Đức tin đến bởi sự người ta nghe, mà người ta nghe, là khi lời của Đấng Christ được rao giảng.

September 6, 2012

HTTLVN Dưới Mắt Người Công Giáo

Viết bởi GS Đỗ Hữu Nghiêm   
Chuyên mục: Công Giáo
I. GIÁO HỘI TIN LÀNH CẢI CÁCH PHÁP (ÉGLISE RÉFORMÉE DE FRANCE)
Các giáo hội Cải Cách được thành lập tại Việt Nam đều do các tổ chức truyền giáo từ bên ngoài mang vào. Kể từ khi xảy ra phong trào Cải Cách trong lòng Giáo Hội Kitô ở đầu thế kỷ XVI tại châu Âu, Đạo Tin Lành đã có mặt tại Việt Nam từ rất sớm vào thế kỷ XVII qua các mục sư tuyên úy, qua các tín đồ thương nhân người Pháp, Hà Lan hay Anh đi trên các thương thuyền ghé Việt Nam để làm ăn buôn bán . Dĩ nhiên họ chỉ làm công việc mục vụ mà chưa có những nỗ lực truyền giáo.
Đến khoảng năm 1790-1825, người ta thấy trong hàng ngũ quân viễn chinh Pháp tại Việt Nam có viên sĩ quan hải quân, Jean Baptiste Chaigneau, một tín đồ Tin Lành, từng làm cố vấn cho họ Nguyễn[2] .
Không kể tại các nước thuộc các châu lục khác, chỉ riêng tại Hòa Kỳ vào thập niên 1970, đã có hơn 300 giáo hội khác nhau phát xuất trực tiếp hay gián tiếp từ phong trào Cải Cách Kitô giáo từ đầu thề kỷ XVI tại châu Âu. Trong công cuộc mở mang lãnh thổ, khai thác tài nguyên và di dân sang các châu lục, người châu Âu, châu Mỹ cũng mang theo những hành trang văn hóa của chính mình, trong đó có Đạo Tin Lành. Nhiều Giáo Hội Cải Cách khác nhau đã lần lượt đến Việt Nam.
1. Giáo Hội Tin Lành Cải Cách Pháp (Église Réformée de France)
Từ cuối thế kỷ XIX, sau khi Pháp xâm chiến Việt Nam tiếp theo hiệp ước bảo hộ 1884, giới Tin Lành Pháp [3]đã phái một số mục sư đến Việt Nam làm tuyên úy cho những tín đồ Tin Lành làm việc trong các cơ quan quân sự và dân chính tại Đông Dương[4].
Năm 1894 nhà thờ Tin Lành đầu tiên tại Đông Dương được một mục sư tuyên úy người Pháp tổ chức ở Hải Phòng. Năm 1902 nhà thờ Tin Lành Pháp lần lượt được thiết lập tại Hà Nội ở địa điểm Phố Hàng Da, rồi tại Sài gòn ở địa điểm số 2bis đường Norodom (tức là Thống Nhất, rồi nay là Lê Duẩn Sàigòn). Về sau giới Tin Lành Pháp lập thêm nhà thờ tại Đà Lạt [5].
Giới Tin Lành Pháp [6]đã chủ định mở mang công cuộc truyền bá Tin Lành cho người Việt, nên từ năm 1918 đã vận động lập một phái bộ nghiên cứu chuẩn bị cho một kế hoạch truyền giáo Tin Lành ở Đông Dương.
Ngày 21.3.1921, Phái bộ họp mặt từ giã tại Nhà nguyện phố Madame ở Paris để đến làm việc tại Hà Nội, với 4 thành viên đầu tiên là mục sư Paul Monet, mục sư Ulysse Soulier, và hai thanh niên truyền giáo Samuel Vũ Tam Thất, và Đội Dương. Paul Monet xuất thân là một kỹ sư trắc địa làm việc trong ngành công binh của Pháp, Soulier làm việc cho cộng đoàn Tin Lành Pháp, hai nguòi còn lại là những cựu binh Việt được đưa sang Pháp thời thế chiến I.
Phái bộ đến Hà Nội cuối tháng 2 năm 1922. Paul Monet bắt đầu hoạt động [7]với việc thành lập một Hội Sinh Viên An Nam [8], điều hành tờ Tạp Chí [9] của Hội và Trung Tâm hoạt động cho sinh viên tại số 5 Phố Vọng Đức Hà Nội. Với ý thức hội nhập văn hóa, Monet tổ chức và trang trí Trung Tâm theo kiểu Á Đông, đề cao việc học chữ quốc ngữ và phát triển tinh thần truyền thống Á Đông qua các bài diễn thuyết. Trung Tâm tại Vọng Đức đúng là một câu lạc bộ sinh viên kiểu hiện đại: có thư viện, có bếp ăn tập thể, có ký túc xá, có các chương trình diễn thuyết, du khảo cho sinh viên đến các cơ sở kinh tế, thắng cảnh văn hóa du lịch để mở rộng tầm nhìn và gây dựng ý thức truyền thống và phát triển nơi thanh niên trí thức.
Paul Monet chủ trương không tổ chức việc truyền giáo trực tiếp, nhưng tạo điều kiện phục vụ tốt nhất cho sinh viên và từ đó giúp họ làm quen và có thiện cảm với các hoạt động thể hiện tinh thần và tư duy Kitô trong các chương trình của Trung Tâm. Kế hoạch của Paul Monet không được sự tán đồng của nhiều người trong giới Tin Lành Pháp và cả của những thành phần chống đối bên ngoài Tin Lành. Sự rạn nứt khởi đầu bằng việc Ulysse Soulier chuyển lên địa điểm truyền giáo tại Bắc Ninh cho các đối tượng bình dân hơn. Tài trợ từ các tồ chức Tin Lành ở chính quốc Pháp được chuyển hết cho hoạt động của Soulier. Nguồn tài trợ không đủ, lại thiếu sự thống nhất trong chủ trương truyền giáo, Phái Bộ Nghiên Cứu Pháp tan rã, cho dù có Georges Bois , ngươi tán đồng chủ trương của Monet, được cử đến thay thế Ulysse Soulier từ tháng Ba năm 1923. Giữa năm 1924, vì thiếu tài trợ, Trung Tâm Thanh Niên tại Hà Nội phải đóng cửa. Từ mùa hè năm 1924, Georges Bois [10] ở lại Việt Nam làm giáo sư triết học tại Trường Albert Sarraut Hà Nội cho đến năm 1947. Đến tháng 7 năm 1925, mọi hoạt động của Phái Bộ Nghiên Cứu phải chấm dứt. Paul Monet tham gia tích cực một thời gian cho tổ chức Hướng Đạo với Jean Hoffet [11]và Emmanuel Niedrist [12], có nhiều bài trong tập Cahiers de la Jeunesse cổ vũ cho việc nâng cao nếp sống và tinh thần của giới thanh thiếu niên Việt Nam thông qua sinh hoạt Hướng Đạo.
Paul Monet chết ngày 26.6.1941 tại Marseille sau những lao lực và thao thức truyền giáo.
Các hoạt động của giới Tin Lành Pháp từ sau đó chỉ hạn chế trong sinh hoạt mục vụ tại 4 trung tâm chính cho các tín đồ Tin Lành Pháp tại Hà Nội Hải Phòng trước 20.07.1954 và tiếp tục ở Sài gòn và Đà Lạt cho đến trước 30.04.1975. Một số cá nhân tín đồ Tin Lành Pháp, do cương vị có ảnh hưởng trong chính quyền Pháp, hay do các hoạt động nghiên cứu về pháp chế đã góp phần yểm trợ cho giới Tin Lành Hoa Kỳ trong các nỗ lực truyền giáo tại Việt Nam, như ở Trung Kỳ [13] (1925-1935) và Tây Nguyên (1940-45).
Cho tới trước 30.4.1975, Mục sư Bertrand de Luze rồi Pierre Médard vẫn là những người hoạt động tích cực tại Nhà Thờ Tin Lành Pháp số 2b Đường Thống Nhất Sài Gòn, cổ vũ cho và tham gia nhiều sinh hoạt đại kết Kitôgíao, nhất là trong dịp tuần lễ cầu nguyện cho hợp nhất Kiô giáo hằng năm và vào các dịp đại lễ Phục Sinh và Giáng sinh mỗi năm (tổ chức thánh ca và cầu nguyện đại kết giữa một số anh chị em thuộc nhiều giáo hội Tin Lành khác nhau (Mennonite, Cải Cách Tin Lành Pháp, Cơ Đốc Phục Lâm) và Công giáo tại 2bis Thống Nhất hay nhà nguyện bên trong bênh viện Grall hay nhà nguyện Regina Pacis đường Tú Xương Sài Gòn [14])
Chú thích
[1] Mục sư tuyên úy J. Pannier làm việc tại chi hội Hà Nội năm 1902-1905 đã lục tìm được nhiều chứng cliệu tại thư viện Hà Nội. Georges Bois, Histoire des Missions en Indochine et les Protestants francais (Lịch Sử Các Phái Đoàn Truyền Giáo tại Đông Dương và các tín đồ Tin Lành Pháp). Villeneuve-les-Avignon: Manuscrits, 1952, 119pages , 13x19cm, t. 18-24 (Les premiers protestants en Indochine).
[2] Georges Bois, Histoire des Missions en Indochine et les Protestants francais (Lịch Sử Các Phái Đoàn Truyền Giáo tại Đông Dương và các tín đồ Tin Lành Pháp). Villeneuve-les-Avignon: Manuscrits, 1952, 119pages , 13x19cm, t. 19.
[3] Nói chung Đạo Tin lành tại Pháp đi theo xu hường Cải Cách Calvin, nhưng các tổ chức truyền giáo cho các thuộc đia khác nhau của Pháp thi rất khác nhau. Tổ chức mới nhất cho đến trước 1975 bảo trợ cho sinh hoạt Tin Lành Pháp tại Sài Gòn thuộc vào Commission géné rale des Églises Réformées Francaises d'outre-mer, CGERFOM. (Đỗ Hữu Nghiêm, Phương pháp truyền giáo của Tin Lành giáo tại Việt Nam. Sài Gòn: Viện Đại Học Sài Gòn, Trường Đai Học Văn Khoa, Luận Án Cao Học Sử Học, 1968, 319t, khổ A4, tt. 47-48,
[4] Georges Bois, Histoire des Missions en Indochine et les Protestants francais (Lịch Sử Các Phái Đoàn Truyền Giáo tại Đông Dương và các tín đồ Tin Lành Pháp). Villeneuve-les-Avignon: Manuscrits, 1952, 119pages , 13x19cm. Tác giả có nói đến Théophile Boisset, một mục sư tuyên úy Pháp đến làm việc tại Hải Phòng năm 1884
[5] Các mục sư và truyền đạo Pháp đến làm việc tại Việt Nam: Các mục sư Théophile Boisset ( Hải Phòng, từ 1884), Jacques Pannier (Hà Nội, 1902-1905), Métayer (Sài Gòn, 1902), Louis de Saint-André, Hà Nội,1904-1911); Adolphe de Richemond (Hà Nội, 1906-)Truyền đạo Mercadier và Bonnet (Hải Phòng, 1902-1911), Thư báo truyền đạo Bonnet (Đà Nẵng, 1902...); André de Richemond (Hà Nội,...); Ulysse Soulier (Hà Nội, 1922-23); Paul Monet (Hà Nội, 1922-1925), Georges Bois, Hà Nội, 1923-1925), Thomas Calas (Hà Nội, 1930-...); Bertrand de Luze (Sài Gòn, Đà Lạt, 1949-...); Pierre Médard (1960-1975)
[6] Tức tổ chức La Société des Missions de Paris với các mục sư Raoul Allier, Marc Boegner và Thiếu Tá Roux là những người cổ động tích cực lập ra các Annamita, những đơn vị tài trợ từ các chi hội Tin Lành Pháp.
[7] Đỗ Hữu Nghiêm, Phương pháp truyền giáo của Tin Lành giáo tại Việt Nam. sđd, tt.132-142.
[8] Foyer des Étudiants Annamites
[9] Tạp chí song ngữ Việt Pháp Bulletin du Foyer des Étudiants Annamites, số 1 ra tháng 7/1923 và số cuối cùng 5-6, cho bán niên thứ hai năm 1924. Ngoài ra P. Monet cung cho ra đời tạp chí tam cá nguyệt "L'Évangile en Indochine Francaise, 6 số, 1922-23)
[10] Trong quá trình nghiên cứu của tôi, trong thời gian từ 1965 cho đến khi qua đời (1972), Ông G. Bois là người đã tận tình trao cho tôi bản thảo của chính ông và nhiều tư liệu mà ông cắt từ trong các báo chí và sách vở. Đó là một gương mẫu bác ái Kitô mà ít có ai sánh kịp và tôi chiêm ngưỡng bái phục với lòng biết ơn. Ông không nề hà tôi là một tín đồ Công giáo.
[11] J.H. Hoffet là một nhà địa chất học, sau làm giáo sư tại Trường Đại Học Hà Nội. Trong suốt 8 năm giảng dậy tại Hà Nội cho đến khi mất tích năm 1945 trong cuộc chiến tranh chống Nhật, ông đặc biệt đào tạo nhóm 30 sinh viên đia chất của ông tại Phân Khoa Khoa Học. Một số sinh viên Tin Lành đã tham gia bày Van Vollenhoven do ông gây dựng . (G. Bois, Histoire des Missions, sđd, tt.90-91).
[12] E. Niedrist đến Đông Dương với tư cách một kỹ sư điện năm 1934, làm Phó Giám Đốc nhà máy điện Huế.Ngay đầu năm 1936, ông thành lập Liên Đoàn Hướng Đạo Đông Dương, tạo một tinh thần đoàn kết hân ái giữa nhiều nhóm hướng đạo khác nhau. Ông mất ngày 30.6.1945 ở gần Stung Treng sau khi bị quân Nhật bắn bi thương trong cuộc kháng Nhật trong rừng rậm. . (G. Bois, Histoire des Missions, sđd, tt.87-90).
[13] Các tổ chức Annamitas vẫn tồn tại sau năm 1925, và được Saillens cổ vũ, hy vọng tài trợ cho các nỗ lưc truyền giáo mới tai Đông Dương.. Năm 1928, Poujol mở chiến dịch đấu tranh cho Tin Lành được tự do hoạt động tôn giáo. Cũng trong thơi gian 1928-1929, Peyron, một cựu ủy viên của Cứu Thế Quân cũng đến thăm Đông Dương theo lời mời của Thất và Đương. Năm 1929-1930, giới Tin lành đấu tranh trong nghị trường và báo chí Pháp cho tự do hoạt động của Tin Lành ở Đông Dương. Tại Đai Hội Tin Lành Pháp năm 1930, vấn đề truyền bá Tin Lành cho Đông Dương lại được nêu ra, nhất là do hai ông Allegret và André de Richemond.Sau năm 1930, một nhóm thanh niên Pháp Việt với sự thúc đẩy của Hoffet va Niedrist xúc tin việc tổ chức phong trào hướng đạo ở Trung Kỳ.
Trong giai đoạn 1940-1945, Viên Khâm Sứ Trung Kỳ người Pháp là Grandjean đã có những hành động làm lợi cho Đạo Tin Lành tại khu vục Trung Kỳ và Ban Mê Thuột, nhất là liên quan tới mục sư Nguyễn Hậu Nhương và Viên Trú Sứ Pháp Salomon. (Đỗ Hữu Nghiêm, Đạo Tin Lành nơi các dân tộc ít người ở Nam Trường Sơn -Tây Nguyên, 1928-1975. HCM: Viện Khoa Học Xã Hội Tại Tp HCM, Trung Tâm Sử Học, Khảo Luận sử học, 1995, 163tt., bản vi tính khổ A4, tt. 73-75. Marcel Catarini & Philippe Grandjean, Le Statut de Missions en Indochine. Hanoi: IDEO, 1942.
[14] Vào dịp đai lễ Phuc Sinh năm 1965, Ca Đoàn Trùng Dương thuộc Liên Đoàn Sinh Viên Công Giáo Sài Gòn đã tổ chức với sự tham gia của Ca Đoàn Mennonite, Ca Đoàn Cơ Đốc Phục Lâm tại nhà nguyện Regina Pacis một Buổi Thánh Ca Cầu Nguyện Đại Kết dưới sự chủ tọa chính của Đức Khâm Sứ Tòa Thánh Angelo Palmas và hai mục sư Hội Trưởng Hội Thánh Tin Lành Mennonite Luke Martin và Hội Trưởng Giáo Hội Cơ Đốc Phục Lâm Ralph E. Neall. Rất đông tín đồ của ba giáo hội đã tham dự buổi ca nguyện đại kết này.
2. GIÁO HỘI
(truyền thống Hội Truyền Giáo Phúc Âm Liên Hiệp,
tức The Christian and Missionary Alliance hay C&MA).
Trong lúc giới Tin Lành Pháp thất bại trong nhiều toan tính truyền bá Tin Lành cho Việt Nam thì ở một vị thế bất lợi hơn, những nhà truyền giáo [1] Hoa Kỳ, khởi đầu là tổ chức truyền giáo Hội Liên Hiệp Cơ Đốc và Truyền Giáo mà giới Tin Lành Việt Nam thường gọi là Hội Phước Âm Liên Hiệp [2], đã dần dần mang Tin Lành đến với người Việt.
1) Giáo lý cơ bản của HTTLVN là Lời Chúa hàm chứa trong Kinh Thánh, lòng tin của con người và ân điển của Chúa.
Đối với Đạo Tin Lành, Kinh Thánh là nguồn gốc lòng tin Cơ Đốc giáo, là kho tàng đức tin được Chúa mặc khải trọn vẹn cho con người. Vì thế Kinh Thánh chính là Lời Chúa; Kinh Thánh có thẩm quyền tối thượng, chứ không phải truyền thống, giáo hội hay giáo chủ. Chân lý Kinh Thánh nhiều khi mang tính chất sồng động cho bản thân người tín đồ thành kính đọc và lắng nghe Lời Chúa, và Chúa trực tiếp soi dẫn cho người tín đồ.
Đức tin vào Chúa có tính cách trực giao không qua trung gian nào cả. Mọi định chế, và cách thức thờ tự cũng như nhiệm tích không còn phải là những phương tiện và dấu chỉ Thượng Đế dùng để ban ân điển cho con người. Mỗi tín đồ có tính cách tư tế và làm thành một cộng đồng giáo hội.
Con người do tội lỗi không làm nên công trạng [3] gì, nên chỉ được cứu nhờ lòng tin vào Chúa và ân điển của Ngài.
Điều lệ của HTTLVN có ghi nội dung tin kính của tín hữu gồm 15 điều trình bày trong 15 mục theo ba chủ điểm:
Về bản tính thần linh, Đức Chúa Trời có Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần. Kinh Thánh chứa đựng Lời Chúa truyền dậy cho con người (4 mục); về lich sử cứu độ, con người được Chúa dựng nên, đã sa ngã trong thử thách, nhưng nhờ đức tin vào Cứu Chúa, con người được tái sinh, nên thánh và được chữa lành. Các tín đồ đã chịu báptêm (lễ nghi thanh tẩy) hợp thành Cộng đoàn (Hội) Thánh và thực hành đức tin của minh. Tín đồ tham dự lễ tiệc thánh như một cử chỉ hiệp thông, tuân giữ ngày Chủ Nhật để thể hiện sự tôn thờ Chúa, tin vào ngày tận thế Cứu Chúa sẽ trở lại phán xét con người. Con người tuân giữ luật thánh của Chúa sẽ sống lại hiệp thông với Chúa và cộng doàn đức tin của mình.
2) Tiếp theo lời kêu gọi của mục sư A.B Simpson[4] năm 1887, lần lượt nhiều nhà truyền giáo thuộc Hội Phước Âm Liên Hiệp đã được phái đến Việt Nam từ 1893 về sau[5]. Năm 1902 viên thư báo truyền đạo người Pháp là Bonnet của Thánh Kinh Hội cũng đến làm việc tại Đà Nẵng.
Phải đến năm 1911, khi R.A Jaffray cùng với hai nhà truyền giáo trẻ [6] thuộc Hội Liên Hiệp đến Đà Nẵng mua lại thửa đất của Thánh Kinh Hội [7]qua sự sắp đặt của Bonnet, thì kể từ đó công cuộc truyền giáo mới được thiết lập [8]thường xuyên. Cho đến trước khi Thế Chiến I bắt đầu, đã có 9 nhà truyền giáo đến Việt Nam : 4 tại Trung Kỳ, 5 tại Bắc Kỳ. Đề phòng những hoạt động gían điệp có thể có do người Đức thực hiện, năm 1915, tất cả các nhà truyền giáo không được chính quyền Pháp cho tiếp xúc với người Việt. Đến đầu năm 1916, Jaffray tìm gặp viên Toàn Quyền Pháp để giải tỏa những hiểu lầm và các nhà truyền giáo lại được theo đuổi công việc tại các lãnh thổ thuộc địa, tức là: Hải Phòng, Hà Nội, Đà Nẵng và Nam Kỳ [9] (cùng với Nam Lào). Sau Hội đồng Hội Liên Hiệp được nhóm lần thứ hai tại Hải Phòng cuối năm 1916, các hoạt động truyền giáo được củng cố thêm nữa.
Ở phía Bắc, tại Hà Nội nhờ một thửa đất do một tín dồ dâng ở ngay giữa nơi thị tứ, các cơ sở ban đầu của địa bàn truyền giáo hình thành: nhà thờ cùng các nhà phụ thuộc, nhà ở cho các nhà truyền giáo, nhà in. Các nhà truyền giáo bắt tay vào việc phiên dịch Kinh Thánh và soạn thảo các sách tôn giáo khác. Đã có những người đầu tiên tin đạo: một nhà điêu khắc, một nho sĩ thuộc hàng danh gia vọng tộc, một tín đồ lai Hoa Việt. Việc phiên dịch Kinh Thánh là công việc cần thiết hàng đầu do mục sư W.C. Cadman chịu trách nhiệm với sự cộng tác của ông Phan Khôi, một nho gia nhiều tài năng cũng là thầy dậy tiếng Việt cho các nhà truyền giáo kiêm cả việc duyệt lại các bản in Việt Hán, trong suốt 10 năm trời, với sự tài trợ rộng rãi của Thánh Kinh Hội Anh Quốc và Hải Ngoại [10].
Chi hội Hải Phòng đứng vững với một nhóm tín đồ người Hoa vừa từ Trung Quốc tới cùng với một số người Việt mới tin đạo, và chỉ vài năm sau một hội nhánh được thành lập tại Hải Dương.
Ở miền Trung, tại Đà Nẵng, ngôi nhà nguyện nhỏ bé bằng tranh được dựng lên năm 1913, bị đóng cửa năm 1915 và sau đó lại được mở lại. Năm 1915, ông Hoàng Trọng Thừa, một nho gia dậy tiếng Việt cho các nhà truyền giáo, tin đạo. Ông thông dịch lời giảng cho nhiều người đến nghe nói về Tin Lành. Chỉ trong ba tháng đã có 18 người tin đạo, trong đó có 4 người thuộc hoàng tộc, 3 viên chức thuế quan, 3 thư ký đường xe lửa. Qua họ, chỉ trong ít năm cả nghìn người tin theo đạo mới và đã lan rộng không phải chỉ ở Đà Nẵng.
Theo Hiệp Ước 1884, với cách giải thích của giới chức đương thời, Đạo Tin Lành không được phép hoạt động trên các lãnh thổ bảo hộ, kể cả Trung Kỳ. Nhưng một số người cư ngụ trong các làng quê chung quanh Đà Nẵng đã biết đến Tin Lành và tin đạo ở đó và sự kiện này tác động mạnh mẽ đến những người cư ngụ trên lãnh thổ bảo hộ. Một căn nhà thuê lại của một người Hoa ở Hội An đã dần dần biến thành nơi sinh hoạt cho các tín đồ mới với sự ngầm cho phép của chính quyền. Như một vết dầu loang, có thêm các cơ sở khác mọc lên ở nhiều nơi xa hơn. Đến khi chính quyền chính thức cho phép thì đã có chừng 2000 tín đồ ở khắp lãnh thổ Trung Kỳ.
Ở phía Nam, trong hai năm 1917-1918, có thêm 6 nhà truyền giáo đến tăng cường để mở rộng địa bàn hoạt động ở Nam Kỳ. Cơ sở được xây dựng và các nhà truyền giáo đầu tiên học tiếng Việt chuẩn bị cho nhiệm vụ mới. Mùa thu 1921, Hội đồng Hội Liên Hiệp nhóm lần thứ VII qui tụ 15 nhà truyền giáo, và năm 1922 lại có thêm người mới.
Tại Sài Gòn có tin đồn ai theo "đạo Huê Kỳ" thì được tặng 20 đôla, lại còn được cho sang Huê Kỳ học. Nhưng Đạo Tin Lành lại nảy sinh trước hết ở Mỹ Tho, khi một người đã có dịp đọc một phần sách Tin Lành nay tìm đến với nhà truyền giáo và xin gia nhập đạo. Ông này trước kia vốn lo việc cúng tế trong các lễ hội làng, nên khi tin đạo ông đã gặp nhiều khó khăn với bà con lối xóm. Thế nhưng lạ thay, rất nhiều người lại theo gương ông và chỉ trong ít năm có đến 10 nhà nguyện được thiết lập trong vùng này. Từ đó Đạo Tin Lành lan sang Tân Trạch, Cao Lãnh, Cần Thơ, Châu Đốc , rồi nhiều nơi thị tứ khác ỏ khắp Nam Kỳ, xuống đến tận Cà Mau.
Cuối cùng, Sài Gòn đến trước về sau, một thanh niên làm trưởng ga tin đạo, nhưng sau đó anh qua đời vì bệnh lao. Nhiều người tham dự đám tang của anh, họ xúc động trước lời nguyện giảng có ý nghĩa và nghi thức đầm ấm, đã theo nhau tin đạo. Nhà truyền giáo đã làm phép rửa cho 29 người và họ sớm trở thành hạt nhân quí giá cho chi hội Sài gòn được dựng lên ở ngay giữa thành phố, gần chợ và nhà ga (tức chi hội Tin Lành Trần Hưng Đạo ngày nay) .
3) Công cuộc truyền giáo có nhiều tiến triển. Khi mục sư Snead, thư ký đối ngoại củaHội Liên Hiệp đến thăm Đông Dương năm 1927, nghĩa là sau 16 năm có mặt và làm việc, Giáo Hội Tin Lành Việt Nam đã có khoảng 5000 tín đồ qui tụ thành những cộng đoàn bé nhỏ phân bố trên khắp ba vùng lãnh thổ Việt Nam (Bắc, Trung và Nam Kỳ). Tình hình phát triển này khiến cho Hội Liên Hiệp sớm nghĩ đến việc thành lập một giáo hội địa phương của Việt Nam, trao trách nhiệm điều hành và sinh hoạt cho giáo đoàn này dựa trên ba nguyên tắc tự lập, tự trị và tự dưỡng. Sự trưởng thành của giáo đoàn Tin Lành Việt Nam gắn liền với việc thiết lập và hoạt động tích cực của Trường Kinh Thánh Đà Nẵng cung ứng các cán bộ truyền bá Tin lành cho người Việt và các dân tộc ít người.
Những phụ tá người Việt đầu tiên được các nhà truyền giáo trực tiếp đào tạo. Nhưng vẫn cần có ngay một Trường Kinh Thánh trước khi Kinh Thánh được phiên dịch sang tiếng Việt. Những khởi đầu thật đơn giản: một vài tân tòng hiểu biết tiếng Pháp và chữ Hán xin các nhà truyền giáo mở một giáo trình Kinh Thánh buổi trưa (từ 11 giờ đến 14 giờ mỗi ngày) cho nhóm thanh niên tín đồ hầu hết là các công chức vào các ngày trong tuần, trừ Chủ nhật. Lớp Kinh Thánh đầu tiên này kéo dài ba năm, từ năm 1918.
Trường Kinh Thánh [11] được chính thức thành lập và do một nhà truyền giáo làm giám đốc (Mục sư Jeffrey) năm 1921, theo một chương trình học hoàn bị hơn tại một phòng học trước kia dùng làm chuồng ngựa. Trường Kinh Thánh dần dần tiếp nhận những học viên (truyền đạo sinh) từ xa đến. Năm 1928, nhà trường có một hội trường, nhiều phòng học, ba nhà lưu trú cho 90 học viên. Nhân viên giảng huấn gồm 4 nhà truyền giáo và 3 giáo sư người Việt . Nhà trường tiếp nhận cả các bà vợ của các học viên và các thiếu nữ, vì muốn cho các chi hội phát triển tốt thì càng cần có nhiều phụ nữ hiểu biết về Kinh Thánh cùng hợp tác.
Các giáo trình rất đơn giản, vì có một số các bà không biết đọc, biết viết. Chính đây là một hành động góp phần giải phóng người phụ nữ một cách thiết thực từ rất sớm trong HTTLVN.
Trường Kinh Thánh đã dần dần độc lập về tài chính, vì các chi hội Việt Nam chưa thể trang trải mọi chi phí. Trường Kinh Thánh thanh toán học phí cho họ hai năm đầu, còn sau đó Trường sẽ thu xếp cho từng trường hợp tùy theo điều kiện tài chính của mỗi người.
Chương trình học tập, về giáo lý Kinh Thánh và các bộ môn về nhiệm vụ mục sư truyền đạo, gồm ba năm học tại trường và hai năm thực tập với một nhà truyền giáo trên hiện trường nhiệm sở. Các học viên thực tập, tức là được đào tạo qua thực tế, góp phần rất lớn cho công cuộc truyền giáo nhất là ở các vùng sâu vùng xa, có khi thay thế các mục sư người Việt còn thiếu
Cho đến năm 1935, khoảng hơn 300 nam nữ học viên đã tốt nghiệp Trường Kinh Thánh Đà Nẵng, trong số đó 230 người vẫn đang làm việc. Trải qua rất nhiều thử thách, tỉ lệ thất bại là không đáng kể, và đa số đã chứng tỏ lòng trung kiên của họ theo tiếng gọi thiêng liêng của Tin Lành.
Đợt học viên tốt nghiệp đầu tiên vào năm 1927 lại trùng hợp với thời điểm Hội Thánh Tin Lành Việt Nam chính thức được thành lập [12] và dần dần giới Tin Lành Việt Nam đảm đương ngày càng nhiều hơn những trọng trách của giáo hội địa phương, và các nhà truyền giáo thuộc Hội Liên Hiệp đóng vai cố vấn, khích lệ yểm trợ cho các chi hội Việt Nam.
Năm 1927, một Đại Hội Đồng Tổng Liên Hội quan trọng có tính lập hiến được triệu tập tại Đà Nẵng qui tụ đại diện của các chi hội và hầu hết các nhà truyền giáo thuộc Hội Liên Hiệp, các mục sư, truyền đạo Việt Nam và mục sư người Hoa trong một tuần cầu nguyện, hiệp thông huynh đệ, và học hỏi Kinh Thánh. Chính nhờ đó Giáo Hội Tin Lành Việt Nam nhận thức rõ nét về tính thống nhất và trách nhiệm của mình qua những lời chứng chia sẻ, những điều xưng thú chân thật và khiêm hạ, cùng với những quyết tâm mới dấn thân cho việc mở mang Tin Lành.
Một Ban Quản Trị mới của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam được bổ nhiệm để đảm trách công việc chung của các chi hội và tổ chức Hội Đồng hằng năm. Ban Quản Trị cũng lo trang trải các chi tiêu phát sinh trong Hội Đồng này. Điều kiện quan trọng cho HTTLVN là từ nay là độc lập về tài chính, nhưng trước mắt đối với những chi hội tự trị nhưng chưa tự lập về tài chính, thì sẽ có một Ban Quản Trị hỗn hợp gồm các mục sư Việt Nam và các nhà truyền giáo Hội Liên Hiệp được chọn lựa sẽ lo giải quyết, và quyền điều hành và trách nhiệm Ban này vẫn do các nhà truyền giáo phụ trách. Ban Trị Sự Tổng Liên Hội HTTLVN do MS Hội Trưởng với 4 thành viên quản nhiệm ba địa hạt Bắc Trung Nam. Mỗi địa hạt lại có một Ban Trị Sự Đia Hạt do MS Chủ Nhiệm và 4 thành viên phụ trách. Đơn vị cơ sở là các chi hội do Ban Trị Sự chi hội gồm MS hay TĐ chủ tọa và 4 thành viên khác phụ trách với sự giúp đỡ của các chấp sự. Hội Liên Hiệp có một Ban Trị Sự riêng, tùy theo tình hình, cũng bố trí một cơ cấu và các chức vụ tương nhiệm để giúp đỡ giáo hội địa phương ngoài nhiệm vụ truyền giáo riêng của mình.
Trong năm 1928, Hội Liên Hiệp thiết lập Trung Tâm Huấn Luyện tại Đà Lạt dành cho Con Cái các nhà truyền giáo làm việc ở Đông Dương, Thái Lan, Nam Dương và Hồng Kông.
Khi đã được thành lập, Đại Hội Đồng Tổng Liên Hội có toàn quyền xây dựng một Hiến chế làm cơ sở chỉ đạo cho các hoạt động và trách nhiệm của giáo hội địa phương [13]. Từ cuối năm1939, các tôn giáo đều hoạt động theo qui chế của các hiệp hội do Bộ Nội Vụ quản lý cho đến trước 1975 tại Miền Nam Việt Nam.
Giáo hội Tin Lành địa phương phát triển khá nhanh. Năm 1935, HTTLVN có 35 mục sư , 85 truyền đạo và thầy giảng, Tại Nam Kỳ tất cả các chi hội đều độc lập về tài chính; Trung Kỳ và Bắc Kỳ có 17 chi hội tự trị, HTTLVN có 63 chi hội có đầy đủ tư cách thành viên, tự xây dựng nhà nguyện với nguồn tài trợ của chính mình [14]. Trong năm 1935, tổng số tiền dâng của các chi hội thành viên tương đương với 10.000 đôla. Các Đại Hội Đồng sẽ được luân phiên tổ chức ở các địa điểm khác nhau. Một tín đồ tại Cần Thơ dâng 1 chiếc xe hơi để làm phương tiện phục vụ.
Có một số khó khăn tại Trung Kỳ. Dù mục sư tiên khởi Hoàng Trọng Thừa xuất thân từ Huế, nhưng mãi đến 1929, mới có một nhà nguyện được dựng lên ở đây. Năm 1928, Mục sư Liêu bị bắt giam trong 6 tháng tại Nha Trang. Ra khỏi tù, ông không được ở lại Trung Kỳ, phải vào Nam Kỳ va chỉ được trở lại Trung Kỳ từ năm 1935. Những rắc rối tại Trung Kỳ được đưa ra tranh luận tại Viện Dân Biểu Pháp và cuối cùng Hoàng đế Annam ra sắc lệnh [15] ngày 5.12.1929 rút lại những biện pháp cản trở hoạt động của Đạo Tin Lành.
Cũng từ sau sắc lệnh này việc hoạt động của Tin Lành được tự do trên các vùng trước kia vẫn bị cấm như: Huế, Qui Nhơn, Thanh Hóa ở Trung Kỳ, Nam Định tại Bắc Kỳ. Nhiều chi hội nhánh được thiết lập tuy chậm chạp do việc phải xin phép riêng biệt với từng trường hợp khác nhau đối với các nhà chức trách địa phương.
Tại Quảng Ngãi, Đạo Tin Lành gặp một số khó khăn với chính quyền Pháp trong khi có nhiều hoạt động Cách Mạng đang diễn ra trong vùng chung quanh thời điểm 1930. Chi hội Huế phát triển chậm nhưng đã có một nhà nguyện được xây dựng ở Bố Trạch với tiền dâng gửi từ Mỹ sang.
Giáo Hội Tin Lành Việt Nam triển khai mạnh mẽ hơn việc truyền bá Tin Lành cho các thành phần dân tộc, người Kinh cũng như người thiểu số [16], như ở Lạng Sơn hợp tác vời các nhà truyền giáo Hội Liên Hiệp(Mục sư Jean Funé,1928), rồi Hòa Bình (1932) ở phía Bắc và Đà Lạt (Mục sư H.A. Jackson, 1928), Di Linh (K' Sol, 1930), Ban Mê Thuột (Mục sư G.H. Smith, 1933) thuộc vùng Tây Nguyên phía Nam. Thực ra từ năm 1926, mục sư Hoàng Trọng Thừa đã có dịp đến thăm "mọi Cà Lơ" (dân tộc Bru) ở vùng Khe Sanh và vận động cho công cuộc truyền đạo nơi các dân tộc miền núi.
Trong giai đoạn ban đầu, các nhà truyền giáo Việt Nam được bổ nhiệm làm việc chung với các nhà truyền giáo Hội Liên Hiệp ở các địa bàn dân tộc thiểu số. Ngay từ cuối thập niên 1940, HTTLVN đã dự trù thành lập một đoàn truyền giáo Thượng Du để góp phần truyền bá Tin Lành cho các dân tộc thiểu số. Trong quá trình trưởng thành của cộng đoàn Tin Lành Tây Nguyên, vùng Nam Trường Sơn và Tây Nguyên năm 1950 trở thành một địa hạt riêng (Thượng Hạt) có Ban Trị Sự riêng, và cũng có một đoàn Truyền Giáo Sắc Tộc cho các dân tộc ở phạm vi của mình.
Vào giai đoạn 1954-1975, ngoài các nhà truyền giáo Hội Liên Hiệp và HTTLVN, còn có thêm một số tổ chức truyền giáo thuôc các giáo hội khác như Cơ Đốc Phục Lâm (Seventh Day Adventists) (1942), Chiến Dịch Truyền Bá Tin Lành Thế Giới (WEC, Worldwide Evangelization Crusade) (1957) yểm trợ cho Hội Truyền Giáo Cơ Đốc [17], Hội Dịch Giả Kinh Thanh Wicliffe (Wicliffe's Bible Translators, Inc.) hay Viện Chuyên Khảo Ngữ Học Mùa Hè (SIL, Summer Institute of Linguistics) (1959) hoạt động nơi các dân tộc ít người.
Tổ chức Tin Lành quan trọng yểm trợ cho tất cả mọi giáo hội không phân biệt xu hướng đức tin, chính làcác Hội Kinh Thánh phân phát, cung ứng và tài trợ cho việc ấn hành xuất bản Kinh Thánh bằng mọi thứ ngôn ngữ, như Hội Ghiđêôn Quốc Tế (Việt Nam, 1959), Hội Biếu Tặng Kinh Thánh (PTL, Pocket Testament League, Việt Nam,1965), nhất là Thánh Kinh Hội Anh quốc và Hải Ngoại (đã nói trên)
Trong danh mục 34 nhóm dân tộc ít người do các học giả dân tộc - ngữ học thuộc SIL phân loại và thiết lập ở Nam Trường Sơn Tây Nguyên cho đến truớc 1975, 31 đề tài ngữ học khác nhau đã được nghiên cứu, 20 bộ môn giáo trình cho ba cấp học vỡ lòng, cấp I, II và tự điển được biên soạn, 30 phần Kinh Thánh khác nhau đã được dịch cho 21 dân ngữ ở Nam Trường Sơn Tây Nguyên.
Theo các tiêu chuẩn phân loại của các nhà dân tộc học Việt Nam, trên cả nước có 54 dân tộc [18], kể cả cộng đoàn dân tộc chiếm đa số phân bố rộng rãi trên khắp các vùng lãnh thổ là người Kinh. Các dân tộc khác chỉ là những nhóm thiểu số và thường sống trong các vùng rừng núi cao sát biên giới với các nước láng giềng của Việt Nam. Như thế, theo danh mục 54 dân tộc cư trú trên lãnh thổ Việt Nam được nhà nước chính thức công nhận, vùng Nam Trường Sơn - Tây Nguyên có 24 dân tộc và trong đó có đến 20 dân tộc được các nhà truyền giáo trực tiếp truyền bá đạo Tin Lành.
Nhưng cũng chính vào những năm trước sau 1930, HTTLVN trải qua một thử thách khá lớn lao do sự xuất hiện của Giáo Hội Cơ Đốc Phục Lâm được truyền bá từ bên ngoài vào và có một số tín đồ ở Cần Thơ rồi Tam Kỳ hưởng ứng.
Năm 1938, HTTLVN khai trình có: 9.642 tín đồ chính thức (đã chịu báptêm); 975 người chờ chịu báptêm; 5.340 tin đạo và cầu nguyện (chưa chịu báptêm).
Trong thời gian thế chiến II 1939-1945, dưới quyền thống trị của Nhật Pháp, và cho đến trước khi quân Pháp bị đánh bại tại trận Điện Biên Phủ ngày 7.5.1954, cả nước lâm vào cuộc kháng chiến chống Pháp, Giáo Hội Tin Lành lại phải chịu những khó khăn chung do thời cuộc gây ra. Nhiều cơ sở thờ tự cũng như nhà cửa bị tàn phá, một số mục sư tín đồ thiệt mạng tại một số nơi trên cả nước như Nam Định, Khánh Hòa, Cần Thơ, Ban Mê Thuột.
Sau 20.07.1954, việc chia cắt đất nước tạm thời ở vĩ tuyến 17 đã thay đổi tình hình và xu hướng phát triển của Đạo Tin Lành trên hai vùng lãnh thổ. Trong khi ở phía Bắc HTTLVN vẫn tồn tại trong chừng mực nhất định, thì ở phía Nam, hoạt động của giới Tin Lành trở nên sôi động với nỗ lực truyền giáo của HTTLVN cũng như của nhiều giáo hội Cải Cách khác, nhất là ở vùng rừng núi Nam Trường Sơn và Tây Nguyên dưới nhiều hình thức như giáo dục, y tế, công tác xã hội, nghiên cứu ngữ học, dân tộc học, phiên dịch Kinh Thánh sang ngôn ngữ các dân tộc, nhất là dân tộc thiểu số.
Vào khoảng năm 1968, một vài số liệu thống kê cho ta biết HTTLVN ở phía Nam vĩ tuyến 17 có 334 chi hội, với 131 mục sư, 151 truyền đạo, 68 truyền đạo sinh chăm sóc cho khoảng 50.000 tín đồ chính thức và khoảng 250.000 tín đồ nam phụ lão ấu chưa chính thức. Hội Liên Hiệp có 96 nhà truyền giáo cộng tác với và yểm trợ Giáo hội địa phương trên mọi địa bàn hoạt động.
Các cơ sở chính của HTTLVN cho tới trước 1975 gồm có Thánh Kinh Thần Học Viện tại Nha Trang (hậu thân của Trường Kinh Thánh Đà Nẵng), Các Trường Kinh Thánh dành cho các dân tộc ít người tại Đà Lạt, Ban Mê Thuột, Pleiku, Trường Học Cho Con Cái các gia đình truyền giáo trong khu vực Đông Nam Á, Cô Nhi Viện Tin Lành Hòn Chồng Nha Trang, Cô Nhi Viện Phú Thọ Hòa, Bệnh Viện Phong Eana Ban Mê Thuột, một số Trạm Y Tế Từ Thiện, Nhà In Tin Lành tại Sài Gòn, một số Trường Học Tin Lành được mở trong khuôn viên chi hội, Thánh Kinh Nguyệt San, Tạp Chí Truyền Giáo, Tạp Chí Rạng Đông (do một tín đồ làm Chủ Nhiệm), Phòng Sách Tin Lành ở góc phố đường Sư Vạn Hạnh ở gần khu An Đông Chợ Lớn, nơi mà trước 1975 cũng là trụ sở của Hội Liên Hiệp.
Tổng số tín hữu Tin Lành Việt Nam hiện nay (năm 2000) là gần 1.000.000 (một triệu) người kể cả trẻ em. Số mục sư truyền đạo chính thức là 273 người (đào tạo truớc 1975 và có đăng ký hoạt động), 119 người bán chính thức (đào tạo trước 1975 nhưng chưa đăng ký hoạt động), 1500 người không chính thức (tình nguyện hoạt động sau 1975 nhưng không đăng ký). Đa số những người thuộc hai loại sau là dân tộc ít người.
HTTLVN hiện có 282 nhà thờ chính thức, 253 nhà nguyện bán chính thức (dân tộc ít người), 1500 điểm nhóm không chính thức (dân tộc ít người).
Chú thích
[1] Trong HTTLVN, thuật ngữ "giáo sĩ" được dùng để nói về các nhà truyền giáo (thường đã được phong mục sư) từ nước ngoài đến ( so sánh với "thừa sai" trong Công giáo), thuộc Hội Liên Hiệp, khác với trong Giáo Hội Công giáo, giáo sĩ chỉ chung hàng ngũ giám mục linh mục và trong chừng mực nhất đinh bao gồm cả giới nam tu sĩ không chịu chức linh mục. Nhiều khi các mục sư hay truyền đạo Việt Nam tham gia việc truyền giáo được gọi đơn giản bằng từ "truyền giáo"
[2] Hội Trưởng A.B.Simpson của Hội Liên Hiệp xuất thân là một mục sư chủ tọa một chi hội thuộc giáo hội Trưởng Lão ở Canađa, về sau ông chuyển sang New York Hoa Kỳ và ông liên kết hai tổ chức truyền gíao trước đó thành Hội Liên Hiệp Cơ Đốc và Truyền Giáo năm 1887. Tuy ông là một mụs sư Trưởng Lão, ông chấp nhận các nhà truyền giáo thuộc xu hướng giáo hội khác gia nhập Hội của ông, miễn là những người này tuân thủ những nguyên tắc làm việc chung của Hội nhất là trong việc thiết lập các giáo hội địa phương.
[3] Sự cộng tác của con người với ân điển của Chúa là một trong những vấn đề quan trọng tranh luận giữa giới thần học Kitô giáo, trong lúc Giáo Hội Công giáo khẳng định tín đồ phải đáp lại ơn thánh như một điều kiện cần thiết để được cứu độ.
[4] Trong tạp chí Word, Work, and World. (E.F.Irwin, With Christ in Indochina. The Story of Alliance Missions in French Indo-china and Easttern Siam. Harrisburg, Pa: Christian Publications, Inc., 1937, 164p., 13x19cm, t.25.)
[5] Đó là các nhà truyền giáo : David Lelacheur (Sài Gòn, 1893), C.H.Reeves, Long Châu, Lạng Sơn, Hà Nội, 1897), R.A Jaffray (Hà Nội 1899), Ông Bà Sylvain Dayon (Hải Phòng, 1902)
[6] Paul M. Hosler và G.Lloyd Hugues.
[7] Tức tổ chức Thánh Kinh Hội Anh quốc và Hải Ngoại (British and Foreign Bible Society) thành lập tại Anh năm 1804 do sáng kiến của Mục Sư Tin Lành Thomas Charles, chủ tọa một chi hội tại xứ Wales.
[8] E.F.Irwin, With Christ in Indochina, sđd, t.27.
[9] E.F.Irwin, With Christ in Indochina, sđd, t.33.
[10] E.F.Irwin, With Christ in Indochina, sđd, tt. 33-39.
[11] E.F.Irwin, With Christ in Indochina, sđd, t.85-92.
[12] E.F.Irwin, With Christ in Indochina, sđd, t.93-99.
[13] Điều lệ của HTTLVN (ban đầu là HTTL Đông Pháp) được soạn thảo và đệ nạp cho chính quyền Pháp năm 1929, nhưng đến 1942, mới được phê duyệt. (HTTLVN, Điều Lệ của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam. Sài Gòn: Nhà In Tin Lành, 1958).
[14] E.F.Irwin, With Christ in Indochina, sđd, t.98.
[15] E.F.Irwin, With Christ in Indochina, sđd, t.102-103. Sắc lệnh gồm 5 điều, được hai viên nhiếp chính Pháp (Jabouille) ký ngày 4.12.1929 và Việt (Tôn Thất Hân) ký ngày 5.12.1929 tại Huế.
[16] Đỗ Hữu Nghiêm, Đạo Tin Lành nơi các dân tộc ít người ở Nam Trường Sơn - Tây Nguyên, 1928-1975. HCM: Viên Khoa Học Xã Hội, Trung Tâm Sử Học, Luận Văn,1995, 163t, vi tính VNI-Times,A4.
[17] Một đoàn truyền giáo địa phương do chính Ông Bà G.H. Smith gây dựng tại Đà Nẵng sau khi ông bà trở lại Việt Nam nhưng không hoạt động với tính cách thành viên của Hội Liên Hiệp nữa
[18] Tham khảo : Viện Dân Tộc Học: Các Dân Tộc Ít Người ở Việt Nam (Các tỉnh phía Bắc). HàNội:Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội, 1978; Viện Dân Tộc Học: Góp Phần Nghiên Cứu Bản Lĩnh, Bản Sắc Các Dân Tộc Ở Việt Nam. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội, 1980; Viện Dân Tộc Học: Các Dân Tộc Ít Người ở Việt Nam (Các tỉnh phía Nam). Hà Nội: Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội, 1984.
3. GIÁO HỘI CƠ ĐỐC PHỤC LÂM AN TỨC NHẬT (THE SEVENTH-DAY ADVENTIST CHURCH)
Từ năm 1921, đã có một vài tín đồ Cơ Đồc Phục Lâm (CĐPL) đi phân phát truyền đạo đơn dọc theo sông Cửu Long, nhưng năm 1929, nhà truyền giáo R.H. Wentland mới đến làm việc thường xuyên tại Việt Nam, tìm liên lạc với hai tín đồ là L. Julien và André Deler.
Wentland truyền giảng về tín lý CĐPL, và có hai người tin đạo đầu tiên là Jean Fabre và Trần Ngọc Tế ở Cần Thơ.
Giáo lý cơ bản của CĐPL được xây dựng chủ yếu dựa trên phân tích, giải thích những đoạn Kinh Thánh nói về việc Đức Kitô tái lâm (hay phục lâm) để phán xét nhân loại, và về việc giữ luật liên quan đến ngày thứ bảy trong tuần (ngày sabbat), kết hợp với Lời Chúa nói chung trong Kinh Thánh.
GHCĐPL được chính thức thành lập tại New Hampshire, Hoa Kỳ năm 1863. Hiện nay một Tổng Hội Toàn Cầu tối cao tại Hoa Kỳ điều hành 13 tổng hội; mỗi tổng hội gồm nhiều liên hiệp hội; mỗi liên hiệp hội lại có nhiều địa hạt liên hội. GHCĐPL Việt Nam là địa hạt liên hội nằm trong Liên Hiệp Hội Đông Nam Á, thuộc Tổng Hội Viễn Đông.
Năm 1930, gia đình truyền giáo R.L. Pickett hoạt động tại Nam Vang đến Việt Nam, và cùng với Wentland họ dựng lên ngôi nhà thờ đầu tiên của GHCĐPL ở Tri Tôn Châu Đốc.
Quan trọng nhất là năm 1933, có nhiều tín hữu Tin Lành ở Đức Mỹ đã tin theo CĐPL, trong đó có các gia đình nổi tiếng như Trần Xuân Phan, (một mục sư cựu Hội Trưởng HTTLVN), Đỗ Bình, Nguyễn Văn Xuân, Lê Hựu, Phạm Thiện, ... Giữa nhiều khó khăn, GHCĐPL vẫn phát triển. Năm 1937, có thêm mục sư R.H. Howlett và về sau R.H. Hammill đến tăng cường và một trường huần luyện được thành lập ở địa điểm mà nay là khu đất Bệnh Viện Y Học Dân Tộc Thành Phố và Trường Ngô Tất Tố Phú Nhuận. Năm 1939, Nhà In Thời Triệu đã xuất hiện.
Trong thời kỳ Thế Chiến II và mãi đến 1947, các nhà truyền giáo CĐPL phải đi khỏi Việt Nam, nên Hội Trưởng Nguyễn Đình Nhơn phải đảm trách mọi công việc với sự trợ lực của gia đình tín đồ Robert Bentz từ Pháp đến đây năm 1938.
Từ 1947, nhiều thế hệ gia đình truyền giáo đã đến Việt Nam như E.H. Wallace, L.G. Storz, R.A. Figuhr, rồi Tilstra và Burton được phái đến làm việc cho trung tâm huấn luyện. Lần lượt Trường Kinh Thánh Hàm Thụ (1948), Tiếng Nói Hy Vọng (1954) được thành lập.
Các hoạt động CĐPL hầu như chỉ tập trung ở miền Trung và miền Nam. Tại miền Bắc, mục sư Nguyễn Văn Xuân có hoạt động nhưng không liên tục ở Hà Nội (1939-1941) và Hưng Yên (1949-1950); trong thời gian đó có khoảng 100 tín đồ.
Sau năm 1954, các hoạt động CĐPL phát triển mạnh tại miền Nam. Bệnh Viện Cơ Đốc thành lập (1955), rồi đến Trung Tâm Huấn Luyện Cơ Đốc Việt Nam, Nhà In Thời Triệu được kiện toàn, Trường Trung Tiểu Học Cơ Đốc được hoạt động (1957) . Tất cả đều phát triển và tồn tại đến trước 30.04.1975.
Năm 1963, GHCĐPLVN có 1023 tín đồ chính thức phân bố trên 10 chi hội tại Miền Trung và miền Nam. Năm 1968, số tín đồ CĐPL chính thức là khoảng 1500 người sinh hoạt trong 15 chi hội do 14 mục sư phụ trách , có khoảng 70 thư báo truyền đạo. Địa Hạt Liên Hội CĐPLVN do một Ban Trị Sự quản nhiệm. Ban này có 1 Hội Trưởng, 1 quản lý, 1 thư ký và 11 Trưởng Bộ điều hành 11 Bộ trong Giáo Hội (Trường Sabát, Tín Hữu Truyền Đạo, Thanh Niên và Tiết Chế, Chiến Tranh, Tu Thư, Giao Tế, Tiếng Nói Hy Vọng, Ấn Loát, Giáo Dục và Y Tế) [1].
Giáo Hội hoạt động tích cực trong lãnh vực lãnh vực y tế, văn hóa giáo dục, xuất bản một số ấn phẩm về y tế giáo dục có giá trị, tham gia nhiều hoạt động đại kết với giới sinh viên Công giáo(Ca Đoàn Trùng Dương thuộc Liên Đoàn sinh viên Công giáo) thành phố Sài Gòn trước năm 1975 [2].
Điều đáng chú ý là trong thập niên 1940 GHCĐPL VN đã nỗ lực truyền giáo cho người Kơho vùng Đà Lạt. Qua Ha Hang, tín đồ CĐPL đầu tiên(1942), hai nhà truyền giáo Phạm Trường Thanh và R. Bentz đã tiếp xúc với người Kơho, truyền đạo cho họ và cho đến cuối thập niên 1960, đã có khoảng 300 tín đồ CĐPL lập thành ba chi hội ơ Đa Me, Đa Ro Hoa, Rơ Chai gần Đà Lạt.
Hoạt động của GHCĐPLVN từ sau 1975 có chậm lại sau khi nhiều cơ sở của Giáo Hội được đặt dưới quyền quản lý của nhà nước.
Sáng ngày 18.12.1999, Giáo Hội Cơ Đốc Phục Lâm Việt Nam mừng kỷ niệm 70 năm thành lập giáo hội tại Việt Nam ở thánh đường tọa lạc tại số 2 Hoàng Văn Thụ Phú Nhuận. Có gần 400 người tham dự, trong đó một số tín đồ từ nước ngoài về. Từ nhiều năm qua GHCĐPL đóng góp nhiều cho các hoạt động xã hội như trợ cấp người già, học bổng cho học sinh lớp học tình thương [3].
Ngày 1.7.2000, GH tổ chức lễ kỷ niệm 50 năm xây dựng và dâng hiến nhà thờ CĐPL số 2 Hoàng Văn Thụ Phú Nhuận, có 500 tín đồ tham dự, dưới sự chủ tọa của Mục sư Trần Công Tấn quản nhiệm chi hội và các trường lão Trần Thanh Truyện, Hầu Mạc Sầm Sơn, Trần Văn Tô, Mai Xuân Tào. Nhà thờ này được xây dựng xong tháng 12 năm 1950 dưới thời mục sư Phạm Thiện làm chủ tọa, sau 7 tháng thi công, và được đại tu năm 1998 [4] với chính sự chứng kiến của ông bà nay đã về hưu.
Số tín hữu CĐPL Việt nam hiện nay khoảng 50.000 người phân bố trên hơn 10 chi hội khác nhau.
Chú thích:
[1] R.E. Neall, History of the Vietnam Mission of the Seventh-Day Adventists, 30th anniversary. Saigon: Letter of information, 1967; Lê Hựu, A Historical Study of Seventh-Day Adventists in Vietnam, 1929-1959. Manila: Philippine Union College, Faculty of the School of Graduate Studies, MA thesis, 1969, 464p, mimeographed, 21x27cm.
[2] Một trong những tín đồ CĐPL là Lê Văn Khoa (thuộc gia đình Lê Văn Út, tin đạo từ 1947 tại Cần Thơ), một người có nhiều tài năng. Anh vừa là ca sĩ, vừa là nhạc sĩ chơi được nhiều loại đàn, ca trưởng, soạn nhạc gia, nhiếp ảnh gia,họa sĩ, điêu khắc gia, biên tập trang trí các sách báo, tổ chức nhiều chương trình nghệ thuật cho triển lãm, truyền thanh và truyền hình tại Sài Gòn truơc 1975 và hiện nay tại vùng San Diego bang California Hoa Kỳ. Chính anh là một người tích cực tham gia các hoạt động đại kết Kitô giáo do giới thanh niên sinh viên Sài Gòn tổ chức trong nửa sau thập niên 1960.
[3] Băng Tâm, "Giáo Hội Cơ Đốc Phục Lâm kỷ niệm 70 năm có mặt ở Việt Nam(1929-1999)". Tuần Báo CGDT, số1239, ngày 31.12.1999, t.16.
[4] Băng Tâm, "Hội Thánh Cơ Đốc Phục Lâm Phú Nhuận kỷ niệm 50 năm xây dựng và dâng hiến thánh đường". Tuần Báo CGDT, số 1266-1267, ngày 7.7.2000, t.14.
II. CÁC GIÁO HỘI KHÁC
4. Giáo Hội Mennonite (The Mennonite Church)
Tín đồ Mennonite là miêu duệ của phong trào làm phép rửa lại cho những người tín đồ trưởng thành, từng được làm báptêm khi con nhỏ, sau khi họ được học hỏi thêm về nội dung niềm tin của mình. Phong trào này xuất hiện ngay từ buổi đầu Cải cách. Nhưng người có ảnh hưởng hơn cả là Menno (chính vì thế mà có tên Mennonite) Simmons (1492-1559) [1], một tín hữu Tin Lành người Hòa Lan. Niềm tin Menno nhấn mạnh đến khía cạnh tái tẩy của kho tàng Lời Chúa trong Kinh Thánh, chia sẻ một xu hướng đức tin với các tín đồ báptít.
Giáo Hội Mennonite(GHMN) đã có mặt tại Việt Nam từ năm 1954, dưới danh nghĩa Mennonite Central Committee, MCC, tức Ủy Ban Trung Ương Mennonite) tham gia các hoạt động cứu trợ các di dân từ Bắc vào Nam, nếu chưa nói đến một bác sĩ Mennonite đã đến hợp tác với Cô Nhi Viện Tin Lành Hòn Chồng từ 1952.
Dần dần sau những bàn bạc với HTTLVN và Hội Liên Hiệp, giáo hội Mennonite qua tổ chức Eastern Mennonite Board of Missions & Charities, Salunga, Pennsylvania (tức Ban Quản Trị Mennonite Miền Đông về Truyền Giáo và Từ Thiện, Salunga, Pennsylvania) muốn phái khoảng 5 hay 6 gia đình đến tham gia truyền giáo cho người Việt trong vùng Sài Gòn Gia Định. Gia đình mục sư James K. Stauffer, Everett G. Metzler lần lượt đến Việt Nam (1957), rồi tiếp đến là Luke Martin, James E. Metzler (1962), và Donald Sensenig (1963).
Một trung tâm văn hóa trước hết hoạt động tại Sài Gòn và dần dần trung tâm thứ hai tại Gia Định (Trường trung tiểu học Rạng Đông) chuyên giảng dậy tiếng Anh, trong lúc cũng phụ trách một chương trình Kinh Thánh Hàm Thụ. Cộng đoàn nhỏ bé này có khoảng 50 tín đồ và họ có quan hệ tốt đẹp với các tín đồ thuộc HTTLVN. Công việc của Giáo hội được điều hành do một Ủy Ban Đại Diện gồm có một MS HTTLVN hợp tác, một MS Mennonite và 3 đại diện tín đồ.
5. Giáo Hội Báp Tít (The Baptist Church)
Hội Truyền giáo Báp Tít từ Hoa Kỳ đến Việt Nam năm 1959 [2]. Hội này nằm trong Southern Baptist Convention (Giáo Đoàn Báptít Miền Nam). Hai giáo đoàn quan trọng khác là Northern Baptist Convention (Giáo Đoàn Báptít Miền Bắc), và National Baptist Convention (Giáo Đoàn Báptít Quốc Gia) . Cả ba tổ chức này thành hình từ cuối thế kỷ XIX và dân dần kết hợp thành Liên Đoàn Báptít Quốc Tế.
Giáo Đoàn Báp Tít Miền Nam vào năm 1965 có 1850 nhà truyền giáo hoạt động trên 70 quốc gia, ngoài 2078 mục sư tại Hoa Kỳ, Panama va Cuba. Giáo đoàn này tài trợ cho 40 bệnh viện và 51 trường đại học tại Hoa Kỳ.Chính giáo đoàn này trực tiếp phụ trách 90 bệnh viện, bệnh xá và chẩn y viện tại Hoa Kỳ, 848 trường đại học, trung tiểu học tại nước ngoài.
Tín hữu Báptít là những người cũng chủ trương làm báptêm lại cho những tin đồ khi trưởng thành, nhưng đi theo xu hướng của hai nhà Cải Cách lớn ở châu Âu thế kỷ XVI là Carlstadt và Thomas Munzer. Con cháu những tín đồ này đã đến định cư tại nhiều nơi ở Hoa Kỳ, nhất là tại New Jersey và Pennsylvania.
Sau khi quyết định mở mang việc truyền giáo ở Việt Nam năm 1958, gia đình mục sư Herman P. Hayes đến Sàigòn tháng 11 năm 1959. Tiếp sau đó là 13 gia đình truyền giáo khác, va một nhà truyền giáo độc thân.
Tại vùng Sài gòn, từ tháng 11 năm 1961 các gia đình H.P.Hayes, Lewis Myers và Bill Roberson triển khai các hoạt động. Tín đồ Báp tít đầu tiên là ông Lê Quốc Chánh, sau này trở thành người truyền đạo phụ trách chi hội Báptít Phú Thọ Hòa.Tháng 11 năm 1962, chi hội Báptít Ân Điển được thành lập qui tụ 61 tín đồ gồm 42 Việt và 19 Mỹ, do các Mục sư Sam Longbottom, H.P. Hayes, Jim Humphries lần lượt quản nhiệm. Đồng thời các bộ phận khác được thành lập : Ủy Ban xuất bản và ấn hành, Thánh Kinh Học Viện, do Sam James, Lewis Myers và B Roberson chịu trách nhiệm; Ủy Ban Truyền Giáo do Bob Davis tổ chức qua các chương trình truyền thanh và truyền hình ở nhiều địa điểm chung quanh Sài gòn.
Tháng 9 năm 1961, L. Myers đến học tiếng tại Đà lạt đồng thời có những nỗ lực truyền giáo đầu tiên với người địa phương. Cùng với cố gắng của Davis, James và chính Hayes, một số người Việt tin đạo và một trung tâm dậy tiếng Việt cho các nhà truyền giáo hình thành tại Dà Lạt.
Năm 1962, Roberson đến Nha Trang chuẩn bị, và Bob Davis xây dựng Chi Hội Báptít Đức Tin . Nối tiếp Davis có thêm gia đình Walter Routh, rồi Robert Compher, Một chi nhành1Thánh Kinh Học Viện ra đời.
Năm 1965 L. Myers đến Đà Nẵng có gia đình Rondal Werrells rồi các ông Fred Linkenhoker và Raymond Smith tăng cường truyền giáo bằng cách giảng giải trực tiếp và qua các hoạt động xã hội.
Giáo hội Báptít Việt Nam bao gồm những chi hội bình đẳng, dân chủ và độc lập. Chi hội bầu cử các chấp sự vào các ủy ban, phụ tá cho mục sư chủ trì chi hội dựa trên những qui điều chung và riêng của chi hội.
Tính đến ngày 17.9.1966, hoạt động Báp tít đã được xúc tiến ở Sài Gòn. Đà Lạt, Nha Trang và Đà Nẵng. Số tín đồ chưa ổn định do những biến chuyển liên tục của tình thế.
6. Giáo hội "Hội Thánh Đấng Christ"("The Church of Christ")
Năm 1963, phong trào Hội Thánh Đấng Christ (HTĐC) được những tín đồ trong hàng ngũ quân nhân Hoa Kỳ truyền bá và thực hiện khi họ vào miền Nam Việt Nam.
Một nhà Cải Cách là James Kelly, thuộc giáo hội Episcopal Methodist (Giám lý) năm 1793 tại Baltimore Hoa Kỳ bắt đầu giảng thuyết và cổ vũ mạnh mẽ cho sự thống nhất các tìn đồ Tin Lành trên căn bản tinh thần nguyên thủy của Kitô giáo được diễn dịch trong Kinh Thánh Tân Ước. Phong trào này chủ trương không thiết lập một giáo hội mới nhưng cổ vũ các giáo hội trở về lối sống của giáo hội nguyên thủy là Hội Thánh Đấng Christ. Tín niệm này lan sang Virginia, North Carolina, rồi New England (1802), và tại Kentucky (1840), nhiều lãnh tụ giáo hội Trưởng Lão tiếp nhận.
Một nhà truyền giáo là Clark bắt đầu truyền bá tư tưởng "trở về nguồn Tin Lành nguyên thủy của HTĐC qua truyền thanh, ấn phẩm và những buổi nhóm cầu nguyện của giáo đoàn này. HTĐC thiết lập một "Quỹ Bào Trợ Nhi Đồng Cơ Đốc Giáo" tài trợ cho một số cô nhi, một số người rời bỏ hàng ngũ HTTLVN và đã lập ra Cô Nhi Viện HTĐC ở Giồng Ông Tố, Gia Định.
7. Giáo Hội "Chứng Nhân Đức Giêhôva"(The Jehovah's Witnesses) [3]
Phong trào tôn giáo "Chứng Nhân Đức Giêhôva" này phát sinh tại vùng New England Hoa Kỳ từ tư tưởng của Charles Taze Russel (1852-1916), sinh trưởng tại Pittsburgh, gốc Ái Nhĩ Lan. Xuất thân từ trong giáo hội Congregational, ông hay đến sinh hoạt trong chi hội của giáo hội này và bị ám ảnh bời những lời giảng về hình phạt đời đời dành cho những ai không tuân luật Chúa. Ông tự nghiên cứu Kinh Thánh và chống lại ý tưởng về hình phạt đời đời. Ông không tin nhận một Thiên Chúa Ba Ngôi Ông tin rằng Giêsu sẽ tái lâm vào năm 1874. Ông tin rằng cái chết sẽ hủy diệt tất cả, nhưng sau một nghìn năm, người chết sẽ được tái tạo, Tin Lành sẽ được truyền giảng cho họ. Thời gian một nghìn năm khời đầu khi Giêsu tái lâm năm 1874. Cả hằng nghìn người ở Hoa Kỳ, Anh và châu Âu, châu Phi tin theo ông. Về sau lãnh tụ J.F. Rutherford của giáo hội này khai triển thêm ý tưởng cho rằng cuộc chiến cuối cùng giữa Giêsu và Satan chẳng bao lâu sẽ chấm dứt và hàng triệu triệu người đang sống sẽ không bao giờ chết nữa. Những tín đồ của giáo hội này thường cũng là những nhà truyền giáo tích cực đi đến từng gia đình để thuyết giáo, phân phát ấn phẩm, sách báo nói về niềm tin "Chứng Nhân Đức Giêhôva".
8. Giáo Hội Ngũ Tuần (The Pentecostals)
Giáo Hội Ngũ Tuần(GHNT) đến Việt Nam [4] năm 1970. GHNTVN là một thành phần trong Tổ Chức Giáo Hội Ngũ Tuần Thế giới hiện có mặt trên hơn 130 quốc gia
Khuynh hường Cải Cách này bộc phát mạnh vào đầu thế kỷ XX tại Illinois Hoa Kỳ, dựa trên những phân tích và giải thích những phần Kinh Thánh nói về Thánh Linh. Sau khi Đức Kitô lên trời được ngũ tuần, thì Thánh Linh sẽ xuống tác động trên các tín hữu. Đối với các tín hữu Ngũ Tuần thì câu nói "Trong ngày sau hết, Ta sẽ đổ Thần Khí Ta trên mọi xác phàm" là lõi cốt cho niềm tin về những ân tứ lạ lùng mà Thánh Linh ban cho tín đồ trên thế giới. GHNT chú trọng đến việc thánh hóa bản thân, để được Chúa chữa lành, cho nói tiếng lạ, đón chờ Đức Kitô tái lâm sớm.
Phong trào Ngũ Tuần lan rộng tại nhiều nơi như Sài Gòn, Gia Định, Quảng Nam, Đà Nẵng, Tam Kỳ, Phan Rang, Đà Lạt. Và ngày 23 tháng 6 năm 1973, giáo hội Ngũ Tuần được phép hoạt động theo giấy phép số 326/BNV/KS, với trụ sở chính đặt tại số 3 Nguyễn Văn Thoại (nay là Lý Thường Kiệt) Tân Bình và trong năm này một Trường Kinh Thánh Ngũ Tuần thành lập tại Vũng Tàu.
Sau năm 1975, hoạt động của giáo hội bị thử thách nặng nề trong suốt 13 năm cho đến khi một số người nhóm lại tiếp tục sinh hoạt và giáo hội tái lập năm 1988. Cho đến nay có khoảng 200 chi hội nhóm tại tư gia phân bố trong 9 giáo hạt (Bắc, Trung, Miền Đông, Miền Tây, Tp HCM, và Miền Cao gồm ba giáo hạt cho người Kơho, Chrau, Êđê, M'nông, H'mông,...) được sự dìu đắt của khoảng 30 mục sư.
Giáo Hội Ngũ Tuần hiện có tham gia các hoạt động từ thiện xã hội, như Trung Tâm Cai Nghiện Bình Triệu, Cô Nhi tại Vũng Tàu, thiếu nhi tật bệnh tại Đà Nẵng, Cô Nhi tại Ninh Bình, Hà Nội.
9. Các giáo hội Cải Cách khác (Other Reformed Churches or Denominations)
Trước 30.4.1975 tại Miền Nam Việt Nam, cùng với sự có mặt của quân nhân nhiều nước, các giáo hội Cải Cách khác cũng vào Việt Nam nhưng chưa có những nỗ lực truyền giáo nơi người Việt hay nơi các dân tộc ít người khác.
Tại Việt Nam, đã có những sinh hoạt tôn giáo mang tính chất mục vụ diễn ra tại nhiều đơn vị quân đội Hoa Kỳ, Úc, Tân Tây Lan, Hàn, ... hay tại nhà thờ của Chi Hội Tin Lành Cải Cách Pháp hay Nhà thờ Tin Lành Quốc Tế tại Sài gòn, có một số tín đồ Việt Nam tham dự, trước 30.4.1975. Người ta có thể nhận thấy các giáo hội Giám Lý (Methodist), Trưởng Lão (Presbyterian), Luther (Lutheran), Thanh Giáo (Puritan), Anh Giáo (Anglican), Congregational, Episcopal, Quakers, Mormons, New Scientists,...
Chú Thích:
[1]. Tham khảo Donald Sensenig, Mennonite Mission Board and Mennonite Church in Vietnam. Saigon, Letter of information, 1966; Georges Tavard, Le Protestantisme. Paris: Librairie Arthème Fayard, Collection "Je sais - Je crois", 1961, trang 14; Kenneth Scott Latourette, A History of the Expan sion of Christianity. New York: Harper & Brothers, Inc., 7 volumes, 1937-1945. Vol IV, tt. 142, 263, 264, 286, 397.
[2]. Tham khảo: Herman P. Hayes, A brief history of Baptists in Vietnam. Saigon: Letter of information, 1966; Hội Truyền Giáo Báptít, Những người Báp tít là ai? Sàigòn, 1963; W.T.Roberson, A Continuing Challenge - Vietnam, Virginia, 1953; Robert Davis, Hội Truyền Giáo Báptít tại Việt Nam, Sàigòn, 1967; K. S. Latourette, A History of the Expan sion of Christianity , sđd, Vol IV, tt. 80-83, 214, 355.
[3]. hay "Nhân-Chứng Giêhôva" hay Hội Sinh Viên Kinh Thánh Quốc Tế (The International Bible Students Association) , hay Hội Tháp Canh (The Watch Tower) hay Giáo hội Russelite (The Russelites)
[4]. Tổng Quản Nhiệm GHNTVN hiện nay là Mục Sư Dương Thành Lâm ( Địa chỉ: 31 CO Cư Xá 30-4 đường Điện Biên Phủ F25 Bình Thanh HCM. Điện Thoại: 8.990.970)
Tác giả Đỗ Hữu Nghiêm, Gs.
Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...