Paul Ricoeur: Một hiện diện rất đương đại
Tác giả: Michel Brugvin
Người dịch: Lưu Hồng Khanh
Lời nói đầu của người dịch: Bài viết này là một bài phỏng vấn của đài phát thanh RCF Besancon/Pháp với nhà sư phạm Michel Brugvin về Paul Ricoeur được phát sóng ngày thứ ba, 27.11.2001. Từ đó đến nay (2012) cũng đã trên 10 năm qua, với nhiều biến cố lớn đối với Paul Ricoeur: ngày mất của Ricoeur (2005), thành lập Trung tâm văn hóa Paul Ricoeur với thư viện, tạp chí, hội luận, triển lãm… (Fonds Ricoeur), nhưng bài viết phát sóng này vẫn giữ nguyên các giá trị thông tin và thẩm định cũng như tính thời sự của nó. Bản dịch này nhắm diễn tả thích ứng với hai nền văn phong Pháp và Việt và đồng thời cố gắng vẫn trung thành với nguyên bản. Cần ghi chú thêm rằng, bài viết phỏng vấn này được giữ lại dưới hình thức ghi nhớ tư tưởng, hơn là một bài luận văn với tất cả những nghệ thuật văn chương cần thiết.
1.Một gương mặt chói sáng.

Câu hỏi: Con người và cuộc sống của Paul Ricoeur không được biết nhiều trong công chúng…?
Paul Ricoeur sinh năm 1913 ở Valence. Có thể có hai cách giới thiệu về Paul Ricoeur.
1) Hình dạng một triết gia hàn lâm có tiếng tăm và năng lực lớn, đã "thành đạt" và được cả thế giới ngày nay nhìn nhận. Một công trình bao la: hàng trăm bài viết, hàng chục tác phẩm. Một giáo nghiệp hàn lâm thành đạt: thạc sĩ triết học, giảng dạy ở các đại học Strassbourg, Sorbonne, Nanterre, Hợp chủng quốc Mỹ.
Từ 20-25 năm nay: một sự nhìn nhận quốc tế, mặc dầu sau một thời gian dài có phần ẩn dật, ít nữa là tại Pháp. Nhưng từ 2-3 năm nay, Ricoeur lại đã được biết đến rất nhiều, cũng tại Pháp. Tác phẩm cuối cùng "Ký ức, lịch sử, bỏ quên" ("La mémoire, l'histoire, l'oubli", Paris 2000) đã tức khắc bán được đến hàng vạn quyển. Quả là một thành tích lớn đối với một tác phẩm, giống như các tác phẩm khác của tác giả, không dễ đọc chút nào. Chúng ta có lý mà vui mừng với một sự nhìn nhận công khai như thế.
2) Nhưng đối với tôi, hình dạng hay nhất thì lại khác, lại ít được công khai biết đến. Đó là gương mặt một con người khiêm nhu và kín đáo, một con người trải nghiệm những đau thương lớn trong cuộc đời, nhưng lại rất dấn thân trong cuộc sống của xã hội.
Khiêm nhu và kín đáo. Không phải một nhà tư tưởng với "cái đầu to bự". Trong những cuộc tranh luận công khai, Ricoeur không tìm kiếm những hiệu quả ấn tượng hay những chiêu thuật ảo dụ. Hoàn toàn ngược lại với những ngưòi múa rối hay phường chèo.
Những thử thách của cuộc đời:
Ricoeur mất mẹ khi mới sáu tháng sinh. Mất cha hai năm sau (1915) trong thế chiến thứ nhất. Vì thế Ricoeur được gọi là "con nuôi của nhà nước". Sau đó là người chị cả, người chị rất đỗi yêu thương, qua đời với tuổi 20 vì lao phổi. Mãi sau này, năm 1986, lại một thảm kịch nữa: cái chết của một người con, người con trai, trong những điều kiện bi thảm. Đối với Ricoeur, thực tại của sự ác và đau thương là một thực tại được trải nghiệm, trước khi là một vấn đề hàn lâm suy luận,
Nhưng cũng là gương mặt của một con người thường hiện diện trong những tranh đấu của xã hội.
Một thí dụ: Ricoeur sống tại Châtenay-Malabry từ năm 1956 với những người chủ trương tạp chí "Tinh Thần" ("Esprit"), trong nhóm được Emmanuel Mounier gầy dựng năm 1939. Vào thời những "biến cố" Algérie, những tín đồ Kitô-hữu cấp tiến này đã lấy một thái độ cương quyết phản đối chính sách chiến tranh của chính quyền Pháp. Ricoeur bị OAS đe dọa, nhưng được các sinh viên Antony bênh vực che chở. Ngày 9 tháng 6 năm 1961, vào giờ giao sữa sáng sớm, cảnh sát an ninh xông vào nhà, dẫn Ricoeur ra đồn an ninh 24 tiếng, và tiến hành lục soát khám xết nhà cửa.
Chứng từ của Francois Dosse, người viết tiểu sử Ricoeur, đã diễn tả khá trùng hợp với những gì tôi đích thân cảm nghiệm: "Gương mặt của Ricoeur, như khi ông ta cho thấy trong chương trình truyền hình của Olivier Abel, đã biểu lộ một cách sáng chói. Sự diễn tả hoàn toàn tương ứng giữa gương mặt này với những gì Ricoeur nói và viết về đề tài hy vọng cho tôi có xác quyết nó có thể chuyển núi dời sông" (Paul Ricoeur, "Les sens d'une vie", La découverte, 1997).
2.Trong một thế giới vô nghĩa, suy tư của Ricoeur đã đem lại những lý do để hy vọng và hành động.
Câu hỏi: Ðóng góp của Ricoeur cho thế giới chúng ta có thể là gì? Suy tư của Ricoeur có thể giúp gì cho chúng ta sống?
Trong thế giới không điểm tham chiếu này, suy tư của Ricoeur có thể đưa lại những lý do để hy vọng và hành động. Trong nhiều phương diện, chúng ta đang ở trong "một thế giới mất hết ý nghĩa", theo như diễn tả của Zaki Laidi. Thế giới này như một phần mất hướng. Ðiều này càng thấy rõ hơn lên kể từ một ngày 11 tháng chín (ý nói 11.09.2001 về chuyện các phi cơ khủng bố đâm nhào vào các tòa nhà World Trade Center ở New York, lhk). Mất hướng kể ra cũng đã từ nhiều thập kỷ nay rồi. Một thế giới "vỡ mộng", thường được biểu thị bằng một chủ nghĩa cá nhân phá hoại, một sự san bằng các giá trị, chủ nghĩa hoài nghi, cả đến chủ nghĩa hư vô. Chúng ta tưởng nhớ đến lịch sử của thế kỷ XX: các biến cố Shoah (tiếng Do thái: chính sách diệt chủng dân do thái của Hitler làm chết đến 6 triệu người, lhk), Ruanda, Bosnia, các cuộc khủng bố hiện thời… Từ các "hoàng tử" của giới tài chánh cấp cao cho đến những tên khủng bố ngày 11 tháng chín: những người này và những người kia, mặc dầu với tất cả những gì đối nghịch giữa họ với nhau, đã không cùng diễn tả một sự mất mát ý nghĩa?
Tất cả đều có giá, không một gì đáng giá.Tin ai, tin gì? Hy vọng? Từ ngữ này hầu như đã trở nên một "đại ngôn", lố bịch, lỗi thời, không đúng chỗ.
Công trình sự nghiệp suy tư biên soạn của Paul Ricoeur, kể từ đầu thập kỷ 50, thật rất hữu ích, cần thiết nữa, đối với chúng ta những kẻ đang sống trong giai đoạn 1980/2020 này, - thời kỳ bản lề giữa thế kỷ XX và XXI. Công trình suy tư biên soạn đó hoàn toàn khắc ghi vào thế kỷ chúng ta. Olivier Mongin, giám đốc tạp chí "Tinh Thần" ("Esprit"), hướng dẫn chúng ta với rất nhiều ích lợi cho chính chúng ta vào sự nghiệp của Ricoeur:
"Ricoeur tự đặt câu hỏi về những điều kiện cho phép chúng ta còn "tin tưởng" vào khả năng của một hành động, tin tưởng vào mình, vào kẻ khác, vào lịch sử (…). Trong một thế giới mất hết sự vững chắc và bảo đảm về một nền tảng (…), thì suy tư về chính mình trở nên 'quan trọng ưu tiên'. Và phần nào đem lại an tâm".
3. Ðón nhận cái mới mà vẫn trung thành với di sản.
Câu hỏi: Có chăng một "phương pháp Ricoeur"?
Tôi có thể nói, có một bước đi, hay đúng hơn một cung cách tiếp cận riêng của Ricoeur. Ðiều mà nhiều độc giả mến mộ và tìm kiếm nơi Ricoeur, chính là một dáng hình, một thái độ trí thức, hơn là một lý thuyết hay một tư tưởng được dựng lên. Mặc dầu một tư tưởng xây cất như thế quả có thật, vừa nghiêm túc vừa dũng mạnh. Ricoeur luôn giữ vững thái độ mà ta có thể đúc kết trong một câu, một công thức hai mặt: đón nhận cái mới mà vẫn trung thành với di sản.
1). Ðón nhận cái mới:
Một đàng, Ricoeur "hoàn toàn" ở trong hiện đại, đích thực là một kẻ đương đại. Ông hoàn toàn tham dự vào thời đại của ông, tham dự từ thời đại của ông. Ricoeur hoàn toàn trầm mình trong xã hội của chúng ta.
Hơn ai hết, Ricoeur đã hiểu và đã phân tích các hệ tư tưởng và các nền văn hóa lớn trong 50 năm vừa qua. Thí dụ chủ nghĩa cấu trúc: Hệ tư tưởng này đã mãnh liệt ghi dấu những năm 65/75 và đã để lại những dấu tích mạnh mẽ cả cho đến ngày hôm nay – con người, mỗi một chúng ta, thường chỉ còn là một "hậu quả của hệ thống". Chúng ta đều bị tác động bởi các cấu trúc. Chúng ta thường rất ít là chủ thể của chính hành động của mình, của chính cuộc sống của mình. Chúng ta bị xác định bởi các cấu trúc hệ thống. Ricoeur đã có một cuộc tranh biện kịch liệt - và lẫy lừng - với Lévi-Strauss. Ông cũng đã đối chất kịch liệt với những "người thầy lớn của hoài nghi", đó là Freud, Nietzsche và Marx. Ricoeur đã tham dự vào dòng tư duy hiện đại này, một cách sâu xa, từ bên trong. Nhưng ông không bao giờ để mình bị giam hãm trong đó.
2). Trung thành với di sản:
Nhưng đồng thời, Ricoeur vẫn trung thành với di sản: Ðón nhận cái mới, trong trung thành với di sản.
Ricoeur có hai câu diễn tả thái độ nói trên:
"Cuộc đời này, tôi nhận được, tôi không phải là tác giả,
và như thế, tôi không phải là chủ nhân của sự sống…".
Ricoeur đã tiếp cận các truyền thống triết học lớn, cách riêng triết học phản tư Pháp (kết thúc với Nabert và Merleau-Ponty) và triết học Ðức (những công trình của Ricoeur về Husserl và Karl Jaspers là những chứng từ). Ricoeur phê phán mãnh liệt các truyền thống triết học này, nhưng không bao giờ phủ nhận chúng. Ðiều mà số đông các triết gia những năm 60 đã từng bị mê hoặc bởi những ngành khoa học nhân văn, những ngành khoa học này cũng đã góp phần làm mai một đi nền tư duy triết học.
4. Biện chứng dang dở:
"Cái tôi tranh đấu và bị tổn thương" ("Cogito militant et blessé").
Câu hỏi: Có thể nói được chăng, rằng Ricoeur đã làm một tổng hợp giữa các hình thái tư tưởng đối nghịch nói trên?
Ricoeur không hề dùng từ "tổng hợp". Quả thật ông không đi tìm một tổng hợp, ông rất kinh kỵ những hệ thống đóng kín, những hệ thống chủ trương một thứ tri thức tuyệt đối. Ricoeur ưa thích hơn cung cách tư duy biện chứng, thường là gẫy gập, tranh đấu, đa phức, một biện chứng dang dở. Ông thường nói đùa: "Tôi viết những tác phẩm mới với những đồ dư - tức những câu hỏi chưa được giải quyết - của những tác phẩm trước đó".
Ricoeur – là một cách khái niệm về trí tuệ, được diễn tả khi ông nói về cái "Tôi tranh đấu và bị tổn thương".
"Cái tôi tranh đấu": Với Ricoeur, đó là tranh đấu cho một ý niệm về triết học, một nền triết học không cắt đứt khỏi những tranh biện mang tính khoa học và đồng thời lại say mê với những vấn đề của xã hội. Ðóng góp này thật quý báu cho một triết học chính trị.
"Cái tôi bị tổn thương": Với nhận thức rằng, chúng ta không trong suốt với chính mình, rằng tự do của chúng ta thường bị hạn chế và huyễn hoặc.
Ðối với tôi, câu nói "cái tôi bị tổn thương" này gợi lên cho tôi câu chuyện Giacob [trong Kinh thánh Cựu ước, Sáng thế 32:32] sau cuộc vật lộn với thiên sứ: chúng ta quả thật được trưởng thành, nhưng chúng ta cũng đã bị đánh nặng vào xương hông, làm ta phải bước đi khập khểnh. Chúng ta tất cả ít nhiều đều là những kẻ khuyết tật trong điều kiện làm người,
Ricoeur – hoàn toàn khác hẳn với một tư duy hãnh tiến, kiêu sa. đắc thắng, tất thắng (triomphaliste). Ricoeur – là sự khước từ xây dựng một hệ thống triết học đóng kín và hoàn tất.
5. "Biểu tượng đưa đến suy tư".
Câu hỏi: Ricoeur viết nhiều về chỉ dấu và biểu tượng. Ðó là một sự bất ngờ đối với một triết nhân. Như thế có phải Ricoeur đã rời bỏ lĩnh vực triết học, lĩnh vực của suy tư phê phán?
Trải nghiệm về sự ác đã rất hiện diện nơi Ricoeur. Như ta đã thấy, thực tại sự ác và đau khổ nơi Ricoeur đã từng là một thực tại được cảm nghiệm trước khi là một vấn đề suy luận hàn lâm. Và đối với Ricoeur, sự ác là một cái vô nghĩa không khoan nhượng. Từ đó, điều đánh động Ricoeur là hai yếu tố sau đây:Một đàng, các hệ thống tư tưởng đều bất lực trong việc giải thích sự ác.
- Nhưng đàng khác, trước sự bất lực để khái niệm về kinh nghiệm sự ác, thì trong lịch sử loài người vẫn luôn có sự tìm kiếm một ngôn ngữ khác: đó là ngôn ngữ của biểu tượng và huyền thoại.
Và như trong hệ thống biểu tượng của Kinh thánh, đó là những truyện kể về Ađam và Eva hoặc Cain và Abel. Nơi đây ta thấy một ngôn ngữ khác, ngôn ngữ này không bắt nguồn từ khái niệm và định nghĩa, nhưng là một ngôn ngữ khêu gợi, dẫn dụ, gián tiếp, nhiều nghĩa, mở rộng…
Nhưng triết nhân - nghĩa là kẻ muốn "thấy rõ" - , sẽ phải làm gì trước cái thế giới gẫy gập, nhiều nghĩa, của biểu tượng và huyền thoại này? Ðánh cuộc là có thể suy tư từ những biểu tượng và huyền thoại như thế. Nhưng Ricoeur đã có một công thức danh tiếng: "Biểu tượng đưa đến suy tư". Công thức được chính Ricoeur giải thích: "Công thức này mà tôi ưa thích nói lên hai điều: biểu tượng đưa đến suy tư, và đối với tôi: suy tư về thời đại ta đang sinh sống".
Ricoeur quảng diễn:
- "Tôi gọi là biểu tượng tất cả những cấu trúc ý nghĩa, trong đó một nghĩa trực tiếp, sơ đẳng, căn tự lại chỉ ra thêm một nghĩa gián tiếp, sâu rộng, bóng bảy được hàm chứa trong nghĩa thứ nhất".
- Ricoeur nói thêm: "Giải thích là công việc tìm ra cái nghĩa ẩn dấu bên trong cái nghĩa trưng ngoại, là phát hiện các tầng ý nghĩa hàm chứa trong cái nghĩa nguyên tự" ("Le conflit des interprétations", Paris 1969).
Công việc phê phán huyến thoại là một đắc thủ dứt điểm của nghiên cứu tinh thần. Nền văn hóa hiện đại may mắn được khẳng định bởi thái độ phê phán: phê phán lịch sử, phê phán ngôn ngữ, phê phán tri thức. Cách riêng các ngành khoa học lịch sử không còn cho phép hiểu huyền thoại một cách ngây thơ như trước đây nữa. Ngày nay, các truyện kể trong Kinh thánh - như truyện tạo dựng trời đất trong sách Sáng thế - được xác định là những trình thuật không chủ ý đưa lại những giải thích khoa học.
Như thế là có sự phủ nhận huyền thoại như là một sự giải thích khoa học. Ðó là một điều tích cực. Nhưng sự phủ nhận huyền thoại như một sự giải thích khoa học mới chỉ là một khía cạnh của vấn đề, khía cạnh tiêu cực, của việc giải thích huyền thoại. Còn một bước thứ hai nữa: đó là giải thích huyền thoại như một sự thông hiểu. Trong việc thông hiều, khác với việc giải thích, ta sẽ nắm bắt được sự vật như từ bên trong, một cách trực thị và toàn diện. Bước đi thứ hai này là bước đi tích cực của việc giải thích. Phủ nhận "huyền thoại-giải thích" là con đường cần thiết đưa đến sự phục hoạt "huyền thoại-biểu tượng".
Ta có thể nói, Ricoeur đã phục hoạt đưa lại cho biểu tượng chiều kích phát hiện hữu thể. Chính qua việc giải thích các dấu chỉ mà ta nắm bắt được những gì xa hơn dấu chỉ.
6. Thông diễn học: Giải hóa huyễn hoặc và khai mở ý nghĩa huyền nhiệm.
Câu hỏi: Giải thích các dấu chỉ, có phải đó là thông diễn học?
Ta có thể gọi thông diễn học là nghệ thuật giải thích, trước hết được xử dụng cho các bản văn Kinh thánh, rồi tiếp đến là cho mọi thứ dấu chỉ. Giải thích có nghĩa là phát hiện ra một nghĩa ẩn dấu phía sau nghĩa căn tự (hoặc một nghĩa bóng phía sau nghĩa đen). Giữa điều cảm sinh và khái niệm là - như một cách trung gian - thế giới các dấu chỉ, biểu tượng, truyện kể.
Ricoeur phân biệt hai hướng có thể có về giải thích thông diễn học:
1). Giải hóa cái nghĩa ẩn dấu phía sau những huyễn hoặc của ý thức. Tác động giải hóa này nghi ngờ về những động cơ có ý thức muốn che dấu những ước vọng vô thức thường không thể thú nhận, mà những động cơ kia chỉ là chiếc mặt nạ.
Nietzsche, Marx, và Freud là những "bậc thầy lớn của hoài nghi". Họ cho thấy ý thức "được kéo lùi ra phía sau". Những dữ kiện quá khứ ăn sâu trong tâm thức nay không ngưng nghỉ được chồi lên. Như thế, cuộc đời quá khứ của tôi thường đè nặng trên hiện tại, mặc dầu một cách không ý thức. Ricoeur gọi đó là chiều kích " cổ học" ("archéologique") của ý thức.
2). Khai mở ý nghĩa huyền nhiệm: điều mà ta không thể diễn tả bằng từ ngữ, nhưng gắng gỗ gợi ý bằng biểu tượng. Nơi đây, ý thức cảm thấy như "được kéo tới ra phía trước", dướn mình đến những cứu cánh, đến những hình dạng thành tựu chính mình. Như thế, cái thị kiến về một lý tưởng, những nỗi niềm hy vọng trong ta, luôn ám ảnh và thúc đẩy ta về hướng tương lai. Ricoeur gọi đó là chiều kích "cứu cánh" ("téléologique"; Hi-lạp: télos là mục đích, chủ đích, cùng đích) của ý thức.
Sau đây là một thí dụ để minh họa hai chiều kích nói trên: biểu tượng người cha. Biểu tượng này có thể hiểu như một ước vọng thoái lùi về lại tuổi thơ ấu. Nhưng nó cũng có thể được xem như là sự khai mở về một sức lực huyền nhiệm vượt xa chúng ta và ta có thể diễn tả một cách tượng trưng: biểu tượng người cha có thể tương ứng với tiếng gọi vượt xa chính mình "tôi", đến ngọn nguồn đời tôi.
"Sự việc phải làm là đi tới, trong sáng suốt đón nhận cái thực trạng lưỡng cực, mâu thuẫn và đối nghịch nhau này. (…). Cùng trong một lúc, cái tôi vừa "được kéo lùi ra phía sau" và "vừa được kéo tới ra phía trước". Ðiều này càng đúng đối với một tâm thức có đức tin: "Chúng ta không bao giờ chắc chắn được rằng, một biểu tượng linh thánh như thế lại cũng không là một sự "trở lùi của dồn nén".
Ricoeur đi xa hơn: "Là một điều chắc chắn rằng, mỗi biểu tượng linh thánh cũng đồng thời là một bước lùi của dồn nén, là sự trổi dậy của biểu tượng thơ ấu và sơ cổ. Hai hệ biểu tượng được trộn lẫn với nhau". Và Ricoeur kết luận: "Luôn luôn trên một vài dấu tích của huyền thoại sơ cổ, mà những ý nghĩa mang tính rất tiên tri của linh thánh được tháp ghép vào và tác động".
Tâm thức luôn vừa "được kéo tới ra phía trước" và vừa "được kéo lùi ra phía sau". Ðể tồn tại, tâm thức phải chiến đấu. Tâm thức là một công tác, một nhiệm vụ. Ta có thể nói: phải kinh qua ngờ vực để cập bước đến được khải thị, cũng như phải phá hủy thần tượng để đi tới được thánh thiêng đích thực.
7. "Chính mình như một người khác".
Câu hỏi: Sự nghiệp suy tư biên soạn của Ricoeur có những khó khăn cho việc lĩnh hội đưa đến một cái nhìn tổng họp. Theo ông, cái gì có thể là thiết yếu trong sự nghiệp của Ricoeur này?
Tác phẩm "Chính mình như một người khác", xuất bản năm 1990, kết tinh ngắn gọn lại cuộc hành trình cùa Ricoeur. Ðó là một tác phẩm vĩ đại tập hợp lại tất cả những mảnh vụn, rất nhiều và phân tán rải rác đó đây - Ricoeur có tài đi những con đường quanh, đường vòng - từ trong tất cả những tác phẩm về trước. Với công thức rất đẹp "Chính mình như một người khác" này, ta có thể hình dung ra quỹ đạo tư tưởng của ông: Ðó là suy tư vể chính mình, về tự ngã.
Trong thế giới đầy xáo trộn làm lay chuyển những xác tín của chúng ta này, người ta không còn biết tin ai, tin gì, và nhất là không biết chúng ta là ai, căn cước bản vị chúng ta là gì.
Mỗi người tự đặt câu hỏi về căn tính của hiện hữu con người ("nguyên lý của nhân tính", theo Jean-Claude Guillebaud). Những "tội phạm của thế kỷ XX" đã đảo lộn cảm nhận và các ý nghĩa, chúng đã làm cho chúng ta lạc hướng, đến nỗi đã xáo trộn tương quan của chúng ta đối với thế giới, với lịch sử và cả với chính mình chúng ta.
Mỗi người đồng thời cũng đặt câu hỏi về căn tính của chính bản thân mình. Tự do của tôi có phải là một điều huyễn hoặc? Tôi biết, tôi bị điều kiện hóa bởi rất nhiều ức bách: những ức bách của vô thức, những ức bách của các cấu trúc xã hội, những cấu trúc kinh tế cũng như những cấu trúc tâm thần.
Có trong tôi một căn tính độc nhất và bền vững, hay là một căn tính đa phức và thay đổi? Tôi được nghe chứng từ của Laure Adler, vừa đến Besancon đây, sau cái chết của con bà đã 17 năm, nói rằng: "Tôi không còn cảm thấy sự đồng nhất của chính bản thân tôi, tôi biết rằng tôi sẽ luôn bị phân mãnh. Tôi hoàn toàn bị phân mãnh".
Ricoeur ghi nhận ra được nhiều định vị của vấn đề này:
1).Căn tính "idem" ("chính mình"): từ la-tinh này cũng đã được thường dùng trong tiếng Pháp và có nghĩa là "chính mình" ("le même"). Người ta nhìn ra được một chủ thể đồng nhất với chính mình trong nhiều trạng thái khác nhau. Có một chủ thể, một tự ngã, một cái tôi. Ricoeur nói: "Cái tôi suy tư tự định vị mình" ("Le cogito se pose"). Ðó là truyền thống các nền triết học về chủ thể, hay triết học về cái Tôi suy tư (Cogito), từ Descartes (với câu nói lừng danh: "Tôi suy tư, tức tôi hiện hữu"; "Je pense, donc je suis") cho đến Kant và Hegel, một cách nào khác.
Ðiều đó tương ứng với kinh nghiệm của chúng ta: mỗi người cảm nhận được - hoặc nghĩ là cảm nhận được hay mong muốn cảm nhận được - cái căn tính "idem" ("chính mình") này. Bằng chứng thường dùng: Trong câu nói "Tôi thay đổi", có một chủ thể "Tôi" xác quyết sự liên tục và đồng nhất của chính chủ thể mình…
2). Ở cực đối nghịch, có "cái tôi gẫy gập" (Le "cogito brisé"), Ricoeur nhận định như thế.
Người ta có thể quả quyết, giống như Nietzsche đã có nói: "Giả thuyết của tôi: chủ thể là đa phức". Có trong tôi một hợp phức các chủ thể tranh giành giữa chúng với nhau, giống như các tế bào dấy lên chống lại với thẩm cấp điều động sai khiến. "Tôi hoàn toàn bị phân mãnh", lời bà mẹ mất con vừa được trích dẫn ở trên.
3).Ngoài "cái tôi chủ thể được tán dương" ("sujet exalté") và "cái tôi chủ thể bị hạ nhục" ("sujet humilié"), Ricoeur vạch ra con đường của cái căn tính "ipse". Từ la-tinh này không được chuyển qua tiếng Pháp.
"Chủ thể tôi là một người khác", thi nhân nói. Căn tính ipse không hàm chứa trong mình một xác quyết nào cho rằng có một hạt nhân bản vị không thay đổi. Nhưng trong tôi, có nhiều người khác, hơn là chỉ một mình tôi, có trong tôi sự khác biệt. Căn tính của tôi không thể là một khung vùng đóng kín, trong đó tôi có thể bảo vệ cái tôi bé nhỏ của mình. Cái tôi bé nhỏ, tức cái căn tính idem, mang dự phóng bảo vệ cái tôi bé nhỏ của mình và đe dọa cảnh cáo: "Ðừng lộn xộn, đừng phá phách, đừng đụng chạm đến tôi!".
Cái căn tính đích thực, căn tính ipse, là sự vận chuyển bản thân, là sự tự vượt. Ðó là một căn tính sinh động, căn tính mở lòng đón nhận những xa lạ, những bất ngờ, cái khác, kẻ khác, nơi khác.
Khi tôi đón nhận cái khác, kẻ khác vào trong tôi, tôi sẽ tiến tới một căn tính vững mạnh hơn, tôi sẽ đi tới cái "Tự ngã" ("Soi"), kết cấu bởi cái tôi và cái khác, người khác: "Chính mình như một người khác". Căn tính không được ban cho từ điểm xuất phát. Nó cần phải được gầy dựng, xây cất.[1}
8. Chứng từ và xác nhận: "Tin vào" và "Tin với".
Câu hỏi: Vậy ngày nay người ta còn có thể tin và hy vọng?
Ricoeur là một "triết gia và là một Kitô-hữu" (giáo phái Tin lành). Ông phân biệt mình không phải là một "triết gia Kitô-hữu".
Không phải là một điều ngẫu nhiên, khi vào phần cuối bài tựa của tác phẩm "Chính mình như một người khác", Ricoeur đã nhấn mạnh về tính tự lập triết học trong sự nghiệp suy tư của ông, cái ưu tư "kiên trì giữ vững, đến hàng chữ cuối cùng, một diễn ngôn triết học tự lập". Ðiều đó "dẫn đến một nền triết học (…) trong đó vấn đề Thượng đế - trong quan điểm triết học - được treo lửng, một sự treo lửng có thể gọi là bất khả tri (agnostique)".
Hứa hẹn của Ricoeur sẽ phát huy một nền triết học về Siêu việt đã không còn được thực hiện. Dần dà suy tư của Ricoeur đã được biến chuyển thành một nền "triết học không có tuyệt đối". Trong những văn thư cuối đời, nền triết học đó hình như được trình bày như một chủ thuyết bất khả tri. Bất khả tri được từ điển "Petit Larousse" định nghĩa: "lý thuyết cho rằng lý trí con người không thể nắm bắt được tuyệt đối". Vậy thì phải từ bỏ mọi tiếp cận với hữu thể, với tuyệt đối chăng?
Không, Ricoeur không dừng lại ở đây. Các tác phẩm của ông cho thấy Ricoeur đã trao gửi diễn ngôn về tuyệt đối, siêu việt hay linh thánh, không phải vào các khái niệm triết học, nhưng vào sự lắng nghe một thứ ngôn ngữ khác.
Lắng nghe một thứ ngôn ngữ khác: Ðó là ngôn ngữ của chứng từ và xác nhận (attestation). Nói không, đối với ý thức tự phong cho mình là nguyên ủy của ý nghĩa. Chúng ta có thể đón nhận những chứng từ đến từ người khác. Ðó là sự nhìn nhận các biến cố, hành động, con người, những kẻ làm chứng và xác nhận, điều mà Ricoeur gọi là "xác quyết nguyên ủy".
Trong ý nghĩa đó, tin: không phải là "tin rằng" (như khi tin một ý kiến, một thông tin, tin trời cuối tuần này sẽ nắng ấm…), nhưng đúng hơn, là "tin vào" và "tin với". Ðối với Ricoeur, tín ngưỡng " không phải là những ý kiến, nhưng là sự tán đồng, sự chấp nhận mạnh mẽ thông qua lời nói của một người khác, một người đích danh làm chứng về một sự vật hay một nhân vật nào khác vượt hẳn chính họ. Là kẻ tin, tôi tín nhiệm vào một số người làm chứng. Niềm tin của chúng ta (…) là một niềm "tin vào" ("croire en") và một niềm "tin với" ("croire avec").
Cuối phần suy nghĩ về sự ác và điều thiện, Ricoeur xác quyết: "Sự ác là điều nặng nề, kinh khủng, điên loạn, nhưng sự ác bị "vượt mặt" bởi điều thiện, một điều thiện vượt rất xa lên phía trước. Có một điều thiện nguyên ủy hơn là cái ác lớn nhất… (…) Cho dầu cái ác có triệt để bao nhiêu đi nữa, thì cái ác đó không thể nguyên ủy hơn cái thiện" ("La symbolique du mal", Paris 1960). Có một sự "ưu tiên hữu thể" về cái thiện. Nghĩa là: không phải một sự ưu tiên về thời gian (trước hết có điều thiện, rồi tiếp đến có sự ác). Một sự ưu tiên hữu thể: trong trật tự của hữu thể, trong thang cấp của hữu thể. Ðiều thiện mang tính nguyên ủy hơn là cái ác.
Xác quyết này về điều thìện vượt xa khỏi cái ác, có thể giúp ta không chùn bước gieo mình vào thái độ đầu hàng, chịu đựng, hoài nghi, đến cả chủ thuyết hư vô trong xã hội hiện đại, trong đó cái ác đang ngự trị. Bên dưới tầng lớp che đậy và lừa dối, ta có thể khám phá ra những xác tín thầm kín và những tin tưởng đang thành hình.
Tôi nhường lời cuối lại cho Ricoeur. Cũng ở đây, lời của Ricoeur không kiêu hùng, nhưng can trường và khiêm tốn:
"Ðiều đó có "tốt" không, tôi không thấy, nhưng tôi tin tưởng [tôi hy vọng] trong đêm tối".
-----oooOooo-----
Chú thích của người dịch [1]: Về căn tính idem và căn tính ipse, đây là một sự phân biệt triết học rất tinh tế và dễ lẫn lộn. Trong khi chờ đợi có cơ hội sẽ trình bày vấn đề này một cách sâu rộng hơn, tôi đề nghị thêm vào những điều Michel Brugvin đã diễn tả trong bài phỏng vấn trên đây một vài ghi chú sau đây dựa trên những gì Paul Ricoeur đã trình bày trong nhiều tác phẩm của ông:
- Căn tính idem: là căn tính được nhận định trên số lượng, về một đối tượng "sự vật" (un quoi) không thay đổi trong thời gian, hôm qua hôm nay vẫn cũng cùng một đối tượng sự vật đó. Thí dụ anh Ba khi nhó, lớn lên, về già vẫn cũng chính là một anh Ba đó (không xét đến những thay đổi về vóc dạng, tính tình…).
- Căn tính ipse: là căn tính được nhận định theo mô hình "hiện thể" (Dasein) của Heidegger, hay mô hình "năng thể" (être en puissance) của Spinoza, nhìn nhận "ai đó" (un qui), thông qua nhiều thay đổi trong bình diện thể chất cũng như tinh thấn, nhưng vẫn biến chuyển - từ năng lực đến hiện thể - trong cũng cùng một lộ trình, một quỹ đạo ước mong, hứa hẹn, dấn thân, thành tín. Như thế, căn tính ipse được nhìn nhận là "ai đó" dưới hình dạng đạo đức (éthique), khôn ngoan (phronesis của Aristoteles), minh triết (sagesse).
Nguồn: http://www.barbier-rd.nom.fr/M.BrugvinRicoeur.PDF
Bản quyền và xử dụng: Bạn đọc có thể tùy nghi xử dụng tư liệu này - cũng như các tư liệu khác trên trang mạng CSNT - , nhưng xin trưng dẫn các nguồn xuất bản và biên soạn.
Frankfurt, CHLB Ðức.
15.03.1012
Lưu Hồng Khanh