau trong Thánh Kinh Do Thái, mỗi loại đóng góp những nhãn giới
riêng. Chúng ta hãy tìm hiểu vắn tắt một số trong các loại ấy và đồng thời tìm
hiểu một số vấn đề bật lên từ việc nghiên cứu những cuốn sách này ngày nay.
CÁC SÁCH CỦA
THÁNH KINH DO THÁI
Ngũ Thư Và Lịch
Sử Đệ Nhị Luật:
Lịch Sử Và Luật
Lịch sử It-ra-en được
tiêu biểu bởi nền luân lý rõ ràng của nó. Nếu quả thật rằng việc viết sử không
bao giờ chỉ có nghĩa là mô tả các biến cố, thì thuật chép sử của Do Thái đúng
là một minh họa tuyệt vời cho thấy lịch sử được viết ra với một động cơ và mục
tiêu được xác định rõ ràng trong tâm trí.
Công việc chính của các
nhà viết sử của It-ra-en cổ thời là minh họa sự nhận hiểu của họ về Thiên Chúa,
và cách thế mà Thiên Chúa dính líu vào đời sống của họ. Nói tóm, nó là văn
chương có tính tôn giáo chứ không phải là văn thư lưu trữ của triều
đình hay những tập ghi chép biên niên về lịch sử. Nắm vững nhãn quan này, chúng
ta sẽ tránh được rất nhiều những hiểu lầm không cần thiết. Chẳng hạn, việc
nghiên cứu lịch sử ban sơ trong Sách Sáng Thế (chương 1-11) sẽ rất bổ ích nếu
các sinh viên nhận ra rằng những câu chuyện này phải được đọc chủ yếu như là sự
chỉ dẫn căn bản về triết học và tôn giáo, chứ không phải như là những chỉ nam
“khoa học” về nguồn gốc của các loài. Như vậy, xem ra thái độ đúng đắn đối với
các trình thuật về sáng tạo hay lụt hồng thủy trong Sách Sáng Thế phải là một
sự trân trọng các bài học tôn giáo về trách nhiệm luân lý, về việc Thiên Chúa
bênh vực người chính trực, về việc Thiên Chúa can dự vào và quan tâm đối với
con người, và về sự cố chấp chống cưỡng của con người. Tham gia một đoàn thám
hiểm để tìm kiếm “các mảnh còn lại của con tàu Nôe” trên ngọn núi Ararat ở Thổ
Nhĩ Kỳ, đó không phải là thái độ thích đáng nhất để hưởng ứng các bản văn Thánh
Kinh, bởi vì làm như vậy là chúng ta bỏ qua sứ điệp cốt lõi của các bản văn ấy
và làm cho chúng trở thành một cái gì đó không còn là chúng nữa. Các sinh viên
hiện đại cần phải biết cách để đọc, để hiểu và để trân trọng Thánh Kinh Do
Thái. Lịch sử thuở ban sơ cho chúng ta biết nhận thức của người Do Thái cổ thời
về bản tính ngông cuồng của con người, về tình yêu và sự quan tâm bền bỉ của
Thiên Chúa.
Lịch sử thuở ban sơ được
nối tiếp bởi các câu chuyện về “các Tổ Phụ”của It-ra-en cổ: Abraham và Sara,
Isaac và Rêbecca, Giacóp và các con trai, Giuse bên Ai Cập. Mới cách đây khoảng
30 – 50 năm, các học giả đã bắt đầu tin tưởng hơn vào sử tính của các câu
chuyện các tổ phụ, nhưng những công trình gần đây trong lãnh vực khảo cổ và
phân tích nguyên bản đã khơi lên mối băn khoăn rằng phải chăng bất cứ tư liệu
nào trong Sách Sáng Thế cũng có thể được dùng để tái lập lại lịch sử cổ thời
một cách khả dĩ có ý nghĩa. Dường như tốt nhất là nên coi Sách Sáng Thế như một
câu chuyện với động cơ tôn giáo kể về nguồn gốc của dân Do Thái và về việc dân
này phân bổ thành thành các “chi tộc” được đặt tên theo những nhân vật được
nhắc đến trong các câu chuyện của Sách Sáng Thế (ví dụ, “mười hai chi tộc” ứng
với mười hai người con trai của Giacóp). Sự việc này đã cung ứng một lịch sử
thống nhất cho các dân tộc của Canaan trong khoảng thế kỷ 12 đến thế kỷ 10
trước công nguyên – đây là những người đã cải giáo để phụng thờ Giavê. Các câu
chuyện tổ phụ cũng nói lên mối quan tâm trung thành của Thiên Chúa, bất chấp
những gãy đổ thường xuyên của con người như được ghi nhận trong các câu chuyện
này.
Tuy nhiên, nét nổi bật
của năm quyển đầu tiên trong bộ Thánh Kinh không phải ở chỗ đó là những bản văn
viết sử mà là những bản văn ghi luật. Hầu như tất cả các luật tôn
giáo, luật dân sự, và các nguyên tắc luân lý của It-ra-en cổ thời đều được hệ
thống hóa nơi ba bộ sưu tập chứa đựng trong năm quyển sách đầu tiên. Bộ sưu tập
xa xưa nhất được gọi là “Bộ Luật Giao Ước”, được tìm thấy trong Sách Xuât Hành
(x. chương 19-24). Bộ sưu tập này được bổ sung ít nhất hai lần, bởi một bộ sưu
tập chính thức về luật từ cuối thế kỷ 7 trong Sách Đệ Nhị Luật (Deuteronomy
- tên gọi này vốn có nghĩa là “bộ luật thứ hai”) và có tên là “Bộ Luật Đệ
Nhị Luật”. Bộ sưu tập cuối cùng về luật bao gồm chủ yếu là các luật tư tế hay
tôn giáo (mặc dù không phải là không pha phôi các luật khác). Bộ sưu tập này
được thêm vào bởi các tư tế trong thời hậu lưu đày. Những luật này có thể được
tìm thấy trong Xuất Hành 25 -31, nhưng cũng xuất hiện suốt trong Sách Lêvi nữa.
Lớp cổ nhất của luật tư tế có lẽ là Lêvi 17-26 (được gọi là “Luật Thánh”, do
bởi câu nói lặp đi lặp lại: “các ngươi hãy nên thánh…”), nhưng được
chen vào bởi những luật có tính chú giải và bổ sung sau này trong sách Lêvi và
Dân Số.
Sự nhắc lại thường xuyên
các luật và các chủ đề về luật (ví dụ, sự kiện “Thập Giới” được gặp
thấy hai lần) được giải thích bởi việc bổ sung sau này, trong đó các tư liệu
luật của các giai đoạn khác nhau được thêm vào cho các bộ luật. Thật thú vị,
việc bổ sung các bản văn như vậy cho phép các sinh viên hiện đại làm công việc
đối chiếu, chẳng hạn như đối chiếu về tình trạng của phụ nữ và nô lệ trong luật
của It-ra-en qua các thời khác nhau. Từ lâu, khi đối chiếu giữa Bộ Luật Giao
Ước (Xh 21) với Bộ Luật Đệ Nhị Luật (Đnl 15,12-18), các học giả đã ghi nhận
“tính nhân đạo” ngày càng tăng đối với tình trạng của các nô lệ. Chẳng hạn, bộ
luật sau qui định rõ những thứ phải cung ứng khi phóng thích nô lệ, và hơn nữa
cấm việc giao trả các nô lệ đã trốn thoát về cho chủ (Đnl 23,16), vv… Có lẽ ấn
tượng nhất là mối kỳ vọng có vẻ không tưởng về công bằng xã hội được đưa ra bởi
các tư tế trong Lêvi 25, qui định rằng “Năm Toàn Xá” phải được cử hành để hoàn
trả tất cả những thửa đất đã mua về cho các chủ nhân ban đầu, như vậy có thể
phòng tránh sự gia tăng khoảng cách giữa người giàu và người nghèo bằng cách
phân phối lại đất đai sau mỗi 50 năm! Ở It-ra-en cổ, rõ ràng luật vừa có tính
chuẩn mực vừa có tính ứng dụng.
Các Ngôn Sứ
Thật rất tiếc rằng khi
nói đến các ngôn sứ, người ta thường có khuynh hướng tập chú vào ý niệm rằng đó
là những người “nói trước về tương lai”. Quả thật, hoạt động chính yếu của các
ngôn sứ là (1) làm một sứ giả của Thiên Chúa, trao sứ điệp của Thiên Chúa cho
người ta – giống như công việc của một sứ giả triều đình hay một giao liên, và (2)
làm một “công tố viên” của Thiên Chúa, nhân danh Thiên Chúa và nhân danh luật
của Ngài để đưa ra những phán xử về các hành vi tội lỗi, và (3) làm cho người
ta biết ý của Thiên Chúa, hoặc khi được thăm hỏi ý kiến về một điều gì đó cụ
thể, hoặc khi tự ý phát biểu tại những diễn đàn công khai, chẳng hạn tại các
cổng thành. Bất cứ ý tưởng nào về các biến cố tương lai cũng luôn luôn nằm
trong bối cảnh ưu tiên là các hoạt động chính yếu kể trên. Lời của các ngôn sứ
được nhắm đến cho chính thời của các ngài, và cho thấy rằng Thiên Chúa không
ngừng can dự vào lịch sử. Nếu cho rằng các lời của các ngôn sứ nhắm đến một
tương lai xa xăm nào đó, thì đó là chúng ta không chỉ tách các ngôn sứ ra khỏi
lịch sử (qua đó ta đánh mất điểm chính yếu là Thiên Chúa can dự vào lịch sử của
dân Ngài), mà còn tự đặt mình trước cái bẫy cố gắng “giải thích” lời ngôn sứ
“cho thời hiện đại” như thể đó là các lời tiên tri bí ẩn. Thật vậy, nói theo
ngôn ngữ của Mark Twain, người ta sợ lời của các ngôn sứ không phải vì chúng là
những thông điệp bí ẩn khó hiểu về tương lai, nhưng bởi vì chúng được hiểu quá
rõ và chúng nói về những biến cố thực tế trong đời sống của các vua chúa và dân
chúng là những thính giả trực tiếp nghe các lời ấy.
Các ngôn sứ của It-ra-en
cổ thời là những con người kỳ lạ và đầy lôi cuốn; người ta vừa sợ vừa kính nể
các ngài. Rải rác trong 1 & 2 Samuen, dường như lời ngôn sứ có các nguồn
gốc của chúng nơi những nhóm đặc sủng đi đây đi đó, phát biểu trong một tình
trạng ám thị, giống như xuất thần (1Sm 10,9tt). Song, dần dần các ngôn sứ lớn
đã được ghi nhận một cách cá nhân, các vị này sẽ tập hợp các truyền thống và
những truyền thuyết – cũng như những nhóm môn đệ – xung quanh mình. Tiêu biểu
nhất của sự phát triển này là các câu chuyện về Eâlia và Eâlisha trong Lịch Sử
Đệ Nhị Luật (1V 17-21; 2V 2-13), và cả các Sách Isaia và Giêrêmia nữa.
Mỗi trong các vị ngôn sứ
kể trên đều là một khuôn mặt độc đáo với một sự khác biệt thú vị trong nhãn
quan, mặc dù đối với một số sách quá ngắn người ta không dễ xác định một nhãn
quan dựa trên tư liệu quá ít ỏi (sách Obadiah chỉ dài có 21 câu; sách Nahum và
Malaki chỉ có 3 chương). Có lẽ chúng ta có được các bản văn ngôn sứ là nhờ ở
các môn đệ (hay trong trường hợp của sách Giêrêmia thì đó là nhờ một bạn đồâng
hành làm công việc của một ký lục) – các môn đệ này lặp đi lặp lại, tìm hiểu và
chú giải các truyền thống của thầy mình.
Vị ngôn sứ đầu tiên mà
chúng ta có các bản văn là Amốt. Ông là một con người có vẻ kỳ lạ; các lời tiên
tri của ông chứa đựng phán quyết hết sức gay gắt nhắm đến nhiều quốc gia, chứ
không chỉ nhắm đến It-ra-en và Giuđa mà thôi. Một số học giả tin rằng dăm câu
cuối cùng – nêu lên một niềm hy vọng nào đó – chắc hẳn không phải là của Amốt!
Nguợc lại với Amốt, Hôsê
sử dụng những hình ảnh thân mật và lãng mạn để nói về Thiên Chúa như người tình
hay người cha của dân It-ra-en, qua đó diễn tả nỗi buồn của ông trước sự cứng
đầu của It-ra-en (mà ông so sánh với hành vi ngoại tình hay hành vi hất hủi cha
mẹ). Hôsê thậm chí đẩy sứ điệp của mình tới chỗ đặt cho các con của ông những
cái tên có tính biểu tượng cho cơn giận của Thiên Chúa đối với dân Ngài (ví dụ,
Lo-Ammi có nghĩa rằng “ngươi không phải là dân của Ta”).
Không lâu sau khi Hôsê và
Amốt hoạt động ở phía bắc, các truyền thống vây quanh ngôn sứ Isaia đã xuất
hiện ở phía nam. Sách Isaia là một điển hình về truyền thống có thể được khai
mở bởi các ngôn sứ lớn và sau đó được tiếp tục. Vị ngôn sứ này hoạt động từ
khoảng năm 740 trước công nguyên, và các lời của ông chủ yếu được ghi lại trong
các chương 1-39 của Sách Isaia hiện nay. Trong khi đó, các chương 40-55 đến từ
một vị ngôn sứ khuyết danh hoạt động vào khoảng cuối thời lưu đày ở Babylon
(ước đoán như vậy bởi vì có những qui chiếu đến vua Kyrô của Ba tư , x. Is
45,1). Những nét tương đồng với các chương Isaia 1-39 đã làm cho các học giả
nghĩ đến sự tồn tại của một “truyền thống” Isaia trong đó có vị ngôn sứ khuyết
danh này.
Yếu tố thú vị nhất của vị
ngôn sứ này – mà các học giả gọi là “Isaia Đệ Nhị” – là việc sử dụng hình ảnh “người
tôi tớ đau khổ”. Hình ảnh này hầu chắc là một qui chiếu tập thể đến đám
dân It-ra-en lưu đày, nhưng có ảnh hưởng sâu sắc đến các Kitôhữu đầu tiên khi
họ cố gắng tìm cách giải thích các biến cố và ý nghĩa của cuộc sống, cái chết
và sự phục sinh của Đức Giêsu (x. Is 42,1-4; 49,1-6; 50,4-9 và 52,13-53,12).
Như vậy, hình ảnh đau khổ vì sự công chính và về ân phúc nhận được do sự đau
khổ ấy là một ý niệm tiên tri của Do Thái giáo chứ không chỉ là của Kitô giáo.
Những chương cuối cùng, chương 56-66, thường được gọi là “Isaia Đệ Tam”, là
những sưu tập các lời nói có lẽ bởi các môn đệ của Ngôn sứ Isaia Đệ Nhị. Đồng
thời, dường như những niềm hy vọng hòa bình của sưu tập thứ ba này đã ảnh hưởng
đến việc biên tập các bản văn của phần thứ nhất, như có thể nhận thấy ở các
chương Isaia 2,4,9,11 và có lẽ ảnh hưởng đến nhãn quan hòa bình ấn tượng nhất
trong toàn bộ Thánh Kinh: phần sau của Isaia 19.
Giêrêmia có liên quan
trực tiếp đến bầu khí chính trị xung quanh cuộc cải cách Đệ Nhị Luật và cuộc
sụp đổ của quốc gia phía nam rơi vào tay người Babylon. Ông có lẽ được biết đến
nhiều nhất ở sự kiện ông xác tín cách lạ lùng rằng cuộc chinh phục của người
Babylon là do ý Thiên Chúa muốn, và rằng vì thế dân Giuđa phải “gập cổ” vác lấy
cái ách Babylon trong một thời gian. Rõ ràng Giêrêmia chia sẻ nhãn quan chung của
trường phái Đệ Nhị Luật rằng các biến cố lưu đày là hình phạt do giai đoạn
khước từ lề luật của Thiên Chúa trước đó. Sách Giêrêmia được biên soạn thành
hai phần chính, phần những lời nói theo thể thi ca của chính Giêrêmia và những
đoạn văn xuôi kể lại cuộc đời và thân thế của ông. Cả hai phần đều được thực
hiện do Barúc, là ký lục và bạn đồng hành của Giêrêmia.
Êdêkien, đàng khác, hoạt
động giữa đám dân lưu đày tại Babylon. Ông thường có những màn diễn đôi khi rất
kỳ lạ trước công chúng để minh họa các sứ điệp tiên tri của ông. Mối quan tâm
chính yếu của ông là sự lành mạnh tâm linh của những người dân lưu đày, nhưng
ông cũng quan tâm đến việc duy trì mối quan hệ của họ với đời sống tôn giáo mà
họ đã bỏ lại sau lưng ở Palestine khi đi lưu đày.
Các sách ngôn sứ còn
tiếâp tục được viết ra trong cộng đoàn sau thời lưu đày. Chẳng hạn, Hácgai chủ
yếu quan tâm đến việc phục hồi đời sống tôn giáo trong cộng đoàn hậu lưu đày,
nhất là nhấn mạnh đến việc xây dựng lại Đền Thờ. Cũng vậy, Dacaria tập chú đến
các vấn đề đức tin và thực hành trong cộng đoàn sau thời lưu đày.
Như vậy, các Sách ngôn sứ
là một nhân tố quan trọng giúp chúng ta hiểu biết tôn giáo Do Thái cổ thời,
nhưng chúng ta không nên quên rằng các ngôn sứ cũng là những kẻ gây chống đối
và bị loại bỏ. Các ngôn sứ, vì thế, được trân trọng bởi các thế hệ sau này
nhiều hơn là bởi chính những người đương thời của các vị. Các ngôn sứ trở thành
yếu tố quan trọng để nhận thức đức tin Do Thái, và đó là lý do vì sao người ta
gìn giữ và tiếp tục tìm hiểu các sứ điệp của các ngôn sứ.
Văn Chương Khải
Huyền Và Mối Quan Hệ
Của Nó Với Các Lời Ngôn Sứ
Một vấn đề lôi cuốn sự
chú ý cả của các sinh viên lẫn học giả, đó là cuối cùng hoạt động ngôn sứ đi về
đâu. Phải chăng các sấm ngôn cuối cùng cũng lụi tàn? Hay là nó tiến hóa thành
một cái gì đó khác? Gần đây các học giả đã nghiên cứu những lý thuyết khác nhau
nối kết những thay đổi trong hoạt động cuối thời ngôn sứ với sự xuất hiện của
các thị kiến khải huyền.
Một cách đặc trưng, văn
chương khải huyền chứa đựng sự mô tả về một (hay những) thị kiến có tính biểu
tượng cao và có tầm vóc rộng. Các thị kiến thường được mô tả một cách đầy hình
ảnh, thường với những chi tiết kỳ dị và được kèm theo bởi sự tường thuật của
một thiên thần hay một nhân vật đáng kính nào đó. Văn chương khải huyền trở
thành rất phổ biến vào giai đoạn của người Hi Lạp, và tiếp tục có ảnh hưởng cả
nơi người Do Thái giáo lẫn các Kitôhữu sơ khai vào thời lệ thuộc Rôma. Mặc dù
chúng ta chỉ có hai minh họa chính về nền văn chương khải huyền trong Thánh
Kinh (Đn 7-12 trong Thánh Kinh Do Thái và Sách Khải Huyền trong Thánh Kinh Tân
Ước), song nhiều ví dụ khác về các bản văn khải huyền phi Thánh Kinh của giai
đoạn nói trên vẫn còn được lưu giữ tới ngày nay. Dường như hoạt động ngôn sứ
được thay thế bởi các nhà thị kiến khải huyền, đó là những người – bằng các thị
kiến đầy tính biểu tượng – mô tả những điều liên quan đến cuộc phán xử
đang xảy đến đối với các nhà cầm quyền áp bức và mô tả các biến cố của thời đại
mình.
Văn chương khải huyền vẫn
còn liên quan sâu sắc với các biến cố hiện nay. Qua việc mường tượng sự can
thiệp của Thiên Chúa nhằm ủng hộ những người bị áp bức, các văn sĩ khải
huyền Do Thái kêu gọi một hoạt động phản kháng lại nền văn hóa và sự cai trị
của Hi Lạp và Rôma. Đặc biệt, các thị kiến của Đanien được gắn chặt với những
câu chuyện về các nhân vật Do Thái tại các tòa án ngoại quốc. Những nhân vật
này được làm chứng là đúng đắn trong sự kiên trung – hay nói cách khác: trong
sự phản kháng – của mình. Thật vậy, sau ba tháng đọc Thánh Kinh trong một nhà tù
ở Nam Phi, Mahatma Gandhi đã tuyên bố rằng Đanien là “một trong những người
phản kháng vĩ đại nhất lịch sử bằng con đường phi bạo lực”. Vì thế, văn
chương khải huyền minh họa một mối quan tâm chủ yếu của đức tin Do Thái thời
hậu lưu đày, khẳng định đức tin và căn tính trong những tình cảnh bất lực hay
thậm chí bị đàn áp.
Các Sách Khác
Phần chủ yếu cuối cùng
của Thánh Kinh Do Thái là một phạm trù rộng bao hàm rất nhiều bản văn được xếp
thành các nhóm. Thường được gọi là “Các Sách Khác”, phần này có các bản văn thi
ca tôn giáo, các câu chuyện, và các bản văn thuộc nền văn chương khôn ngoan.
Thi ca
Phần thi ca tôn giáo lớn
nhất trong Thánh Kinh là các Thánh Vịnh. Trong tư cách là văn chương đạo đức,
các Thánh Vịnh đã được viết qua một giai đoạn dài trong lịch sử Do Thái. Thi ca
Do Thái là một vấn đề gây nhiều tranh cãi. Chẳng hạn, người ta tranh cãi về vấn
đề thi ca Do Thái có hay không có qui cách rõ ràng, và nếu không có một qui
cách như vậy thì đâu là những yếu tố đặc trưng cho thể loại và cơ cấu của nó. Dù
sao, cũng có thể khái quát được vài điều về thi ca Do Thái ngay cả qua bản văn
Anh ngữ. Thi ca Do Thái, giống như thi ca Canaan, được đặc trưng bởi yếu tố
song đối. Sự song đối chỉ có nghĩa rằng dòng thứ nhất của bài thơ (“A”) một
cách nào đó được vọng lại nơi dòng thứ hai (“B”) và, đôi khi, cả nơi dòng thứ
ba nữa (“C”). Người ta đã cố gắng phân biệt các loại song đối khác nhau, khi
các phạm trù mô tả được tăng thêm. Nhưng giá trị của việc giải thích phức tạp
như thế là điều còn bị đặt vấn đề. Đối với sinh viên ở giai đoạn nhập môn, chỉ
cần chú ý đến mối liên hệ giữa dòng thứ hai (hay đôi khi dòng thứ ba) với dòng
thứ nhất – để có một khái niệm về song đối.
Đối với nội dung của các
Thánh Vịnh, cần ghi nhận rằng có nhiều loại Thánh Vịnh khác nhau liên quan với
những chủ đề khác nhau. Thánh Vịnh 29 và các Thánh Vịnh khác cho thấy rất nhiều
những nét tương đồng về văn chương và ngôn ngữ so với văn chương Canaan đến nỗi
các học giả tin rằng có vẻ như đó là một bài thánh thi Canaan dâng lên thần
Baal được vận dụng và thay đổi chút ít để trở thành một bài thánh thi dâng Đức
Giavê. Các Thánh Vịnh khác có nguồn gốc nơi các nghi lễ phong vương và những cử
hành mừng năm mới (Tv 72, 89, 2, 100). Các Thánh Vịnh khác nữa rõ ràng qui
chiếu đến các biến cố lưu đày, cho thấy một gốc tích muộn hơn nhiều (Tv 126,
137).
Đa số các học giả tin
rằng các Thánh Vịnh vốn là 5 bộ sưu tập khác nhau, được biên tập lại với nhau.
Điều này sẽ không chỉ giải thích hiện tượng một Thánh Vịnh đôi khi được lặp
lại, nhưng cũng giúp giải thích cả sự kiện rằng ở cuối mỗi trong năm quyển vốn
được cho là rời nhau ấy đều có một vinh tụng ca được cách điệu hóa: “Amen,
Amen” (x. phần kết của Tv 41, 72, 89, 106, 150).
Việc tìm hiểu các Thánh
Vịnh – xét như một phần của việc tìm hiểu tôn giáo It-ra-en – có một khía cạnh
dễ gây chán nản, đó là chúng ta chỉ có được một ý niệm mù mờ về cách thức mà
việc phụng tự đã thực tế diễn ra tại It-ra-en cổ. Chẳng hạn, các học giả giả
đoán rằng những sự thay đổi giữa ngôi thứ nhất số ít và số nhiều trong các
Thánh Vịnh có thể cho thấy thể xướng đối trong phụng tự, hoặc giả các Thánh
Vịnh ấy là những lời cầu nguyện cá nhân và chủ yếu được dùng bởi cá nhân; nhưng
đây chỉ là giả đoán mà thôi. Rất tiếc, không có “sách nghi thức” mô tả phụng tự
trong Đền Thờ cổ thời, và chúng ta chỉ có một chút ý niệm sơ sài về việc phụng
tự trong Đền Thờ thứ hai. Tuy nhiên, có một điều thật rõ: việc áp dụng các
Thánh Vịnh cho cả phụng tự tập thể lẫn cá nhân là đặc điểm nổi bật nhất của
quyển sách này.
Văn Chương Khôn
Ngoan
Văn chương khôn ngoan –
gồm những sách như Châm Ngôn, Gióp, Giảng Viên, Khôn Ngoan không phải là nét
độc đáo riêng của It-ra-en. Tại nhiều nơi ở Cận Đông cổ thời, chúng ta có thể
tìm thấy các ví dụ về những bộ sưu tập các câu nói khôn ngoan thường được viết
như thể một vị cha già đang khuyên nhủ đứa con mình hay một vị thầy đang chỉ
dạy học trò mình. Thật vậy, một phần của Sách Châm Ngôn, quyển chính yếu của
chúng ta về nền văn chương khôn ngoan, được lấy trực tiếp từ văn chương khôn
ngoan Ai Cập (Cn 22,17-24,12). Đây chắc hẳn do bởi các chủ đề chính của văn
chương khôn ngoan: các mối quan hệ, khiếu giao tiếp, sự cẩn trọng trong lời ăn
tiếng nói, tiền bạc và sự cần kiệm, những mối nguy hiểm của việc ngoại tình hay
việc ăn uống say sưa, sự cần thiết của việc thu thập thêm kiến thức,… là những
vấn đề căn bản của con người. Thật vậy, người ta đã lập luận rằng văn chương
khôn ngoan, vốn đặt cơ sở trên cái nhìn của con người, quả là một nền văn
chương thế tục. Hầu chắc đó là văn chương phát xuất từ giới thượng lưu trong xã
hội. Điều này càng được thấy rõ nơi cái nhìn của văn chương khôn ngoan về của
cải như một dấu hiệu cho thấy sự chúc phúc của Thiên Chúa – trong khi đó văn
chương ngôn sứ lại lên án giới giàu có như là những người không được Thiên Chúa
chúc phúc.
Nhưng nền văn chương khôn
ngoan, vốn đặt cơ sở trên cái nhìn của con người, cũng là căn bản cho tư tưởng
duy lý và nhất là cho cách suy nghĩ của khoa học.Văn chương khôn ngoan, chẳng
hạn Sách Giảng Viên, cực lực chốâng lại niềm hy vọng trống rỗng hay chủ nghĩa
duy tâm sai lầm, và nghiêng về cái thực tế vốn thường đáng buồn của thế giới
khả giác này và của con người trong đó. Vì thế, thật đáng ghi nhận rằng văn
chương khôn ngoan trong Thánh Kinh Do Thái có lẽ cho thấy rằng tất cả suy tưởng
của con người đều nằm trong thực tại đức tin. Nhưng văn chương khôn ngoan vẫn
có lực kình chống nó ngay trong Thánh Kinh. Quyển sách Gióp thường được mô tả
như là văn chương phản
khôn ngoan bởi vì sự khôn ngoan
không thể cung cấp các câu trả lời cho những vấn nạn nhức nhối của Gióp về lý do
tại sao người công chính phải chịu đau khổ (cũng như sự khôn ngoan nhân loại
của chúng ta vẫn tiếp tục bế tắc trước vấn nạn này!).
Cuối cùng, có những câu
chuyện nhỏ có ý nghĩa quan trọng trong Thánh Kinh, như Sách Eùt-te và Sách
Giona. Mỗi trong những sách này thể hiện một loại văn chương Do Thái vốn cũng
được nhận thấy trong các sách khác (Giuse trong Sách Sáng Thế, Đn 1-6), ngày
nay chúng ta gọi là “những câu chuyện Diaspora”. Đây là những câu chuyện quan
trọng phản ảnh hoàn cảnh của người Do Thái trong các cộng đoàn sau thời lưu đày
ở Palestine và bên ngoài Palestine. Mục đích chính của chúng là dạy người ta
trung thành với đức tin trong những giai đoạn khó khăn và lệ thuộc về chính
trị.
Dĩ nhiên, còn có thể nói
nhiều điều nữa về các sắc thái đa dạng của văn chương Thánh Kinh Do Thái. Chúng
ta đã lược qua một số loại văn chương và các sách có tính tiêu biểu, và đã ghi
nhận một số vấn đề nổi bật nhất liên quan tới mỗi loại. Nhưng việc nghiên cứu
Thánh Kinh chỉ thật sự thú vị khi các sinh viên bắt đầu học các công cụ, các
phương pháp và các kỹ năng phân tích để có thể tự mình đi vào khám phá bản văn.
Chúng ta hãy xem xét một số hình thức căn bản phân tích Thánh Kinh Do Thái,
đồng thời cũng ghi nhận các loại vấn đề cần phải được đặt ra.
NGHIÊN CỨU
THÁNH KINH
Sau khi đã tìm hiểu ba
phần chính của Thánh Kinh, chúng ta cần khảo sát một số vấn đề liên quan đến
việc phân tích Thánh Kinh. Một ví dụ tốt về việc phân tích Thánh Kinh là việc
tìm hiểu năm quyển sách đầu tiên của Thánh Kinh, và lý thuyết được hình thành
trong công cuộc nghiên cứu này gọi là “Giả Thuyết Theo Chứng Liệu”.
Giả Thuyết Theo
Chứng Liệu
Đọc sách Sáng Thế, ngay
cả những độc giả vô tình nhất cũng cảm thấy lúng túng bởi một loạt những hiện
tượng văn chương thú vị. Chẳng hạn, có hai câu chuyện khác nhau về sáng tạo,
đáng kể là sự khác biệt trong mô tả về thứ tự của tiến trình sáng tạo (cây cối,
thú vật, rồi đến con người trong 1,1 – 2,4a; con người, cây cỏ, rồi đến thú vật
trong 2,4b – 3, 24). Có những câu chuyện khác, chẳng hạn câu chuyện “Mối Đe Dọa
Đối Với Vợ Của Tổ Phụ” được lặp lại không dưới ba lần trong bản văn (12,10-20;
20; 26,1-11), và những câu chuyện khác được kể hai lần (sự xua đuổi nàng Hagar
trong chương 16 và một lần nữa ở chương 21). Hồi thế kỷ 18, các học giả đã chú
ý đến tính không nhất quán giữa những cặp chuyện khác nhau này. Chẳng hạn, một
trong hai bản của các câu chuyện được lặp lại sử dụng từ “Elohim” cho
Thiên Chúa, trong khi bản kia cứ dùng từ “Yahweh”. Một trong hai bản sẽ trình
bày Thiên Chúa có tính nhân cách hóa hơn (nghĩa là Thiên Chúa trong dạng một
con người, Ngài đi lại và nói với con người), trong khi bản kia vẫn giữ một cái
nhìn về Thiên Chúa uy linh, tách biệt khỏi con người và nói với con người từ
trời hay từ trong những giấc mơ.
Những ghi nhận ấy đã dẫn
tới “Giả Thuyết Theo Chứng Liệu”. Những đặc điểm căn bản của giả thuyết này thì
khá đơn giản, và cho dù giả thuyết này thường xuyên bị chất vấn, nó vẫn là một
cơ sở nền tảng để phân tích năm quyển sách đầu tiên của Thánh Kinh.
Theo Giả Thuyết Theo
Chứng Liệu, một sưu tập thuở ban đầu về luật và những truyền thống truyền khẩu
được tập hợp lại vào thời Salômôn để cung cấp một căn bản lịch sử cho đường lối
cai trị. Những hệ thống này, vốn nhất quán sử dụng tên “Yahweh”, đã hình thành
một sưu tập mạch lạc các tư liệu từ khởi đầu sáng tạo cho tới thời
quân chủ. Sưu tập ban đầu này được gọi là truyền thống “J”. Các học giả chuyên
về “phê bình văn loại” cố gắng nhận ra và tách riêng những bản văn hay những
mẩu chuyện nhỏ vốn có khả năng phát xuất từ truyền thống truyền khẩu. Có lẽ một
ít dòng thơ ca, hay hình thức tiền văn tự của câu chuyện, có thể được
nhận ra, và từ đây, chúng ta có thể xác định bằng cách nào truyền thống hay bản
văn đó đã được sử dụng và trau chuốt qua thời gian. Chẳng hạn, khi chú ý kỹ đến
các hình thức của truyền thống văn học dân gian, người ta có thể nhận thấy bằng
cách nào một số câu chuyện về các tổ phụ, vốn nguyên thủy là những câu chuyện
truyền khẩu, mãi sau này mới được các ký lục của Salômôn tập hợp lại trong sưu
tập của họ. Hơn nữa, một ý niệm nào đó về hình thức nguyên thủy của chúng có
thể cho chúng ta thấy cách mà các ký lục đã thay đổi những câu chuyện, hoặc
cách mà họ sử dụng những truyền thống truyền khẩu thời trước cho các mục đích
của họ.
Sau khi quốc gia quân chủ
thống nhất bị phân chia (922 trước công nguyên), vương quốc phía bắc có lẽ lập
lịch sử riêng cho mình, sử dụng từ Eâlohim cho Thiên Chúa, và những
tư liệu này vì thế được gọi tên là “E”. Một lần nữa, khoa phê bình văn loại có
thể chỉ ra cho chúng ta “văn loại” của những tư liệu mà các văn sĩ “E” đưa vào
bản văn, và họ nhắm mục đích gì qua bản văn của họ.
Rồi các văn liệu J và E
được bổ sung thêm trong thời của Những Cuộc Cải Cách Đệ Nhị Luật (sau 640 trước
công nguyên) bởi việc tăng cường quyển Đệ Nhị Luật (gọi là “D”). Hơn nữa, các
nhà biên tập này đã viết một phần chú giải rộng rãi về lịch sử It-ra-en từ nhãn
quan của các luật thuộc Đệ Nhị Luật. Lịch sử này được viết từ thời chinh phục
(Giôsuê) cho đến thời lưu đày Babylon (cuối quyển 2 Các Vua), và quan tâm chủ
yếu đến các bài học luân lý của Đệ Nhị Luật bằng cách minh họa các vua quái gở
của It-ra-en và Giuđa – là những vị vua bướng bỉnh phớt lơ Lề Luật của Môsê.
Cuối cùng, trong và sau
thời lưu đày, quyền lãnh đạo dân Do Thái chuyển từ độc quyền của hoàng gia
thành một thể chế cai trị kết hợp giữa hoàng tộc và giới tư tế, để rồi rốt cục
quyền cai trị chỉ thuộc về tư tế mà thôi. Trong thời này, giới lãnh đạo tư tế
đã thực hiện một cuộc tập hợp và biên tập lần cuối cùng các tư liệu Thánh Kinh.
Những tư liệu mà họ thêm vào năm quyển đầu tiên của Thánh Kinh vì thế được đặt
tên là “P”. Tư liệu P có thể được tìm thấy rải rác trong suốt năm quyển sách
đầu tiên ấy, bắt đầu với câu chuyện sáng tạo thứ nhất (là câu chuyện mang đặc
điểm của truyền thống tư tế, nêu bật tầm quan trọng của ngày Sabát, đến độ nói
rằng Thiên Chúa “nghỉ ngơi”). Các biên tập viên “P” dường như muốn cố gắng làm
sáng tỏ những vấn đề và những chi tiết tôn giáo trong nhiều điểm khác nhau, và
đưa thêm vào rất nhiều tư liệu cho Sách Lêvi và Sách Dân Số. Tuy nhiên, cuối
cùng, chúng ta cũng cần phải nhận ra rằng hiện nay chúng ta đọc năm quyển đầu
tiên của Thánh Kinh trong tư cách là một đơn vị là do bởi công việc của các tư
tế. Chẳng hạn, bằng cách tách Đệ Nhị Luật ra khỏi Giôsuê, các biên tập viên tư
tế đã đặt Môsê (ở chỗ ngưỡng cửa bước vào Đất Hứa) vào cuối bộ sách sưu tập
thánh thiêng nhất, tức bộ Torah này. Phải chăng những điều này là do ảnh hưởng
của hoàn cảnh lưu đày, hoàn cảnh mà trong đó chính họ cũng sống niềm hy vọng
được nhìn thấy Đất Hứa một lần nữa?
Ghi nhận một phác họa
tổng quát như thế về Giả Thuyết Theo Chứng Liệu [(J + E + D) + P], chúng ta
thấy rõ rằng bất cứ sự phân tích nghiêm chỉnh nào đối với bất cứ đoạn văn nào
của Ngũ Thư , và thật ra là của sử gia Đệ Nhị Luật, thì cũng đều phải bắt đầu với
một sự định vị xem đoạn văn ấy thuộc “nguồn” nào. Quá trình này gọi là “phê
bình nguồn văn”.
Một khi chúng ta đã nhận
ra “nguồn” của một bản văn, thật là thú vị việc xem thử bằng cách nào các biên
tập viên đã kết hợp các nguồn lại với nhau. Hình thức phê bình này được gọi là
phê bình “biên soạn” (redaction trong tiếng Đức). Hãy xem việc bổ sung câu
chuyện sáng tạo thứ nhất (bởi các văn sĩ P) ảnh hưởng như thế nào đến cách
chúng ta đọc bản thứ hai bắt đầu từ 2,4b. Ta có thể nhận ra rằng bấy giờ câu
chuyện thứ hai đóng vai trò như thể một chú giải cho câu chuyện thứ nhất, đến
nỗi nhiều sinh viên – khi chưa xem xét kỹ lưỡng – thậm chí không hề nhận ra
rằng đó là hai câu chuyện khác nhau!
Nghiên cứu Thánh Kinh là
một công việc thích thú ở chỗ nó luôn luôn có tính mới mẻ, do bởi các câu hỏi
mới không ngừng được nêu ra. Mới đây, các sinh viên và các học giả đã bắt đầu
mượn các câu hỏi và các phương pháp từ các môn khác để áp dụng vào việc nghiên
cứu Thánh Kinh. Chẳng hạn, phương pháp phân tích của khoa nhân học có thể giúp
chúng ta hiểu cấu trúc tương tự hàm chứa trong các câu chuyện về các tổ phụ hay
không? Nếu có, có lẽ chúng ta sẽ học biết thêm nhiều điều về những người đã
viết ra các câu chuyện đó. Phương pháp phân tích của khoa xã hội học có thể
giúp chúng ta hiểu về hệ thống kinh tế xã hội được giả định cho các câu chuyện
tổ phụ hay không? (Đời sống du cư? Đổi chác hàng hóa hay mua bán bằng tiền tệ?
Tài sản được tích lũy và được chuyển giao như thế nào?) Nếu có, chúng ta có thể
thậm chí có được nhiều manh mối hơn để xác định thời gian mà những câu chuyện
này được viết ra. Cuối cùng, những hình thức phê bình văn chương mới có thể
giúp chúng ta hiểu hơn về kết cấu của những câu chuyện ấy hay không? Và trong
tư cách là độc giả chúng ta sẽ cảm nhận gì về cách mà những câu chuyện ấy đã
được viết? Nếu câu trả lời là có, thì chúng ta sẽ càng có thêm lý do để trân
trọng các văn sĩ ấy và các sứ điệp của họ.
Để bắt đầu việc nghiên
cứu, các sinh viên cần có một bản dịch Thánh Kinh bằng tiếng Anh (12) tương đối
mới và chính xác. Không nên dùng bất cứ bản dịch nào trước năm 1950 (ít nhất
bởi vì sự kiện rằng các Cuộn Biển Chết được khám phá vào năm 1948). Tốt nhất là
nên dùng một bản New American Bible (NAB) hay một bản New Revised Standard
Version (NRSV) hoặc New Jerusalem Bible Study Edition. Bản New International
Version cũng được, nhưng các sinh viên mới nhập môn nên tránh bất cứ bản quảng
diễn Thánh Kinh nào, chẳng hạn bản Phillips, bản Living Bible, hay bản Good
News Bible, vv…
Khi đọc qua một bản văn,
các sinh viên nên chú ý sử dụng các từ điển Thánh Kinh để nắm chắc rằng một
thuật ngữ Thánh Kinh có đúng ý nghĩa mà một độc giả hiện đại giả định. Sau khi
mọi thuật ngữ đã được nhận hiểu, mọi nơi chốn đã được định vị trên bản đồ, thì
điều quan trọng là bắt đầu phân tích bản văn. Công việc này sẽ đòi phải liên hệ
đến nhiều sự chú giải hiện đại cho các sách khác nhau của Thánh Kinh. Các sinh
viên sẽ tìm thấy rằng trong những chú giải này có nhiều phương pháp mà các học
giả đã phát triển cho công việc phân tích một bản văn, mỗi phương pháp sẽ nêu
những câu hỏi hơi khác nhau về bản văn. Với lòng kiên trì bền bỉ, những câu hỏi
và những hình thức phân tích này sẽ trở nên vừa thích thú vừa đem lại nhiều ích
lợi. Ở đây bật lên điểm cuối cùng trong công việc dẫn nhập của chúng ta vào
Thánh Kinh Do Thái, đó là mối quan hệ của Thánh Kinh Do Thái với đời sống tôn
giáo hiện đại.
Đức Tin Và Thánh Kinh
Do Thái
Câu hỏi cuối cùng cần xem
xét: đâu là mối quan hệ giữa một bên là các vấn đề chú giải có tính lịch sử và
phê bình đối với các sách khác nhau, và bên kia là ý nghĩa của Thánh Kinh Do
Thái đối với đức tin thời hiện đại? Đây không hề là một câu hỏi dễ dàng, vì chỉ
cần nghĩ thêm một chút, chúng ta có thể nhận ra rằng việc nghiên cứu bản văn có
thể không dính líu gì đến một thái độ dấn thân hay một định hướng đặc biệt nào
về tôn giáo cả. Tuy nhiên, từ một quan điểm đức tin, ta sẽ thấy chính những
phương pháp này có thể hữu ích cho việc xây dựng thần học hiện đại. Khả năng
giải quyết những câu hỏi gay go được nêu lên bởi khoa phân tích phê bình là một
dấu cho thấy một niềm tin trưởng thành vào Thiên Chúa, ngay cả dù nó có nghĩa
rằng mình phải sống với những câu hỏi còn bỏ ngỏ hay những vấn đề phức tạp.
Chẳng hạn, không nhất thiết phải tin vào một con người lịch sử có tên là
Abraham để có được một đức tin sâu xa và vững vàng rằng Thiên Chúa không ngừng
truyền đạt cho chúng ta qua các câu chuyện về Abraham. Đó là lý do tại sao việc
nghiên cứu bản văn vẫn là việc rất quan trọng.
Một thần học đích thực
Kitô giáo không thể được xây dựng tách rời khỏi việc lắng nghe kỹ lưỡng những
bản văn này. Thánh Kinh Do Thái vẫn là nguồn chủ yếu cho đức tin của con người
hiện đại, và các Kitôhữu hiện đại có thể bắt đầu xây dựng thần học của riêng
mình bằng cách nghiêm túc tham chiếu đến vị Thiên Chúa đã giải phóng các nô lệ,
lật đổ các vua chúa, ngỏ lời qua các ngôn sứ, và hành động trong lịch sử.
Cuối cùng, vì quả thật
việc phân tích Thánh Kinh cách nghiêm túc sẽ thay đổi bản chất đức tin của bất
cứ sinh viên nào, nên có lẽ đây là lý do thuyết phục nhất mời gọi tất cả chúng
ta bắt đầu tìm hiểu Thánh Kinh một cách nghiêm chỉnh. Sự cố gắng của chúng ta
có thể giúp chúng ta nhận ra rằng những lời ấy không bỏ mặc một mình chúng ta
loay hoay, và cùng với ngôn sứ Giêrêmia, chúng ta sẽ thú nhận:
Có lần con tự nhủ: “Tôi
sẽ không nghĩ đến Người,
cũng chẳng nhân danh
Người mà nói nữa.”
Nhưng lời Ngài cứ như
ngọn lửa bừng cháy trong tim,
âm ỉ trong xương cốt.
Con nén chịu đến phải hao
mòn…
(Gr 20).
CÂU HỎI GIÚP
TÌM HIỂU
1.Vị trí của
Canaan/Palestine ảnh hưởng thế nào đến sự phát triển của tôn giáo theo Thánh
Kinh Do Thái?
2.Thánh Kinh Do Thái có
nhiều tính tôn giáo hơn là lịch sử, nói vậy có nghĩa gì? Điều này ảnh hưởng thế
nào đến đức tin của chúng ta?
3.Bạn hãy đối chiếu giữa
Ngôn sứ Amốt và Ngôn sứ Hôsê.
4.Hãy trình bày một số
chứng cứ chính yếu hậu thuẫn cho giả thuyết theo chứng liệu.
————————
(12) Dĩ nhiên, người Việt
Nam chúng ta thì cần bản Thánh Kinh bằng tiếng Việt, với những lưu ý tương ứng.
(c.t.c.n.d.)