Đức tin đến bởi sự người ta nghe, mà người ta nghe, là khi lời của Đấng Christ được rao giảng.

September 14, 2012

Phê bình thuyết vô ngã trong triết Phật

1- Dẫn nhập:
Cột trụ  của  Phật Giáo là  thuyết Vô  Ngã.  Thuyết    Ngã do  chính  Phật Thích Ca, giáo  chủ của Phật Giáo giảng  dạy. Trong kinh  Pháp Cú 20:5-7  ghi  lại lời  dạy của Phật Thích Ca như sau: 
"Chư  Hành      thường   (Mọi   sự  vật  bị   giới   hạn  đều        thường   -  luôn   biến   đổi) "Chư Hành    khổ (Mọi  sự vật bị  giới  hạn đều là  khổ - đời   sống không có  sự  vui thỏa) "Chư Pháp    ngã (Mọi  pháp là    ngã - "pháp" bao gồm sắc pháp tức vật lý  và tâm pháp tức tâm lý) 
Chữ "pháp" là  một thuật ngữ độc đáo trong Phật học, nó bao gồm tất cả những gì  thuộc về thế giới  vật lý lẫn  những gì  thuộc về thế giới  tâm lý,  nó bao gồm cả Niết Bàn. Theo giáo lý Nguyên Thủy (Theravàda)  không có  Ngã trong các pháp (mọi  sự vật)  cũng  như không  có Ngã trong con người. Trong Trung Bộ Kinh, Phật Thích Ca dạy rằng: 
"Hỡi các Tỳ Kheo, khi mà Ngã hay bất cứ cái gì thuộc về Ngã không có, thì quan điểm tư duy này: Vũ trụ là linh hồn, ta sẽ là linh hồn sau khi chết, sẽ trường cửu, tồn tại, vĩnh viễn bất biến, và ta sẽ hiện hữu như thế cho đến vô tận thời gian - quan điểm ấy có phải là hoàn toàn điên rồ chăng?"
Từ  thuyết Vô Ngã, Phật Thích Ca khai  mở một chủ thuyết, về sau chủ thuyết này trở thành giáo lý cột trụ của một tôn giáo lớn  gọi    Phật Giáo.  Hơn 2500 năm đã trôi  qua kể từ ngày Phật Thích Ca rao giảng  thuyết Vô Ngã, hàng tỉ người trên  thế  giới  đã tin  vào thuyết này và cố  gắng "tu tập" để có  thể chiêm  nghiệm  được  cái  lý lẽ  của thuyết Vô Ngã. Danh từ "Phật" dùng để gọi   một  người đã  quán  triệt    Ngã, thể nhập Không  Tánh.  Phật  Thích Ca xưng rằng Ngài là Phật đã thành còn chúng sinh là Phật sẽ thành, nhưng trên 2500 năm qua, lịch sử chỉ ghi  nhận có  mỗi  một mình  Ngài Thích Ca tự xưng là  Phật. Nói  cách khác, chỉ có  mỗi một mình người lập ra thuyết Vô Ngã xưng nhận  là mình đã chứng nghiệm được  thuyết ấy. 
  phải  thuyết Vô Ngã quá thâm diệu cho nên suốt hơn 2500 năm nay ngoài  Phật Thích Ca ra không ai có  đủ trình độ, khả năng, sự thông sáng, hoặc lòng nhiệt thành để giác ngộ? Bài viết này nhằm phân tích và phê bình thuyết Vô Ngã của triết Phật. Tác giả ước  mong những điều  được  trình  bày dưới  đây sẽ xóa đi  những huyền thoại  về sự siêu  việt  của thuyết Vô Ngã. 
2- Định nghĩa một số từ ngữ: 
Ngã: Mỗi  tôn giáo  hoặc trường phái  triết  học có  những định  nghĩa  khác nhau về Ngã, (Ngã là  một danh từ Hán Việt).  Một cách tổng quát, Ngã là  một thực thể (một cái      thật), trường tồn và là một phần của con người, là một "cái tôi" tuyệt đối  riêng biệt, khôn g ai thay thế được,    phần làm  chủ và trách nhiệm  mọi    duy, tình  cảm, ý  chí,  hành động của con người. Tiếng Phạn (Sanskrit)  gọi  Ngã là  "Atman",  tiếng  Anh gọi  là "Self",  tiếng  Việt gọi  nôm na là  "cái Tôi"  hoặc  "cái Ta". Cơ-đốc Giáo (Christianity)  gọi    Linh  hồn (Soul).  Triết  Phật dạy rằng, một Ngã như vậy không có  thật, mọi  quan niệm về Ngã chỉ là ảo tưởng, mọi  nhận thức về Ngã chỉ là ảo giác. 
Nhập Không Tánh: Trạng thái quán triệt (hiểu thấuđáo tường tận)Vô Ngã dẫn đến sự quán triệt  Tánh Không  của mọi  pháp. (Tánh  Không  của mọi  pháp là:  vạn  vật,  kể  cả  "cái  Ta" không có  thật, không có  tự tánh, không thể nắm bắt nên thật ra không sinh không diệt.  Sự sinh và diệt  mà chúng sinh kinh nghiệm  mỗi  ngày chỉ là  sự sinh và diệt của những ảo ảnh.) Nhập Không Tánh tức đắc đạo, tức nhập Niết Bàn. 
Niết Bàn: Không  phải    một  nơi chốn như Thiên Đàng hay  Hỏa  Ngục mà là  trạng thái  giải thoát, an nhiên tự tại, nhờ thấu hiểu (giác ngộ) chân tướng của vạn vật là Không, nên chấm dứt và thoát ra ngoài  mọi ý niệm, thoát mọi chấp Ngã (thoát khỏi  sự cho rằng Ngã có  thật), thoát mọi  chấp pháp (thoát khỏi  sự cho rằng mọi  vật có  thật, có  tự tánh, có  sinh,    diệt), thoát khỏi luân hồi, tức thoát vòng sinh tử. 
Pháp: (1)  Chư Pháp: Mọi sự vật, sự việc  trong thế giới  vật lý lẫn  thế giới  tâ m lý, kể cả Niết Bàn. (2) Phật pháp: Lời dạy của Phật Thích Ca. (3) Pháp môn: Phương cách  tu tập  để quán triệt    Ngã và Không  Tánh.  Theo Phật Thích Ca, có  đến 84,000 Pháp môn. Các nhà Phật học không thống nhất với  nhau về ý  nghĩa  của con số 84,000 pháp môn. Dưới  đây là  luận giải của tác giả: 
- Tứ Diệu Đế thiên biến = (4) X (1000) = 4000 
- Bát Chánh Đạo vạn hóa = (8) X (10,000) = 80,000 
- Pháp môn tu tập để Giác Ngộ  = Tứ  Diệu Đế thiên biến  + Bát Chánh Đạo vạn hóa (4000 + 80,000 = 84,000 pháp môn) 
Phật: Người  quán triệt, tức giác ngộ Vô Ngã (thấy và hiểu sự vận hành của mọi  "pháp" như chúng vốn là như vậy, tức vạn vật chỉ là ảo giác) dứt mọi  ý niệm (nguyên cớ  tạo ra ảo giác) nên thoát vòng sinh tử (ra khỏi luân hồi), nhập Không Tánh (thoát  Khổ, trở về Chân Kh ông, đạt Niết bàn),  trở thành  Phật, tức Bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. 
Vô Minh: U mê, tăm tối,  phát sinh  ra những ý  niệm  không thật khiến  tạo ra các ảo giác (các pháp của thế gian) dẫn đến những nhận thức sai lầm, tạo ra nghiệp lực, thu hút Tứ Đại (tạo thành  thân xác), giam giữ  chúng sinh miệt mài luân chuyển trong 12 yếu tố của Duyên Khởi (luân hồi). Nếu có  84,000 pháp môn giải thoát thì cũng có  84,000 cảnh giới    minh. 
- Ngũ Uẩn:  Sắc,  Thọ, Tưởng,  Hành, Thức (5)  X (12) Yếu  tố  Duyên  Khởi = 60 (sự Chấp Pháp)
- Tam Độc:  Tham,  Sân, Si  (3) X (8) Tám Thức: Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt,  Thân, ý, Tống Truyền, Tàng = 24 (sự Chấp Ngã) 
- Khổ: Chấp Pháp + Chấp Ngã X thiên biến = vạn hóa (60 + 24 X 1000 = 84,000 cảnh giới) 
* Khổ thiên biến mà thành ra vạn hóa: Khổ = thiên biến ---> vạn hóa. 
* Giác Ngộ  vừa thiên biến mà vừa vạn hóa: Giác Ngộ  = thiên biến + vạn hóa.
Chương I: Lập luận Vô Ngã (Anatta) của triết Phật 
Phật Thích Ca lập thuyết Vô Ngã dựa trên các suy luận sau đây: 
A. Nhận Định Duyên Khởi: 
Được  sinh  trưởng trong môi  trường văn  hóa của Ấn Giáo, ít nhiều    Đức  Thích Ca cũng ảnh hưởng  thuyết Nhân Duyên và Luân  Hồi  của  Ấn giáo. Đối  diện  với  cuộc sống, chứng kiến  thế nhân sinh, lão,  bệnh, tử - nhìn thấy vạn vật thành, trụ, hoại,  diệt; Đức  Thích Ca suy ra mọi sự vật đều giới  hạn, tương đối  và phụ thuộc lẫn nhau theo công thức sau đây: 
1) Cái này có  thì cái kia có  (vì có  hột lúa nên có  cây lúa)
2) Cái này sinh  thì  cái  kia  sinh  (vì  cây lúa  sinh  ra hột lúa  nên từ hột lúa  lại sinh  ra cây lúa khác)
3) Cái này không có thì cái kia không có  (không có  hột lúa thì không có  cây lúa)
4) Cái này diệt  thì  cái kia diệt (hột lúa bị  diệt  thì  cây lúa  - sẽ sinh ra từ hột lúa ấy - cũng bị diệt) 
Theo Tương Ứng Kinh bộ  II thì 12 yếu tố Duyên Khởi trong  triết Phật là:
 
1. Vô Minh
2. Hành
3. Thức
4. Danh Sắc
5. Lục Nhập
6. Xúc
7. Thọ
8. Ái
9. Thủ
10. Hữu
11. Sinh
12. Lão - Tử (Ưu, Bi, Khổ não) 
  Minh sinh  ra Hành, Hành sinh  ra  Thức, Thức sinh  ra Danh Sắc, Danh Sắc sinh  ra Lục Nhập, Lục  Nhập sinh  ra Xúc,  Xúc sinh  ra Thọ, Thọ sinh  ra ái,  ái  sinh  ra Thủ, Thủ sinh  ra Hữu, Hữu sinh ra Sinh, Sinh sinh ra Lão, Tử, (Ưu, Bi, Khổ não). 
Từ  nhận định  đó  (dựa vào thuyết Nhân Duyên và Luân  Hồi  của  Ấn giáo),  Đức  Thích Ca lập ra thuyết Duyên Khởi, cho rằng mọi  sự vật tương quan và luân chuyển trong một vòng tròn của luật Duyên Khởi (duyên=sinh ra, khởi=bắt đầu). 
B. Phân tích Ngũ Uẩn: 
Khi suy tư về bản thể của con người, Đức  Thích Ca nhận  thấy  con người là một tổng thể bao gồm các phần thấy được, đụng chạm được  và các phần không thấy được, không đụng chạm được.  Đức  Thích Ca phân  tích  con người thành  Ngũ Uẩn. Uẩn là  một tập hợp, một nhóm. Ngũ Uẩn (năm tập hợp) đó  là:
 
1) Sắc Uẩn:  Tức  Thân + Tâm (được cấu tạo  bởi  Tứ  Đại là  đất + nước + gió  + lửa),  Sắc Uẩn bao gồm các Giác Quan (Căn) 
2) Thọ Uẩn:  Tức    những Cảm Thọ (cảm giác  nhận  được) do  sự tiếp  xúc giữa  6 Căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) và 6 Trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) 
3) Tưởng Uẩn: Tức  là những Tư Duy phát sinh từ những Cảm Thọ, tạo ra các Khái Niệm 
4) Hành Uẩn: Sự  Lưu Chuyển của các Khái Niệm, biến Khái Niệm thành Hành Động. 
5) Thức Uẩn:  Sự  Nhận  Biết và Phân  Biệt các Khái Niệm.  Riêng Thức Uẩn chia  làm  8 Thức khác nhau: 
a) Nhãn Thức là sự nhận biết và phân biệt các khái niệm do  mắt nhìn thấy vạn vật.
b) Nhĩ  Thức là sự nhận biết và phân biệt các khái niệm do  tai nghe từ vạn vật.
 
c) ỷ Thức là sự nhận biết và phân biệt các khái niệm do  mũi ngữi  được  từ vạn vật.
 
d) Thiệt Thức là sự nhận biết và phân biệt các khái niệm do  lưỡi nếm lấy từ vạn vật.
e) Thân Thức là sự nhận biết và phân biệt các khái  niệm do  thân thể tiếp xúc với  vạn vật.
f) Ý Thức là  sự nhận biết  và phân biệt  các khái  niệm  tổng hợp từ các khái  niệm  do  5 thức trên đem lại.
g)  Mạt Na  Thức (Manas  Vijnãna)  còn gọi    ý  Căn, là  nơi phát  sinh  ra ý  Thức. Mạt Na  Thức truyền các hệ quả (hạt giống  - chủng  tử)  của  những  Khái Niệm đã  biến  thành hành động (pháp hiện  hành)  vào Tàng Thức và tống đưa  các hệ quả đã nhuần thấm, chín  mùi  ra hiện hành, nên còn được  gọi    Tống Truyền Thức. Mạt Na  Thức khiến chúng sinh  nhìn  thấy một ảo giác về Ngã, là gốc của sự Chấp Ngã, là nguồn gốc của 4 phiền não căn bản: 
- Ngã Si  (sự vô  minh, u mê, ngu tối về bản ngã)
- Ngã ái (sự yêu thương quyến luyến bản ngã) 
- Ngã Kiến (sự nhìn thấy những sai lầm của bản ngã) 
- Ngã Mạn (sự kiêu căng, ngạo mạn cho bản ngã là cao cả hơn hết) 
Tương truyền  Phật  Thích Ca nói  câu sau đây: "Thiên  Thượng Địa Hạ Duy Ngã  Độc   Tôn". Nhiều người giải  luận  câu này cho rằng  Phật Thích Ca có  ý  tuyên bố  rằng: "Trên Trời  Dưới Đất  Chỉ Mình Ta (Phật  Thích Ca)  Đáng  Tôn  Quý". Thật  ra, nếu quả thật Phật T hích Ca có tuyên bố  câu này, thì  chỉ là nhằm kiên  định cái  thuyết Vô Ngã mà thôi. ý  của câu đó    thể giải luận  như sau: "Khắp  vũ trụ (trên trời  dưới  đất)  chỉ có  cái  NGã của chúng sinh    được chúng sinh tôn làm cao cả hơn hết (mặc dầu cái Ngã không có  thực). 
h) A Lại Da Thức (Alaya Vijnãna) còn gọi  là Tàng Thức. Thức này bao gồm 3 chức năng: 
- Năng Tàng:  Chức năng chứa đựng, gìn  giữ  các chủng tử (hạt giống)  của các pháp, tức chứa đựng những hệ quả của các hành động thiện cũng như ác của chúng  sinh. 
- Sở  Tàng:  Chức năng ấp ủ, nhuần thấm những chủng tử được  chứa trong Tàng Thức. Khi đã nhuần thấm, chín  mùi  thì  các chủng tử này được  Tống Truyền Thức tống đưa  ra thành hành động. 
- Ngã ái  Chấp Tàng: Chức năng duy trì  một ảo giác  về cái  Ngã (Chấp Ngã), yêu thương  cái Ngã, độc tôn cái  Ngã, và đó  chính    lực  lượng qui  tụ Tứ  Đại để kết thành  thân  xác chúng sinh. 
C. Suy luận Tánh Không: 
Triết Phật không công nhận  "Nguyên Nhân Đầu Tiên". Triết  Phật cho rằng  duyên  khởi là  vì Vô Minh (u mê, ngu tối). Vì u mê, ngu tối  cho nên chúng sinh mới tưởng các pháp (vạn vật) là có  thật, tức Chấp Pháp. Vì Chấp Pháp (cho rằng vạn vật là có  thật) nên chúng sinh tưởng rằng mỗi  pháp đều có  tự tính,  dẫn đến Chấp Ngã (cho rằng mỗi  con người có  một bản ngã, còn gọi  là "cái Tôi", "cái Ta", hoặc Linh Hồn.) 
Ví như một  lữ  hành trong sa mạc nóng cháy, khao khát tìm  được  nước uống. Đến một lúc nào  đó,  sự khao  khát  nước uống  cho cơ  thể thiếu  nước khiến  cho người đó  bị  ảo giác  thấy một vũng nước hay một ốc  đảo giữa sa mạc: 
1. Vũng nước hay ốc  đảo có  hình ảnh hiện ra nhưng không có  thật (sắc tức thị không: tưởng là có  mà thật ra không có). 
2. Vũng  nước hay  ốc  đảo tuy không có  thật nhưng  vẫn có  hình  ảnh hiện  ra (không tức thị sắc: dù là chẳng có  thật nhưng vẫn hiện ra như có  thật).
3. Sự  khao  khát  nước uống, bóng mát làm  cho người lữ  hành nhìn  thấy ảo ảnh của vũng nước hoặc ốc  đảo mà tưởng là nó có  thật (vô minh khiến chúng sinh tùy theo các ý niệm mà nhìn  thấy những hình ảnh [Danh Sắc] của vạn vật [các Pháp] và tưởng các pháp là có  thật, tức Chấp Pháp). 

4. Cái mệt  mõi,  khát  nước của thể  xác khiến cho người lữ hành ý thức rằng: "Tôi  mệt", "Tôi khát", "Tôi  cần uống nước",  "Tôi  cần nghĩ  ngơi  trong bóng mát". .. nhưng  bóng mát không có  thật, nước uống không có  thật nên không thoả mãn được  nhu cầu, sinh ra Khổ. (Vô minh khiến  chúng sinh    Chấp Ngã - tưởng mình      thật, mà sinh  ra Chấp Pháp - tưởng các pháp là    thật. Ví như người lữ  hành tưởng là  thể xác mình    thật, cho rằng sa mạc có thật, mặt trời    thật, vũng  nước có  thật, ốc  đảo có  thật nên đau khổ vì  cát nóng, nắng cháy, vì  thân thể bị  mất nước,    thèm được  uống  nước nhưng  vũng nước không    thật, vì thèm được  núp bóng mát nhưng ốc  đảo không có  thật.) 

D. Lập thuyết Vô Ngã:

Sự  luận  giải  về thuyết Vô  Ngã của triết  Phật có  thể  tóm  tắt  như sau: Từ    lượng kiếp, chúng sinh  quay cuồng trong vòng luân  hồi  sinh  tử, bởi    trong  một lúc nào đó, ở thời  quá khứ vô  cùng khởi (có thể  đến  hàng  tỉ  tỉ  tỉ  năm về trước!) vì  u mê, ngu tối  (Vô Minh) mà chúng sinh  phát  khởi các ý  niệm  hoặc thiện  hoặc ác (Hành).  Những ý  niệm  này hình  thành các khái niệm (Thức). Các khái  niệm tạo ra những hiện tượng tâm lý và vật lý tức là ảo ảnh về vạn vật (Danh Sắc). Ảo ảnh khiến  sinh  ra các giác  quan và ý  thức (Lục  Nhập).  Các giác quan và ý  thức phát sinh  ra sự đụng chạm và tiếp  xú c  (Xúc).  Sự  đụng chạm và tiếp  xúc đem lại cảm giác và nhận định (Thọ). Cảm giác và nhận định sinh ra sự ham muốn (ái).  Sự ham muốn tạo thành ý chí bám víu, giữ  lấy (Thủ). ý chí bám víu, giữ  lấy kết tinh thành thực thể (Hữu). Thực thể trở thành  sự sống (Sinh).  Sự  sống suy tàn rồi  tiêu tan dẫn đến già  cỗi và sự chết (Lão - Tử), cùng những lo, buồn, đau đớn. Chu trình này sẽ tái  diễn đến vô  lượng lần, mỗi lần là một kiếp, trong tương lai vô  cùng tận.

Trong chu trình  Duyên  Khởi (12 yếu tố kể trên) mỗi  yếu tố vừa là  nhân của yếu tố này mà là  quả của yếu tố kia.  Tùy theo những ý niệm  phát sinh  mà Tứ  Đại (đất, nước,  gió, lửa) kết thành thân xác của chúng sinh.  Thân Tứ  Đại sinh  ra khi hội  đủ Pháp hiện  hành và chết đi khi Pháp hiện hành đã hết, đó    một kiếp  của chúng sinh.  Tuy nhiên,  trong một kiếp  đó  sự luân  chuyển, thể hiện  của  các Pháp hiện  hành đã tạo ra các nhân thiện  hoặc ác khác (Chủng Tử) và được  Tống Truyền Thức đem cất giữ  vào Tàng Thức. Khi những  chủng  tử này đã được  thấm nhuần trong Tàng Thức thì Tống Truyền Thức phóng chúng ra thành các Pháp Hiện Hành mới,  thu hút Tứ  Đại,  tạo ra một thân xác mới.  Tiến trình này được  gọi    Nghiệp Lực. Nghiệp lực  cứ  khiến cho chúng sinh quay cuồng trong chu trình bất tận của Duyên Khởi nghĩa là chúng sinh có  thể trải  qua vô  lượng kiếp! 

Trong 12 yếu tố của Duyên Khởi,  nếu phá được  Vô Minh thì  diệt  được  Hành. Hành không có thì  diệt  được  Thức. Thức không có  thì  diệt  được  Danh Sắc. Danh Sắc không có  thì  diệt  được Lục Nhập. Lục Nhập không có  thì  diệt được  Xúc.  Xúc không    thì  diệt  được  Thọ. Thọ không có  thì  diệt  được   ái.  ái  không có  thì  diệt  được   Thủ. Thủ không có  thì  diệt  được   Hữu. Hữu không có  thì  diệt được  Sinh. Sinh không có  thì diệt được  Lão, Tử, Ưu, Bi, Khổ não. 

Làm  sao để phá được  Vô Minh? Bằng cách  quán  triệt  chân tướng của sự vật (các pháp) chỉ là  KHôNG!  Như vậy, muốn thoát khổ (được giải  thoát) con người cần  phải  quán triệt  Chân Tướng của sự vật, của chính  mình.  Khi quán  triệt  Chân  Tướng của sự vật, của chính  mình, thì  sẽ Giác Ngộ, nghĩa    nhận ra vạn vật, trong đó  c ó  mình,  chỉ là  ảo giác,  không có  thật. Có  thể nói  như sau: Những gì  tôi nhận thấy chung quanh tôi hoặc về chính tôi chỉ là ảo giác. Tại tôi  tưởng là chúng có  thật cho nên có  cái tôi yêu thích, có  cái tôi  ghét bỏ, có  cái  tôi khao khát, có  cái  tôi  tìm  cầu, có  cái  tôi  muốn nắm giữ,    cái  tôi  muốn  vứt bỏ...  và khi không thoả mãn được  ý  mình  thì  tôi  khổ.  Cho đến  lúc tôi  nhận ra, vạn vật, trong đó    tôi,  đều không có  thật, đều Vô Ngã, thì tôi hết khổ, tôi nhập Niết Bàn. 

Chương II: Giá Trị Của Thuyết Vô Ngã 

Một thực  tế  không  thể  phủ  nhận  được    trên 2500 năm nay, kể từ ngày thuyết Vô Ngã ra đời, ảnh hưởng  của thuyết Vô  Ngã và của những phó phẩm ra từ thuyết ấy đã gây thêm phấn khích cho các tư tưởng vô  thần. Vô Ngã không còn giới  hạn trong phạm vi triết học mà đã trở thành một thứ "giáo lý tôn giáo" mang ít nhiều ảnh hưởng đến các luồng tư tưởng vô thần rải  rác khắp Âu,  á. Đây là  sự hiểu  biết  cá nhân  của một  người dốc lòng  tìm  hiểu  đạo Phật bởi  động cơ  thực tâm học hỏi  những lời  dạy dỗ  của  Phật  Thích Ca để mong  tìm  đến Chân Lý.  Nếu những gì  được  trình  bày trong bài  viết  này giúp  đem  lại vài  điều  suy tư  cho độc giả về Hữu Ngã và Vô Ngã thì người viết đã mãn nguyện lắm rồi! 

A. Một nguồn sông hai dòng chảy: 

Mỗi  một  con người được  sinh  ra bình  thường  trên đời  đều phải  đối  diện  với  những nghi  vấn muôn đời  của nhân loại.  Bởi lẽ nhân loại muốn truy tìm về nguồn gốc, ý nghĩa, và mục đích của đời  người.  Tôn  giáo là nổ lực  của con người,  muốn đem lại cho nhân  loại những câu trả lời cho các nghi vấn ấy. Phần nhiều các tôn gi áo lớn  xuất phát từ á Châu. Phải chăng á Châu là  cái  nôi  của nhân  loại? Phải  chăng mọi  nền văn minh  của nhân  loại đều  bắt nguồn  từ cái nôi ấy?

Ấn Độ  giáo  (Hindu)  gọi  tắt là  Ấn giáo,  khởi phát  tại  Ấn Độ  khoảng 1500 năm trước Công Nguyên, vốn đã có  một vai  trò  lịch sử,  triết  học và tôn giáo  quan trọng trong vùng nầy. Thuyết  Duyên  Khởi của Phật  Thích Ca ảnh  hưởng  rất nhiều  từ thuyết Nhân Duyên và Luân Hồi  của  Ấn giáo.  Điều quan  trọng là Đức  Thích Ca đã dựa trên  cở  sở của thuyết ấy để triển khai thành giáo lý Vô  Ngã. Nếu có  thể ví  Ấn giáo  như một  dòng sông  chảy về phương  Nam thì  Phật  Giáo là  một dòng tách ra từ thượng  nguồn  của  dòng  sông  ấy    chảy  ngược về phương Bắc. Bởi vì, ngoài sự nhận định giống nhau của thuyết Nhân Duyên và thuyết Duyên Khởi  thì  Ấn  giáo    Phật  Giáo hoàn  toàn  khác  biệt.  Trong  khi  Ấn giáo  cổ  xúy cho Ngã (Atman - The Innermost Self) và đề cao một Thực-Thể-Cao-Siêu-Tuyệt-Đối  (Brahman  - The Ultimate Reality) thì Phật Giáo lại phủ nhận  cả hai. 

1. Dòng chảy Ấn giáo: 

Ấn giáo  và Phật Giáo đều  khởi đầu thuyết Nhân Duyên và Duyên Khởi bằng    Minh (ngu dốt, u mê, tăm tối)  nhưng  trong  Ấn giáo    một chủ thể, một Ngã, một cái  tôi      minh mà đi  tìm những thỏa mãn bên ngoài  bản ngã đích  thực cho nên dẫn đến hậu quả đau khổ vì  không bao giờ    thể thỏa mãn được  với  cái  “bản ngã giả  định” đó.  Từ  đó, quan điểm Nghiệp  lực  (Karma)  được  suy diễn  ra để dẫn cái  tôi  đi  từ "kiếp" này sang  "kiếp" khác, cho đến  khi nó bừng tỉnh  nhận ra bản ngã đích  thực của mình  (bản  lai diện  mục) và trở về hội nhập với  Thực-Thể-Cao-Siêu-Tuyệt-Đối, còn gọi  là Đại Ngã (Brahman). 

Ấn giáo  gọi  bản ngã đích  thực  của  một  người là  Atman,  bản ngã đích  thực này không hề thay đổi.  Bên cạnh  đó,  con  người còn có  bản ngã vật chất vô  thường  (thể xác, tư  tưởng, cảm xúc). Vì con người tập  chú  vào  bản  ngã  vật  chất  quá  nhiều,  miệt  mài  tìm  kiếm  hạnh phúc trong một vũ trụ vật chất cũng vô  thường  (luôn luôn  biến  đổi) cho nên không bao giờ tìm gặp hạnh  phúc  mà chỉ gặt  hái  những đau khổ thất vọng. Thật  ra, hạnh phúc theo Ấn giáo, là sự ý thức về bản ngã đích thực và mối quan hệ giữa bản ngã cá nhân (Tiểu Ngã) với Đại Ngã. Khi con người bừng tỉnh từ trong  quá trình u mê tăm tối  tìm kiếm, nhận thức được bản ngã đích thực của mình, là lúc con người trở về với  chân hạnh phúc và được  giải  phóng khỏi luân hồi, khỏi  mọi đau khổ. 

Thí dụ sau  đây có  thể dùng để minh  họa cho ý  tưởng nói  trên: Một ông  Vua  nằm mơ thấy mình    một tên ăn mày đói   rách, hạ tiện…  lúc nào  cũng khao  khát  được   ăn no mặc ấm nhưng  suốt giấc  mơ không bao giờ  sự khao khát ấy được  thoả mãn, cho nên ông vua có cảm giác  đau khổ. Trong một giấc  mơ khác, ông vua mơ thấy mình là một tên lính và khao khát được   trở thành một viên  soái  tướng oai  vệ, suốt cả giấc  mơ sự khao khát ấy cũng không bao giờ  được  thỏa mãn nên ông vua lại có  cảm giác đau khổ. Tiếp th êm một giấc mơ khác, ông vua mơ thấy mình là  một tay phú hộ giầu  có, nhưng  chiến  tranh loạn lạc  nổi  lên của chìm,  của nổi  đều tiêu  tán và phú hộ biến  thành cùng đinh  khiến  cho ông vua có  cảm giác  tiếc nuối,  đau đớn… Những giấc  mơ của ông vua có  thể liên  kế t với  nhau bằng một chi tiết nào đó, và hết giấc  mơ này tiếp  giấc  mơ khác cho đến  khi ông vua mơ thấy  mình  làm vua, vui sướng quá… bừng tỉnh, và thấy mình là vua thật! 

Trong Ấn Giáo,  sự giác  ngộ và giải  thoát không bỗng nhiên  như sự giác ngộ của Phật Thích Ca. Muốn diệt    minh  để chấm dứt luân  hồi,  người  tin  theo  Ấn giáo  phải  trả hết những nghiệp  xấu đã gây ra và phát huy những nghiệp  lành.  Chỉ khi nào  sự thăng  tiến  của tâm linh tiến  đến mức độ  chỉ làm  ra những việc  lành,  lúc ấy con người mới bừng  tỉnh  khỏi cơn mê truyền kiếp, nhận thức được  bản ngã đích thực, rời  khỏi luân hồi  trở về hội  nhập vào Đại Ngã. 

2. Dòng chảy Phật Giáo: 

Trong Phật Giáo,  một  người có  thể  đạt đến giải thoát  một cách tiệm  tiến  qua sự thăng tiến của  tâm  linh như trong  Ấn giáo  (chữ tâm  linh dùng ở  đây cho Phật Giáo là  dùng một cách gượng  ép, có  lẽ  chỉ nên dùng chữ TâM).  Tuy nhiên,  điểm  hệ trọng hoàn toàn khác biệt  giữa Phật Giáo và Ấn giáo đó  là Phật Giáo phủ nhận Tiểu Ngã (cái tôi của mỗi người) lẫn Đại Ngã. Sự  phủ nhận đó  được  thể hiện trong chính câu nói  của Đức  Thích Ca nói với  các đệ tử nhằm phản bác niềm  tin  về Ngã và Đại Ngã trong  Ấn giáo:  "Hỡi  các Tỳ  Kheo, khi mà Ngã hay bất cứ  cái    thuộc về Ngã không có, thì  quan điểm  tư duy này: Vũ trụ là linh hồn, ta sẽ là linh hồn sau  khi chết,  sẽ trường cửu, tồn tại,  vĩnh  viễn  bất biến,  và ta sẽ hiện  hữu như thế  cho đến vô  tận thời gian  - quan điểm ấy có  phải là hoàn toàn điên rồ  chăng?" (Trung Bộ Kinh) 

Quan điểm  nói  trên dẫn đến kết luận:  Vạn  vật vô  ngã, đã vô  ngã thì  không có  tự tánh (không có  bản thể). Vì vạn vật đều là vô  ngã, không có  tự tánh nên vạn vật là  KHôNG.  Bản tánh chân thật của vạn vật là  KHôNG. Mọi hiện tượng thấy được  và không thấy được  (vật lý và tâm lý = sắc tướng và vô  sắc tướng) đều liên tục biến đổi  cho đến khi chúng trở về trạng thái  thật, tức là KHôNG. Cho nên, chỉ cần thấy  được  tánh không của vạn vật sẽ ý thức được vạn vật vô  ngã và lập  tức dứt mọi  phiền  ưu lao  khổ, hội  nhập  Niết Bàn, tỉ  như người vừa choàng tỉnh ra khỏi cơn  ác mộng, trở về với  đời  sống thực tế. (Đây chính là điểm "hốt nhiên giác  ngộ"  trong  Phật  Giáo mà  Ấn giáo  không có.) Người  chưa  giác  ngộ cũng ví  như người còn ở  trong cơn   ác mộng, vì  tâm cứ  bám  víu vào  những  hiện  tượng xảy ra trong cơn   ác mộng nên giấc  ngủ càng say và ác mộng càng nhiều,  ác mộng này kết nối  và sinh  ra ác mộng khác… 

Phật  Thích Ca dạy  rằng    84,000 pháp môn (con đường  tu tập để giác  ngộ). Không  một kinh  sách nào liệt  kê hay phân loại 84,000 pháp môn mà Đức  Phật khẳng định.  Tuy nhiên, có  thể tin rằng con số 84,000 chỉ là một con số tượng trưng chỉ về số nhiều đếm không xuể như phương  ngôn  "hằng  hà sa số" (số  lượng cát  ở sông Hằng=vô lượng pháp môn tu). Khi nói    84,000 pháp môn tu tập để đạt đến giải  thoát, hoặc nói    84,000 sinh  mạng trong một ly nước chỉ là một cách nói  biểu tượng. Điều có  thể chắc chắn đó  là những pháp môn tu tập mà không một pháp môn nào giống  pháp môn nào (về điểm  này thì  Ấn giáo  và Phật Giáo giống  nhau, tỉ  như chất  nước của  hai  dòng chảy cùng phát xuất từ một nguồn). Hơn

2500 năm nay, ngoài  Phật Thích Ca tự tuyên  bố  mình  đắc đạo, chưa  một  người nào  tự cho mình  đã  đắc  đạo  như Phật  Thích Ca, chính    đó  mà không có  ai  kiểm  nghiệm  thêm được một pháp môn nào khác ngoài  pháp môn mà qua đó  Đức   Thích ca giác  ngộ thành Phật: Pháp môn Thiền Định! 

Nhờ  thiền mà Đức  Thích Ca giác ngộ được  Vô Ngã. 

B. Giá trị của thuyết Vô Ngã về mặt triết học: 

1. Ý tại ngôn ngoại? 

Thuyết    Ngã của triết  Phật tự làm  cho mình  mâu thuẫn với  chính  mình.  Trên cơ  sở và phương  pháp lý luận,  Thuyết  Vô Ngã rất dễ bị  phản biện, vì Vô Ngã luôn luôn có  chu ng một mẫu số với  Hữu Ngã: Nếu không có  Ngã thì  "cái gì"  đau khổ? "cái gì"  tạo nghiệp  và chuyển nghiệp?  "cái gì"  suy tư?  ”cái gì"  đi  tu?  "cái gì"  giác  ngộ?  "cái gì"  nhập  Niết Bàn? "cái gì" giảng  dạy và viết  ra thiên  kinh  vạn quyển tràn lan?  Một câu  hỏi  khác cũng rất "hóc búa": Nếu con người của Đức  Thích Ca là "không thật" thì  chân lý Vô Ngã do  Ngài tìm ra "có  thật" hay không? Bởi    thuyết Vô  Ngã là  một sản phẩm tối  cao,  cuối cùng, và chân  thật  của trí tuệ mà trí  tuệ đó    trong một chủ thể tên là  Thích Ca, nếu  Thích Ca vốn là    Ngã, tức là không có  thật; thì  cái  trí  tuệ  "của" Thích Ca cũng không có  thật, suy ra chân lý  Vô Ngã mà trí  tuệ không có  thật ấy nhìn  thấy cũng chỉ là  ảo ảnh. Lý lẽ    ràng nầy đã đánh bại  thuyết Vô Ngã dễ dàng. 

Trên một phương  diện  khác, các bậc trí  thức  Phật  Giáo cho rằng thuyết Vô  Ngã gặp khó khăn về mặt lý luận bởi  vì ngôn ngữ không đủ để chuyên chở những điều vi diệu của tư duy. Người  xưa từng  nói:    tại  ngôn ngoại"  nghĩa    cái  ý  tứ nằm ở  ngoài  lời  nói,  lời  nói  không sao diễn  đạt được  những điều  mà tư  duy chứng nghiệm.  Nhưng nói  thế khác nào bảo rằng tất cả giáo    Phật Giáo đều chưa  nói  lên  được  chân lý,  ai  bám vào nó là  sai  lầm!  Bởi,  Đức Thích ca  xưng nhận  mình    người chỉ  đường  cho chúng sinh  đến với  chân lý  mà chân lý không được  giải  bày minh  bạch, khúc triết  thì  làm  sao thế nhân có  thể lãnh  hội  được,  nhất là thế nhân đã u mê tăm tối  từ vô  lượng kiếp? Phải chăng đây chính là nguyên cớ  khiến cho xưa nay chưa có  ai khác ngoài Đức  Thích Ca đắc đạo thành  Phật? 

Cũng có  những nhà nghiên  cứu Phật học giảng  rằng, cái  NGã mà Đức  Thích Ca khẳng  định không có  thật  đó, chỉ là  những cái  "Ngã giả  định"  được  thêu dệt nên trong tâm trí  của con người.  Cái Ngã giả  định  này đã được  đề  cập  trong  Ấn giáo.  Ấn giáo  phân biệt    ràng một bản ngã giả  định và một bản ngã đích  thật. Phật Giáo thì  tuyên bố  vạn vật vô  ngã rồi  thêm vào thuyết "sắc không" khiến  cho giới  bình  dân đại  chúng không thể nào thấu triệt  cái  lý luận  của thuyết Vô Ngã;  trong khi đó, những bậc thượng  trí,  dốc lòng  đi  tìm  chân lý của sự giải thoát  khỏi  đau khổ thì  miệt  mài  chiêm  nghiệm  thuyết Vô  Ngã như những  học sinh  ưu tú, hiếu học, kiên trì cố  giải cho được  một phương trình không có  nghiệm số! Chính giữa giới bình  dân đại  chúng và những bậc thượng  trí  lại có  thành phần những kẻ chẳn g  hiểu  biết  gì về Phật  pháp,  chỉ thuộc  lòng  một số kinh  sách, đem ra nói  như vẹt  để  gạt  gẫm  thiên  hạ nhằm thu lợi về danh, sắc, tài vật… 

Nhưng giảng  về Vô Ngã như thế  khác nào  cho rằng  Phật  Giáo cũng "ngầm"  công nhận  một bản ngã đích thật như Ấn giáo? Phật Giáo khẳng định mọi  pháp đều vô  ngã (kể cả Niết Bàn) thì  làm    "có"   một cái  Ngã nào  trong  Phật  Giáo? Sự  vi  diệu  của thuyết Vô  Ngã là    chỗ: ngay cả Niết Bàn cũng Vô Ngã! 

Như  vậy, ý nghĩa đích  thực của Vô Ngã là  gì, xét về mặt triết lý?  Để có  thể định nghĩa  được Vô Ngã, có lẽ trước hết chúng ta phải tìm hiểu về Niết Bàn, là cứu cánh của Phật Giáo. 

2. Niết Bàn: 

Trong Kinh Itivuttka  và Udana,  Phật  Thích Ca dạy  về Niết Bàn như sau: "Này chư tỳ khưu, có   một trạng  thái   không sanh (ajata),  không  khởi  phát  (abhuta),  không được   cấu tạo (akata),  và không tùy thế (asamkara).  Nếu không có  trạng thái  không sanh, không khởi phát, không cấu tạo, và không tùy thế, ắt không thể có  lối  thoát cho cái    sanh, có  khởi phát, có  cấu tạo, và tùy thế. Do  sự kiện    trạng thái  không sanh, không khởi phát, không cấu tạo,  và không tùy thế,  nên mới có  lối  thoát cho cái có  sanh, có  khởi phát,    cấu tạo, và tùy thế." 

Niết Bàn, Nam Phạn gọi    "Nibbana",  Bắc Phạn gọi    "Nirvana".  Theo định  nghĩa  của Bắc Phạn thì  "Ni"    một hình  thức phủ định,    KHÔNG,  và "vana" là  DỆT.  Dệt ở  đây là  dệt những ái  dục từ kiếp này qua kiếp khác. Như vậy, Niết Bàn có  nghĩa là chấm dứt hay không có, hay tách rời  ra khỏi  sự thèm khát, ham muốn. (Những tư  tưởng nầy rất thích  hợp với giới  người sống lang thang vô  định để triền miên suy tư và tự cho mình là kẻ thao thức chân lý trong xã hội  Aán Độ vào thời xưa và còn rải rác thời nay). 

Đức  Thích Ca dùng những danh  từ sau  đây để gọi  Niết Bàn:  An toàn  (Khema),  Bất khả diệt (Akkhara),   Bất  tùy  thế  (Asamkhata),   Chỗ  nương   tựa  tối   thượng   (Paràyana),  Duy nhất (Kevala),  Giải thoát  (Mutti),  Hạnh phúc (Siva),  Siêu  thế (Lokuttara),  Tối  cao (Para),  Tối thượng  (Anuttara),  Trọn vẹn (Tana),  Tuyệt đối  trong sạch (Visuddha),  Vắng  lặng  (Santi), Vĩnh cửu (Amata), Vô song (Anupameya), Vô tận (Ananta), Vượt ra ngoài  (Pàra), v.v… 

  hai hình thức đạt Niết Bàn, trong kinh Itivuttaka, Đức  Thích Ca dạy rõ về Vô dư Niết Bàn và Hữu dư Niết Bàn. Lấy  trường hợp đắc đạo đạt Niết Bàn của Phật Thích Ca ra xét nghiệm thì  ngay sau khi giác ngộ Vô Ngã Đức  Thích Ca lập  tức thành Phật (người giác ngộ) đạt Niết Bàn, ấy gọi    Hữu dư Niết Bàn (Sopadisesa  Nibbana  Dhatu), tức đạt được  "trạng thái"  Niết Bàn;  Sau  khi Phật Thích Ca qua  đời,  ra khỏi  sự ràng buộc của thân Tứ  đại,  Ngài nhập  vào "cõi"  Niết Bàn, tức Vô dư Niết Bàn (Anupadisesa Nibbana Dhatu). 

Như  vậy,  Niết Bàn là  một trạng thái  hay  một  nơi chốn?      cả hai.  Khi  nói  về Hư  vô (emptiness)  chúng ta ý  thức được  Hư vô  vừa là  trạng thái  và cũng vừa là  nơi chốn (không gian).  Hư vô    vĩnh  cửu của KHôNG,  Niết Bàn là  vĩnh  cửu của Có. Nếu có  thể ví  Hư vô  là bóng tối  thì  Niết Bàn cũng ví như ánh sáng. Khi ánh  sáng  bừng lên  thì  không còn thấy được bóng tối  nhưng không có  nghĩa là bóng tối không có  thực, không tồn tại. 

3. "Ngã" trong triết Phật: 

Thế gian,  theo triết  Phật, là  sự giao  thoa giữa  Hư vô  và Niết Bàn, giữa  Không  và Có, giữa Mộng và Thực… thế gian là Ảo ảnh. Chúng ta hãy trở lại với  minh họa về ảo giác của một lữ khách đi trong sa mạc, nhìn thấy  vũng nước hoặc ốc  đảo. 

1. Có  một chủ thể kinh nghiệm ảo gi ác (người lữ khách).
2. Vũng nước, hay ốc  đảo vốn có  thật trong kinh nghiệm của người lữ khách.
3.  Hình ảnh  của  vũng nước,  hay ốc  đảo  người lữ  khách nhìn  thấy  trong  sa  mạc  chỉ là  ảo giác, không có  thật.
4. Trong cơn  mê muội  (vô minh)  người lữ khách có  thể chạy nhanh đến vũng nước,  hay ốc đảo để rồi  thất vọng vì  hình  ảnh đó  tan biến  hay còn đó  mà chạy hoài  không tới.  Cũng có thể người lữ khách thấy mình đã chạy đến tận vũng nước, gieo mình vào vũng nước và uống lấy  những  ngụm  nước mát  lịm,  thoả mãn cơn khát điên  cuồng, rồi  nằm  im lặng,  nghỉ  ngơi hạnh phúc dưới  tàn cây râm mát của ốc  đảo. Trong khi thực tế, người ấy nằm  chết khô dưới ánh mặt trời gay gắt, miệng đầy cát nóng… 

Từ trong vĩnh cửu, chúng sinh (các chủ thể) thực hữu trong trạng thái và trong cõi  Niết Bàn, kinh  nghiệm  hạnh phúc tuyệt vời  của trạng thái  và cõi  Niết Bàn, ví  như người lữ khách lúc đang ở quê nhà với  vườn  cây, ao nước… 

Khi chúng sinh phóng tâm về Hư vô  (hướng cái  tâm tìm kiếm để hiểu biết Hư vô) thì cũng ví như một  người mơ thấy  mình  rời  chốn quê nhà đi  vào sa mạc (từ cõi    của Niết Bàn vào cõi  Không  của Hư vô) tưởng rằng mình  sẽ tìm  thấy những gì  khác lạ  hơn vườn  cây ao nước chốn quê nhà. 

Trong sa mạc chẳng có  điều mà người lữ khách mong tìm, người lữ khách cứ  miệt mài đi  tìm cho đến  khi rơi  vào ảo giác.  Thế gian  chính    cái  ảo giác  xuất hiện  khi chúng  sinh  rời  xa khỏi  thực tại  của  Niết Bàn, phiêu  lưu vào  thực  tại  của Hư Vô. Những  pháp  trong  thế  gian (các sự vật, sự việc)  mà chúng sinh  nhìn  thấy chỉ là  ảo giác, là hình  ảnh phản hồi  dựa t rên kinh nghiệm của cái tâm lúc chúng sinh thực hữu trong trạng thái và cõi  Niết Bàn. Khi người nằm mơ ra khỏi  cơn  mơ, lập  tức cảnh nắng cháy của sa mạc, cảm giác  của cơn  khát nước điên  cuồng…  cũng biến  mất, đồng thời  người ấy trở về với  vũng nước,  vườn  cây, và chính mình trong thực tế. Hạnh phúc trở lại, đau khổ chấm dứt!
Cái mê  trận  của    Minh bắt  đầu  khi người nằm  mơ thấy  mình    lữ  khách, rồi  lữ  khách trong giấc mơ lại nằm mơ thấy mình là lữ khách trong giấc mơ khác, rồi  lữ khách trong giấc mơ khác đó, lại nằm  mơ thấy  mình    một lữ  khách trong giấc  mơ khác nữa…  cứ  như vậy, trùng trùng điệp  điệp… và người nằm  mơ cứ  tưởng rằng những gì  trong các giấc  mơ là  thật, những "lữ  khách" trong những giấc mơ là chính mình, là "tôi", cái "tôi" đó  không có  thật, và Phật Thích Ca gọi  đó  là Vô Ngã! 

Các nước á châu  như Trung Quốc và Nhật Bản hay  sản  xuất  ra  một  loại búp    rỗng  ruột. Bên trong con búp bê này là một con búp bê khác…cùng  hình dáng, màu sắc, đặc điểm, chỉ có  kích thước    nhỏ hơn mà thôi.  Một bộ  búp    như vậy    thể có  từ 5 đến 12 búp bê. Những bộ  búp bê rỗng ruột này có  thể dùng để minh họa cho ý tưởng nêu trên. Người  ta có thể làm  một bộ   búp    12  con  như vậy  với  hình  dáng  của  Phật  Thích Ca,  nhưng  chúng không phải là Phật Thích Ca, những con búp bê đó… vô ngã! 

Như  vậy,  trong  khi chối  từ bản ngã trong mỗi chúng sinh  và trong cả vũ trụ, Phật Giáo không hề chối  từ các chủ thể có  thật và vĩnh  cửu như:  Hư vô, Niết Bàn, Tâm,  Phật, Chúng sinh,  Tứ  đại…  (Thật  ra,  khi dùng các danh  từ chủ thể,  Hư vô, Niết Bàn, Tâm,  Phật, Chúng sinh, Tứ đại… thì cũng đã chấp ngã rồi!) Trong tư duy của Đức  Thích Ca, một chủ thể là một chủ thể, nó có  thật, vốn không sanh, không diệt,  thường  hằng, vĩnh  cửu…  đối  chiếu  với  sự không có  thật, vốn cũng không sanh, không diệt,  thường  hằng, vĩ nh cửu. Một chủ  thể  như vậy không có  bản ngã, không có  tên gọi, vượt  ngoài nghị luận, chỉ có  thể chứng nghiệm qua tư duy, bằng trí  tuệ. Cho nên, để trả lời cho các câu hỏi: "Nếu không có  Ngã thì  "cái gì"  đau khổ? "cái gì"  suy tư?  "cái gì"  giác  ngộ?  "cái gì "  nhập  Niết Bàn?" một  nhà  Phật  học chân chính chỉ mĩm cười, im lặng; họ gọi  là thái  độ  niêm hoa vi tiếu, bất khả tư nghị. Lý luận như thế chẳng khác gì không lý luận, triết lý như thế chẳng  khác gì không triết lý. 

C. Giá trị của thuyết Vô Ngã về mặt tôn giáo: 

Từ  khởi thủy,  Phật Giáo không phải là  một tôn giáo  theo ý nghĩa  đích  thực của danh từ tôn giáo,  bởi  Phật  Giáo phủ  nhận  Một Đấng Thần Linh  Tuyệt Đối  và không hề có  các hình  thức, nghi lễ thờ phượng, cũng không sùng bái  một ai cả. Trong quá trình trôi ch ảy của dòng triết Phật, hàng trăm, hàng ngàn những dòng chảy của các nguồn triết  học, tín  ngưỡng  (kể cả mê tín  dị  đoan), và tôn giáo  thế tục đã gặp gỡ  và hoà nhập vào dòng triết  Phật trước khi tách trở ra chảy theo dòng riêng  của  chúng.  Những dòng chảy này  đã đem  lại nhiều  mầu sắc không hề có  trong  Phật Giáo và khi chúng tách  trở ra,  chảy theo  dòng riêng  của mình thì  chúng  đã để lại ảnh  hưởng  của mình  trong triết  Phật đồng thời  mang theo ảnh hưởng của triết Phật trong chính giáo lý của chúng. 

Các môn đồ  của Đức  Thích Ca và về sau,  những người ái  mộ Phật pháp, ngày càng tôn giáo hóa triết  Phật, đồng thời  tùy ý  diễn  đạt những sự dạy dỗ  của Phật Thích Ca, nhiều  khi thực hành sai  lạc  ý  nghĩa  của Phật pháp,  và dung nạp các trào lưu    tưởng, triết  học, tín ngưỡng,  tôn giáo  khác…  mà khiến  cho triết  Phật biến  dạng thành  Phật Giáo với  nhiều  tông, nhiều phái như ngày nay. 

Nếu xét riêng  giá  trị  của thuyết Vô  Ngã về mặt tôn giáo,  người  viết  xin trình  bày những nhận định của mình như sau: 

1) Thuyết  Vô Ngã dù là  một cột trụ trong giáo lý của Phật Giáo nhưng không phải  người tín đồ  hoặc tu sĩ  Phật Giáo nào cũng am tường về thuyết này. Hầu hết các tín đồ  Phật Giáo tôn thờ Phật  Thích Ca như là  một vị  thần  linh tuyệt  đối    quyền ban ơn, giáng  phúc và cứu họ khỏi  những khổ đau, bất hạnh trong cuộc đời.  Đại chúng Phật tử tin  rằng cứ  làm lành, lánh dữ, đi  chùa, niệm  Phật, tụng kinh…  để kiếp  này đời  sống được  an nhàn, sung túc hơn và kiếp  sau được   đầu thai  vào  một  cảnh  sống  tốt  đẹp  hơn còn khi nào  đắc  đạo  thành  Phật, thoát vòng sinh tử là điều ít có  ai nghĩ đến. 

2) Đối  với  những Phật tử thuần thành và quyết tâm đi  tu để đạt sự giải thoát, đa số không quán triệt  được  ý nghĩa  đích  thực của Vô Ngã, thì  việc chứng nghiệm  Vô Ngã để thành Phật là việc quá xa vời. Độc  giả có  thể vào link sau đây để tham  khảo sự hiểu biết về Vô Ngã của một trí  thức Phật tử: http://www.giaodiem.com/doithoai/vonga-tcn.htm 

Một số  những  người đã  quán  triệt  được  ý  nghĩa  đích  thực của Vô  Ngã thì  cố  gắng chứng nghiệm    thuyết ấy qua sự tu tập của mình  nhưng  vẫn chưa  thành đạt. Một số khác  cũng quán triệt được  ý nghĩa đích thực của Vô Ngã nhưng họ lại không thể áp dụng lý thuyết vào thực tế.  Hiểu Vô Ngã là  một chuyện nhưng  sống Vô Ngã lại là  một chuyện khác. Người  viết dùng chữ "quán triệt  Vô Ngã" ở đây là    ý nói  sự hiểu rõ  ràng những gì  Đức  Thích Ca trình bày về Vô  Ngã. Chúng ta có  thể hiểu  rất rõ ràng về những gì  một  người trình  bày nhưng hiểu rõ  không có  nghĩa là áp dụng được, vì nó không hợp lý. Thí dụ, có  người bảo chúng  ta: hãy lấy  một chén gạo trộn chung với  một chén nước,  khấy cho đều, một tiếng đồng hồ sau nước và  gạo  sẽ  biến  thành cơm. Lời  chỉ dẫn  ấy ngắn,  gọn,  dễ hiểu  nhưng  không bao giờ chúng ta có  thể đạt được  cơm bằng cách thực hành lời chỉ dẫn ấy, vì nó không hợp lý. 

3) Đối  với  các bậc thức giả  khác (không phải    Phật tử hoặc đã giả  từ Phật Giáo),  họ quán triệt  được  ý  nghĩa  của thuyết Vô  Ngã nhưng  họ không chấp nhận thuyết này. Bởi,  nói  cho cùng thuyết Vô  Ngã chỉ là  một lý  thuyết chưa  ai  chứng nghiệm  được   ngoài  người lập  ra thuyết ấy. Thuyết Vô Ngã, cũng như các triết thuyết khác, không đem lại tác dụng ích lợi gì trên  nhu cầu tâm  linh của nhân  loại.  Thuyết    Ngã không thật sự dẫn dắt con người đến chỗ được   giải  phóng tâm linh.  Người   tin  và tu theo thuyết Vô  Ngã vẫn bị  trói  chặt trong vòng vây của tội lỗi, của khổ đau, và vô  vọng. Cuộc đời  tu tập theo thuyết Vô Ngã của cựu đại  đức Thích Huệ Nhật là một thí  dụ điển hình. Xin tìm đọc các tác phẩm: "Từ  áo cà -sa đến thập tự giá"  và "Ai chết cho ai?  Ai sống cho ai?"  của Nguyễn Huệ Nhật để nghe ông diễn  tả kinh nghiệm tuyệt vời  của một người từ bỏ  giáo lý đạo Phật để trở về trong Chúa, một người nhận biết  mình    một bản ngã riêng  biệt,  một thực thể hiện  hữu ý  thức điều  lành  và điều dữ  theo tiêu chuẩn của Đứùc Chúa trời  để ăn năn và nhận lấy phước hạnh  tràn  đầy của Ngài khi ông ta đang sống giữa thế gian. 

4) Đối  với  những  người tin  Chúa và sống theo Thánh  Kinh,    thuyết Vô  Ngã là  một ngụy thuyết, sản phẩm của một sự ngụy biện tinh vi, bản thân của thuyết Vô Ngã chính là một ảo giác  chứ không phải  cuộc đời  này, thế gian  này,  muôn loài vạn vật,  trong đó    con người, là  những ảo giác.  Những người tin  nhận Thánh  Kinh nhận  thức  được  bản chất ngụy thuyết của triết lý  Vô Ngã bởi  vì Thánh  Kinh bày tỏ sự Hữu Ngã của nhân  loại và chỉ ra con đường cứu rỗi   cho nhân loại.  Con đường  cứu rỗi  đó, không cần phải  qua một quá trình tu tập, không cần phải  tự lực  giác  ngộ…  con đường  cứu rỗi  đó    sự ban cho vô  điều  kiện  của Đức Chúa Trời,  Đấng Tạo Hóa, Đấng Cao Siêu  Tuyệt Đối. Một khi con người tiếp nhận  sự cứu rỗi ấy, lập  tức được  giải  thoát khỏi  gông cùm của tội  lỗi  và mặc cảm tội  lỗi,  lập  tức tràn ngập bình  an, hạnh phúc mà mọi  cảnh ngộ trong cuộc đời  này  không  thể  nào  chi phối.  Khi đã nhận được  ơn  Cứu Rỗi  để sống trong bình  an hạnh phúc, con người bắt  đầu  loại bỏ  việc  ác để thực hiện  việc  lành  bởi  sự dẫn dắt của Đứùc Thánh  Linh.  Loại  bỏ  việc  ác và thựïc  hiện việc  lành    bông trái  hiển  nhiên  sau  khi đã được  Ơn Cứu Rỗi  chứ không phải    điều  kiện phải    để được  Ơn Cứu Rỗi. Muốn được  Ơn Cứu Rỗi,  con người cần ăn năn  tội  và tiếp nhận Ơn Tha Thứ của Đức  Chúa Trời  trong Đức  Chúa Jesus Christ.  Từ  đó  Đức  Thánh  Linh  sẽ tái sanh  người có  Đức  Tin và soi sáng cho phần tâm linh và trí  tuệ của họ để sống với  điều lành cùng thông công với  những  người thực lòng tin nhận Thánh Kinh, giúp họ hiểu được  bản ngã đích thực của chính mình, và của chính Đức  Chúa Trời Toàn Năng Yêu Thương. 

Giống như đứa con hoang  đàng  trở về ăn năn với  người Cha của nó để được  Cha tha thứ, dù nó chưa có  thời  gian  để thay đổi  hành vi  bên ngoài,  nhưng  nó vẫn được  Cha tiếp  nhận và ban lại địa  vị làm  con để nó được  thừa hưởng  cuộc sống an vui yêu mến  trong nhà Cha nó.

Khi được  sống trong  nhà  Cha nó, nó vui vẻ bình  an và học tập thể hiện  điều  lành  theo sự dắt dẫn và yêu thương của Cha nó. Những điều lành ở đây là kết quả của địa vị làm con mà nó đã tái sở hữu từ tình yêu và lòng tha thứ của Cha nó. 

Niết Bàn mà  Đức  Thích Ca mô tả,  chính  thực là  trạng thái    nơi chốn    người tin  nhận Thánh Kinh, tiếp nhận sự cứu rỗi  của Đức  Chúa Trời, chứng nghiệm được  ngay trong đời  này và vui hưởng  cho đến đời  đời  mà sự chết cũng không thể  nào chi phối.  Sự  chết đối  với  họ, chẳng  qua chỉ là  cánh cửa để bước  từ thời  gian  vào trong vĩnh  cửu. Nghĩa là  một  người trở về với  Đức  Chúa Trời  để nhận ơn  tha tội,  được  ơn cứu rỗi,  được  tái  sinh,  được  thánh hóa, được  sống với  kinh  nghiệm  thiêng  liêng,  được  mở mắt  tâm  linh và bừng  thấy  hạnh  phúc, yêu thương  trong ân điển  của Đức  Chúa Jesus Christ.  Người  ấy có  được   một cách cụ thể cuộc sống hạnh  phúc hôm nay mà Phật Giáo đã cố  gắng mô tả một cách mù mờ bằng các từ ngữ Niết Bàn, Giác Ngộ, Đại Định, Viên Mãn... 

Huỳnh Christian Timothy
2003
Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...