Cột
trụ của
Phật Giáo là thuyết Vô Ngã.
Thuyết Vô Ngã do
chính Phật Thích Ca, giáo chủ của Phật Giáo giảng dạy. Trong kinh Pháp Cú 20:5-7 ghi
lại lời dạy của Phật Thích Ca như
sau:
"Chư Hành
vô thường (Mọi
sự vật bị
giới hạn đều
là vô thường
- luôn biến
đổi) "Chư Hành là khổ (Mọi
sự vật bị giới hạn đều là
khổ - đời sống không có sự vui
thỏa) "Chư Pháp vô ngã (Mọi
pháp là vô ngã - "pháp" bao gồm sắc pháp tức
vật lý và tâm pháp tức tâm lý)
Chữ
"pháp" là một thuật ngữ độc
đáo trong Phật học, nó bao gồm tất cả những gì
thuộc về thế giới vật lý lẫn những gì
thuộc về thế giới tâm lý, nó bao gồm cả Niết Bàn. Theo giáo lý Nguyên
Thủy (Theravàda) không có Ngã trong các pháp (mọi sự vật)
cũng như không có Ngã trong con người. Trong Trung Bộ Kinh,
Phật Thích Ca dạy rằng:
"Hỡi
các Tỳ Kheo, khi mà Ngã hay bất cứ cái gì thuộc về Ngã không có, thì quan điểm
tư duy này: Vũ trụ là linh hồn, ta sẽ là linh hồn sau khi chết, sẽ trường cửu,
tồn tại, vĩnh viễn bất biến, và ta sẽ hiện hữu như thế cho đến vô tận thời gian
- quan điểm ấy có phải là hoàn toàn điên rồ chăng?"
Từ thuyết Vô Ngã, Phật Thích Ca khai mở một chủ thuyết, về sau chủ thuyết này trở
thành giáo lý cột trụ của một tôn giáo lớn
gọi là Phật Giáo.
Hơn 2500 năm đã trôi qua kể từ
ngày Phật Thích Ca rao giảng thuyết Vô
Ngã, hàng tỉ người trên thế giới
đã tin vào thuyết này và cố gắng "tu tập" để có thể chiêm
nghiệm được cái lý
lẽ của thuyết Vô Ngã. Danh từ
"Phật" dùng để gọi một người đã
quán triệt Vô
Ngã, thể nhập Không Tánh. Phật
Thích Ca xưng rằng Ngài là Phật đã thành còn chúng sinh là Phật sẽ
thành, nhưng trên 2500 năm qua, lịch sử chỉ ghi
nhận có mỗi một mình
Ngài Thích Ca tự xưng là Phật.
Nói cách khác, chỉ có mỗi một mình người lập ra thuyết Vô Ngã xưng
nhận là mình đã chứng nghiệm được thuyết ấy.
Có phải
thuyết Vô Ngã quá thâm diệu cho nên suốt hơn 2500 năm nay ngoài Phật Thích Ca ra không ai có đủ trình độ, khả năng, sự thông sáng, hoặc
lòng nhiệt thành để giác ngộ? Bài viết này nhằm phân tích và phê bình thuyết Vô
Ngã của triết Phật. Tác giả ước mong
những điều được trình
bày dưới đây sẽ xóa đi những huyền thoại về sự siêu
việt của thuyết Vô Ngã.
2- Định nghĩa một số từ ngữ:
Ngã:
Mỗi tôn giáo hoặc trường phái triết
học có những định nghĩa
khác nhau về Ngã, (Ngã là một
danh từ Hán Việt). Một cách tổng quát,
Ngã là một thực thể (một cái gì
có thật), trường tồn và là một
phần của con người, là một "cái tôi" tuyệt đối riêng biệt, khôn g ai thay thế được, là
phần làm chủ và trách nhiệm mọi
tư duy, tình cảm, ý
chí, hành động của con người.
Tiếng Phạn (Sanskrit) gọi Ngã là
"Atman", tiếng Anh gọi
là "Self", tiếng Việt gọi
nôm na là "cái
Tôi" hoặc "cái Ta". Cơ-đốc Giáo
(Christianity) gọi là
Linh hồn (Soul). Triết
Phật dạy rằng, một Ngã như vậy không có
thật, mọi quan niệm về Ngã chỉ là
ảo tưởng, mọi nhận thức về Ngã chỉ là ảo
giác.
Nhập Không Tánh: Trạng thái quán triệt (hiểu thấuđáo tường tận)Vô Ngã
dẫn đến sự quán triệt Tánh Không của mọi
pháp. (Tánh Không của mọi
pháp là: vạn vật,
kể cả "cái
Ta" không có thật, không có tự tánh, không thể nắm bắt nên thật ra không
sinh không diệt. Sự sinh và diệt mà chúng sinh kinh nghiệm mỗi
ngày chỉ là sự sinh và diệt của
những ảo ảnh.) Nhập Không Tánh tức đắc đạo, tức nhập Niết Bàn.
Niết Bàn: Không
phải là một
nơi chốn như Thiên Đàng hay Hỏa Ngục mà là
trạng thái giải thoát, an nhiên
tự tại, nhờ thấu hiểu (giác ngộ) chân tướng của vạn vật là Không, nên chấm dứt
và thoát ra ngoài mọi ý niệm, thoát mọi
chấp Ngã (thoát khỏi sự cho rằng Ngã có thật), thoát mọi chấp pháp (thoát khỏi sự cho rằng mọi vật có
thật, có tự tánh, có sinh,
có diệt), thoát khỏi luân hồi,
tức thoát vòng sinh tử.
Pháp: (1) Chư Pháp: Mọi sự vật, sự
việc trong thế giới vật lý lẫn
thế giới tâ m lý, kể cả Niết Bàn.
(2) Phật pháp: Lời dạy của Phật Thích Ca. (3) Pháp môn: Phương cách tu tập
để quán triệt Vô Ngã và Không
Tánh. Theo Phật Thích Ca, có đến 84,000 Pháp môn. Các nhà Phật học không
thống nhất với nhau về ý nghĩa
của con số 84,000 pháp môn. Dưới
đây là luận giải của tác giả:
-
Tứ Diệu Đế thiên biến = (4) X (1000) = 4000
-
Bát Chánh Đạo vạn hóa = (8) X (10,000) = 80,000
-
Pháp môn tu tập để Giác Ngộ = Tứ Diệu Đế thiên biến + Bát Chánh Đạo vạn hóa (4000 + 80,000 = 84,000 pháp môn)
Phật: Người quán triệt, tức giác ngộ
Vô Ngã (thấy và hiểu sự vận hành của mọi
"pháp" như chúng vốn là như vậy, tức vạn vật chỉ là ảo giác)
dứt mọi ý niệm (nguyên cớ tạo ra ảo giác) nên thoát vòng sinh tử (ra
khỏi luân hồi), nhập Không Tánh (thoát
Khổ, trở về Chân Kh ông, đạt Niết bàn),
trở thành Phật, tức Bậc Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác.
Vô Minh: U mê, tăm tối,
phát sinh ra những ý niệm
không thật khiến tạo ra các ảo
giác (các pháp của thế gian) dẫn đến những nhận thức sai lầm, tạo ra nghiệp
lực, thu hút Tứ Đại (tạo thành thân
xác), giam giữ chúng sinh miệt mài luân
chuyển trong 12 yếu tố của Duyên Khởi (luân hồi). Nếu có 84,000 pháp môn giải thoát thì cũng có 84,000 cảnh giới vô minh.
- Ngũ Uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng,
Hành, Thức (5) X (12) Yếu tố
Duyên Khởi = 60 (sự Chấp Pháp)
- Tam Độc: Tham, Sân, Si
(3) X (8) Tám Thức: Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, ý, Tống Truyền, Tàng = 24 (sự Chấp Ngã)
- Khổ: Chấp Pháp + Chấp Ngã X thiên biến = vạn hóa (60 + 24
X 1000 = 84,000 cảnh giới)
*
Khổ thiên biến mà thành ra vạn hóa: Khổ = thiên biến ---> vạn hóa.
*
Giác Ngộ vừa thiên biến mà vừa vạn hóa:
Giác Ngộ = thiên biến + vạn hóa.
Chương I: Lập luận Vô Ngã (Anatta) của
triết Phật
Phật
Thích Ca lập thuyết Vô Ngã dựa trên các suy luận sau đây:
A. Nhận Định Duyên Khởi:
Được sinh
trưởng trong môi trường văn hóa của Ấn Giáo, ít nhiều gì
Đức Thích Ca cũng ảnh hưởng thuyết Nhân Duyên và Luân Hồi
của Ấn giáo. Đối diện
với cuộc sống, chứng kiến thế nhân sinh, lão, bệnh, tử - nhìn thấy vạn vật thành, trụ,
hoại, diệt; Đức Thích Ca suy ra mọi sự vật đều giới hạn, tương đối và phụ thuộc lẫn nhau theo công thức sau đây:
1)
Cái này có thì cái kia có (vì có
hột lúa nên có cây lúa)
2)
Cái này sinh thì cái
kia sinh (vì
cây lúa sinh ra hột lúa
nên từ hột lúa lại sinh ra cây lúa khác)
3)
Cái này không có thì cái kia không có
(không có hột lúa thì không
có cây lúa)
4)
Cái này diệt thì cái kia diệt (hột lúa bị diệt
thì cây lúa - sẽ sinh ra từ hột lúa ấy - cũng bị diệt)
Theo
Tương Ứng Kinh bộ II thì 12 yếu tố Duyên
Khởi trong triết Phật là:
1.
Vô Minh
2.
Hành
3.
Thức
4.
Danh Sắc
5.
Lục Nhập
6.
Xúc
7.
Thọ
8.
Ái
9.
Thủ
10.
Hữu
11.
Sinh
12.
Lão - Tử (Ưu, Bi, Khổ não)
Vô Minh sinh
ra Hành, Hành sinh ra Thức, Thức sinh ra Danh Sắc, Danh Sắc sinh ra Lục Nhập, Lục Nhập sinh
ra Xúc, Xúc sinh ra Thọ, Thọ sinh ra ái,
ái sinh ra Thủ, Thủ sinh ra Hữu, Hữu sinh ra Sinh, Sinh sinh ra Lão,
Tử, (Ưu, Bi, Khổ não).
Từ nhận định
đó (dựa vào thuyết Nhân Duyên và
Luân Hồi
của Ấn giáo), Đức
Thích Ca lập ra thuyết Duyên Khởi, cho rằng mọi sự vật tương quan và luân chuyển trong một
vòng tròn của luật Duyên Khởi (duyên=sinh ra, khởi=bắt đầu).
B. Phân tích Ngũ Uẩn:
Khi
suy tư về bản thể của con người, Đức
Thích Ca nhận thấy con người là một tổng thể bao gồm các phần
thấy được, đụng chạm được và các phần
không thấy được, không đụng chạm được.
Đức Thích Ca phân tích
con người thành Ngũ Uẩn. Uẩn
là một tập hợp, một nhóm. Ngũ Uẩn (năm
tập hợp) đó là:
1) Sắc Uẩn: Tức
Thân + Tâm (được cấu tạo bởi Tứ Đại
là đất + nước + gió + lửa),
Sắc Uẩn bao gồm các Giác Quan (Căn)
2) Thọ Uẩn: Tức
là những Cảm Thọ (cảm giác nhận
được) do sự tiếp xúc giữa
6 Căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) và 6 Trần (sắc, thanh, hương, vị,
xúc, pháp)
3) Tưởng Uẩn: Tức là những Tư Duy phát sinh từ
những Cảm Thọ, tạo ra các Khái Niệm
4) Hành Uẩn:
Sự Lưu Chuyển của các Khái Niệm, biến
Khái Niệm thành Hành Động.
5) Thức Uẩn: Sự
Nhận Biết và Phân Biệt các Khái Niệm. Riêng Thức Uẩn chia làm 8
Thức khác nhau:
a)
Nhãn Thức là sự nhận biết và phân biệt các khái niệm do mắt nhìn thấy vạn vật.
b)
Nhĩ Thức là sự nhận biết và phân biệt
các khái niệm do tai nghe từ vạn vật.
c) ỷ
Thức là sự nhận biết và phân biệt các khái niệm do mũi ngữi
được từ vạn vật.
d) Thiệt Thức là
sự nhận biết và phân biệt các khái niệm do
lưỡi nếm lấy từ vạn vật.
e)
Thân Thức là sự nhận biết và phân biệt các khái
niệm do thân thể tiếp xúc
với vạn vật.
f)
Ý Thức là sự nhận biết và phân biệt
các khái niệm tổng hợp từ các khái niệm
do 5 thức trên đem lại.
g) Mạt Na
Thức (Manas Vijnãna) còn gọi
là ý Căn, là
nơi phát sinh ra ý
Thức. Mạt Na Thức truyền các hệ
quả (hạt giống - chủng tử)
của những Khái Niệm đã
biến thành hành động (pháp
hiện hành) vào Tàng Thức và tống đưa các hệ quả đã nhuần thấm, chín mùi ra
hiện hành, nên còn được gọi là
Tống Truyền Thức. Mạt Na Thức
khiến chúng sinh nhìn thấy một ảo giác về Ngã, là gốc của sự Chấp
Ngã, là nguồn gốc của 4 phiền não căn bản:
-
Ngã Si (sự vô minh, u mê, ngu tối về bản ngã)
-
Ngã ái (sự yêu thương quyến luyến bản ngã)
-
Ngã Kiến (sự nhìn thấy những sai lầm của bản ngã)
-
Ngã Mạn (sự kiêu căng, ngạo mạn cho bản ngã là cao cả hơn hết)
Tương
truyền Phật Thích Ca nói
câu sau đây: "Thiên Thượng
Địa Hạ Duy Ngã Độc Tôn". Nhiều người giải luận
câu này cho rằng Phật Thích Ca
có ý
tuyên bố rằng: "Trên
Trời Dưới Đất Chỉ Mình Ta (Phật Thích Ca)
Đáng Tôn Quý". Thật ra, nếu quả thật Phật T hích Ca có tuyên
bố câu này, thì chỉ là nhằm kiên định cái
thuyết Vô Ngã mà thôi. ý của câu
đó có
thể giải luận như sau:
"Khắp vũ trụ (trên trời dưới
đất) chỉ có cái
NGã của chúng sinh là được chúng sinh tôn làm cao cả hơn hết (mặc
dầu cái Ngã không có thực).
h)
A Lại Da Thức (Alaya Vijnãna) còn gọi là
Tàng Thức. Thức này bao gồm 3 chức năng:
- Năng Tàng: Chức năng
chứa đựng, gìn giữ các chủng tử (hạt giống) của các pháp, tức chứa đựng những hệ quả của
các hành động thiện cũng như ác của chúng
sinh.
- Sở
Tàng: Chức năng ấp ủ, nhuần thấm những chủng tử
được chứa trong Tàng Thức. Khi đã nhuần
thấm, chín mùi thì
các chủng tử này được Tống Truyền
Thức tống đưa ra thành hành động.
- Ngã ái Chấp Tàng: Chức năng duy trì một ảo
giác về cái Ngã (Chấp Ngã), yêu thương cái Ngã, độc tôn cái Ngã, và đó
chính là lực
lượng qui tụ Tứ Đại để kết thành thân
xác chúng sinh.
C. Suy luận Tánh Không:
Triết
Phật không công nhận "Nguyên Nhân
Đầu Tiên". Triết Phật cho rằng duyên
khởi là vì Vô Minh (u mê, ngu
tối). Vì u mê, ngu tối cho nên chúng
sinh mới tưởng các pháp (vạn vật) là có
thật, tức Chấp Pháp. Vì Chấp Pháp (cho rằng vạn vật là có thật) nên chúng sinh tưởng rằng mỗi pháp đều có
tự tính, dẫn đến Chấp Ngã (cho
rằng mỗi con người có một bản ngã, còn gọi là "cái Tôi", "cái Ta",
hoặc Linh Hồn.)
Ví
như một lữ hành trong sa mạc nóng cháy, khao khát
tìm được
nước uống. Đến một lúc nào
đó, sự khao khát
nước uống cho cơ thể thiếu
nước khiến cho người đó bị ảo
giác thấy một vũng nước hay một ốc đảo giữa sa mạc:
1.
Vũng nước hay ốc đảo có hình ảnh hiện ra nhưng không có thật (sắc tức thị không: tưởng là có mà thật ra không có).
2.
Vũng nước hay ốc đảo
tuy không có thật nhưng vẫn có
hình ảnh hiện ra (không tức thị sắc: dù là chẳng có thật nhưng vẫn hiện ra như có thật).
3.
Sự khao
khát nước uống, bóng mát làm cho người lữ
hành nhìn thấy ảo ảnh của vũng
nước hoặc ốc đảo mà tưởng là nó có thật (vô minh khiến chúng sinh tùy theo các ý
niệm mà nhìn thấy những hình ảnh [Danh
Sắc] của vạn vật [các Pháp] và tưởng các pháp là có thật, tức Chấp Pháp).
4.
Cái mệt mõi, khát
nước của thể xác khiến cho người
lữ hành ý thức rằng: "Tôi
mệt", "Tôi khát", "Tôi cần uống nước", "Tôi
cần nghĩ ngơi trong bóng mát". .. nhưng bóng mát không có thật, nước uống không có thật nên không thoả mãn được nhu cầu, sinh ra Khổ. (Vô minh khiến chúng sinh
vì Chấp Ngã - tưởng mình là có thật, mà sinh
ra Chấp Pháp - tưởng các pháp là
có thật. Ví như người lữ hành tưởng là
thể xác mình có thật, cho rằng sa mạc có thật, mặt trời có
thật, vũng nước có thật, ốc
đảo có thật nên đau khổ vì cát nóng, nắng cháy, vì thân thể bị
mất nước, vì thèm được
uống nước nhưng vũng nước không có
thật, vì thèm được núp bóng mát
nhưng ốc đảo không có thật.)
D. Lập thuyết Vô Ngã:
Sự luận
giải về thuyết Vô Ngã của triết
Phật có thể tóm
tắt như sau: Từ vô
lượng kiếp, chúng sinh quay cuồng
trong vòng luân hồi sinh
tử, bởi vì trong
một lúc nào đó, ở thời quá khứ
vô cùng khởi (có thể đến
hàng tỉ tỉ
tỉ năm về trước!) vì u mê, ngu tối
(Vô Minh) mà chúng sinh phát khởi các ý
niệm hoặc thiện hoặc ác (Hành). Những ý
niệm này hình thành các khái niệm (Thức). Các khái niệm tạo ra những hiện tượng tâm lý và vật lý
tức là ảo ảnh về vạn vật (Danh Sắc). Ảo ảnh khiến sinh
ra các giác quan và ý thức (Lục
Nhập). Các giác quan và ý thức phát sinh ra sự đụng chạm và tiếp xú c
(Xúc). Sự đụng chạm và tiếp xúc đem lại cảm giác và nhận định (Thọ). Cảm
giác và nhận định sinh ra sự ham muốn (ái).
Sự ham muốn tạo thành ý chí bám víu, giữ
lấy (Thủ). ý chí bám víu, giữ lấy
kết tinh thành thực thể (Hữu). Thực thể trở thành sự sống (Sinh). Sự
sống suy tàn rồi tiêu tan dẫn đến
già cỗi và sự chết (Lão - Tử), cùng
những lo, buồn, đau đớn. Chu trình này sẽ tái
diễn đến vô lượng lần, mỗi lần là
một kiếp, trong tương lai vô cùng tận.
Trong
chu trình Duyên Khởi (12 yếu tố kể trên) mỗi yếu tố vừa là
nhân của yếu tố này mà là quả của
yếu tố kia. Tùy theo những ý niệm phát sinh
mà Tứ Đại (đất, nước, gió, lửa) kết thành thân xác của chúng sinh. Thân Tứ
Đại sinh ra khi hội đủ Pháp hiện
hành và chết đi khi Pháp hiện hành đã hết, đó là một
kiếp của chúng sinh. Tuy nhiên,
trong một kiếp đó sự luân
chuyển, thể hiện của các Pháp hiện
hành đã tạo ra các nhân thiện
hoặc ác khác (Chủng Tử) và được
Tống Truyền Thức đem cất giữ vào
Tàng Thức. Khi những chủng tử này đã được thấm nhuần trong Tàng Thức thì Tống Truyền
Thức phóng chúng ra thành các Pháp Hiện Hành mới, thu hút Tứ
Đại, tạo ra một thân xác
mới. Tiến trình này được gọi
là Nghiệp Lực. Nghiệp lực cứ
khiến cho chúng sinh quay cuồng trong chu trình bất tận của Duyên Khởi
nghĩa là chúng sinh có thể trải qua vô
lượng kiếp!
Trong
12 yếu tố của Duyên Khởi, nếu phá
được Vô Minh thì diệt
được Hành. Hành không có thì diệt
được Thức. Thức không có thì
diệt được Danh Sắc. Danh Sắc không có thì
diệt được Lục Nhập. Lục Nhập
không có thì diệt được
Xúc. Xúc không có
thì diệt được
Thọ. Thọ không có thì diệt
được ái. ái
không có thì diệt
được Thủ. Thủ không có thì
diệt được Hữu. Hữu không có thì
diệt được Sinh. Sinh không
có thì diệt được Lão, Tử, Ưu, Bi, Khổ não.
Làm sao để phá được Vô Minh? Bằng cách quán
triệt chân tướng của sự vật (các
pháp) chỉ là KHôNG! Như vậy, muốn thoát khổ (được giải thoát) con người cần phải
quán triệt Chân Tướng của sự vật,
của chính mình. Khi quán
triệt Chân Tướng của sự vật, của chính mình, thì
sẽ Giác Ngộ, nghĩa là nhận ra vạn vật, trong đó c ó
mình, chỉ là ảo giác,
không có thật. Có thể nói
như sau: Những gì tôi nhận thấy
chung quanh tôi hoặc về chính tôi chỉ là ảo giác. Tại tôi tưởng là chúng có thật cho nên có cái tôi yêu thích, có cái tôi
ghét bỏ, có cái tôi khao khát, có cái
tôi tìm cầu, có
cái tôi muốn nắm giữ,
có cái tôi
muốn vứt bỏ... và khi không thoả mãn được ý
mình thì tôi
khổ. Cho đến lúc tôi
nhận ra, vạn vật, trong đó có tôi,
đều không có thật, đều Vô Ngã,
thì tôi hết khổ, tôi nhập Niết Bàn.
Chương II: Giá Trị Của Thuyết Vô Ngã
Một
thực tế
không thể phủ
nhận được là
trên 2500 năm nay, kể từ ngày thuyết Vô Ngã ra đời, ảnh hưởng của thuyết Vô
Ngã và của những phó phẩm ra từ thuyết ấy đã gây thêm phấn khích cho các
tư tưởng vô thần. Vô Ngã không còn
giới hạn trong phạm vi triết học mà đã
trở thành một thứ "giáo lý tôn giáo" mang ít nhiều ảnh hưởng đến các
luồng tư tưởng vô thần rải rác khắp
Âu, á. Đây là sự hiểu
biết cá nhân của một
người dốc lòng tìm hiểu
đạo Phật bởi động cơ thực tâm học hỏi những lời
dạy dỗ của Phật
Thích Ca để mong tìm đến Chân Lý.
Nếu những gì được trình
bày trong bài viết này giúp
đem lại vài điều
suy tư cho độc giả về Hữu Ngã và
Vô Ngã thì người viết đã mãn nguyện lắm rồi!
A. Một nguồn sông hai dòng chảy:
Mỗi một
con người được sinh ra bình
thường trên đời đều phải
đối diện với
những nghi vấn muôn đời của nhân loại. Bởi lẽ nhân loại muốn truy tìm về nguồn gốc,
ý nghĩa, và mục đích của đời người. Tôn
giáo là nổ lực của con người, muốn đem lại cho nhân loại những câu trả lời cho các nghi vấn ấy.
Phần nhiều các tôn gi áo lớn xuất phát
từ á Châu. Phải chăng á Châu là cái nôi
của nhân loại? Phải chăng mọi
nền văn minh của nhân loại đều
bắt nguồn từ cái nôi ấy?
Ấn
Độ giáo
(Hindu) gọi tắt là
Ấn giáo, khởi phát tại Ấn
Độ khoảng 1500 năm trước Công Nguyên,
vốn đã có một vai trò
lịch sử, triết học và tôn giáo quan trọng trong vùng nầy. Thuyết Duyên
Khởi của Phật Thích Ca ảnh hưởng
rất nhiều từ thuyết Nhân Duyên và
Luân Hồi của Ấn giáo.
Điều quan trọng là Đức Thích Ca đã dựa trên cở sở
của thuyết ấy để triển khai thành giáo lý Vô
Ngã. Nếu có thể ví Ấn giáo
như một dòng sông chảy về phương Nam thì
Phật Giáo là một dòng tách ra từ thượng nguồn
của dòng sông
ấy và chảy
ngược về phương Bắc. Bởi vì, ngoài sự nhận định giống nhau của thuyết
Nhân Duyên và thuyết Duyên Khởi thì Ấn
giáo và Phật
Giáo hoàn toàn khác biệt. Trong
khi Ấn giáo cổ xúy
cho Ngã (Atman - The Innermost Self) và đề cao một
Thực-Thể-Cao-Siêu-Tuyệt-Đối
(Brahman - The Ultimate Reality)
thì Phật Giáo lại phủ nhận cả hai.
1. Dòng chảy Ấn giáo:
Ấn
giáo và Phật Giáo đều khởi đầu thuyết Nhân Duyên và Duyên Khởi
bằng Vô
Minh (ngu dốt, u mê, tăm tối)
nhưng trong Ấn giáo
có một chủ thể, một Ngã, một
cái tôi
vì vô minh mà đi
tìm những thỏa mãn bên ngoài bản
ngã đích thực cho nên dẫn đến hậu quả
đau khổ vì không bao giờ có thể
thỏa mãn được với cái
“bản ngã giả định” đó. Từ đó,
quan điểm Nghiệp lực (Karma)
được suy diễn ra để dẫn cái
tôi đi từ "kiếp" này sang "kiếp" khác, cho đến khi nó bừng tỉnh nhận ra bản ngã đích thực của mình
(bản lai diện mục) và trở về hội nhập với Thực-Thể-Cao-Siêu-Tuyệt-Đối, còn gọi là Đại Ngã (Brahman).
Ấn
giáo gọi
bản ngã đích thực của
một người là Atman,
bản ngã đích thực này không hề
thay đổi. Bên cạnh đó,
con người còn có bản ngã vật chất vô thường
(thể xác, tư tưởng, cảm xúc). Vì
con người tập chú vào
bản ngã vật
chất quá nhiều,
miệt mài tìm
kiếm hạnh phúc trong một vũ trụ
vật chất cũng vô thường (luôn luôn
biến đổi) cho nên không bao giờ
tìm gặp hạnh phúc mà chỉ gặt
hái những đau khổ thất vọng.
Thật ra, hạnh phúc theo Ấn giáo, là sự ý
thức về bản ngã đích thực và mối quan hệ giữa bản ngã cá nhân (Tiểu Ngã) với
Đại Ngã. Khi con người bừng tỉnh từ trong
quá trình u mê tăm tối tìm kiếm,
nhận thức được bản ngã đích thực của mình, là lúc con người trở về với chân hạnh phúc và được giải
phóng khỏi luân hồi, khỏi mọi đau
khổ.
Thí
dụ sau đây có thể dùng để minh họa cho ý
tưởng nói trên: Một ông Vua
nằm mơ thấy mình là một tên ăn mày đói rách, hạ tiện… lúc nào
cũng khao khát được
ăn no mặc ấm nhưng suốt giấc mơ không bao giờ sự khao khát ấy được thoả mãn, cho nên ông vua có cảm giác đau khổ. Trong một giấc mơ khác, ông vua mơ thấy mình là một tên lính
và khao khát được trở thành một
viên soái tướng oai
vệ, suốt cả giấc mơ sự khao khát
ấy cũng không bao giờ được thỏa mãn nên ông vua lại có cảm giác đau khổ. Tiếp th êm một giấc mơ
khác, ông vua mơ thấy mình là một tay
phú hộ giầu có, nhưng chiến
tranh loạn lạc nổi lên của chìm,
của nổi đều tiêu tán và phú hộ biến thành cùng đinh khiến
cho ông vua có cảm giác tiếc nuối,
đau đớn… Những giấc mơ của ông
vua có thể liên kế t với
nhau bằng một chi tiết nào đó, và hết giấc mơ này tiếp
giấc mơ khác cho đến khi ông vua mơ thấy mình
làm vua, vui sướng quá… bừng tỉnh, và thấy mình là vua thật!
Trong
Ấn Giáo, sự giác ngộ và giải
thoát không bỗng nhiên như sự
giác ngộ của Phật Thích Ca. Muốn diệt
vô minh để chấm dứt luân hồi,
người tin theo
Ấn giáo phải trả hết những nghiệp xấu đã gây ra và phát huy những nghiệp lành.
Chỉ khi nào sự thăng tiến
của tâm linh tiến đến mức độ chỉ làm
ra những việc lành, lúc ấy con người mới bừng tỉnh
khỏi cơn mê truyền kiếp, nhận thức được
bản ngã đích thực, rời khỏi luân
hồi trở về hội nhập vào Đại Ngã.
2. Dòng chảy Phật Giáo:
Trong
Phật Giáo, một người có
thể đạt đến giải thoát một cách tiệm
tiến qua sự thăng tiến của tâm linh
như trong Ấn giáo (chữ tâm
linh dùng ở đây cho Phật Giáo
là dùng một cách gượng ép, có
lẽ chỉ nên dùng chữ TâM). Tuy nhiên,
điểm hệ trọng hoàn toàn khác
biệt giữa Phật Giáo và Ấn giáo đó là Phật Giáo phủ nhận Tiểu Ngã (cái tôi của
mỗi người) lẫn Đại Ngã. Sự phủ nhận
đó được
thể hiện trong chính câu nói của
Đức Thích Ca nói với các đệ tử nhằm phản bác niềm tin về
Ngã và Đại Ngã trong Ấn giáo: "Hỡi
các Tỳ Kheo, khi mà Ngã hay bất
cứ cái
gì thuộc về Ngã không có,
thì quan điểm tư duy này: Vũ trụ là linh hồn, ta sẽ là linh
hồn sau khi chết, sẽ trường cửu, tồn tại, vĩnh
viễn bất biến, và ta sẽ hiện
hữu như thế cho đến vô tận thời gian
- quan điểm ấy có phải là hoàn
toàn điên rồ chăng?" (Trung Bộ
Kinh)
Quan
điểm nói
trên dẫn đến kết luận: Vạn vật vô
ngã, đã vô ngã thì không có
tự tánh (không có bản thể). Vì
vạn vật đều là vô ngã, không có tự tánh nên vạn vật là KHôNG.
Bản tánh chân thật của vạn vật là
KHôNG. Mọi hiện tượng thấy được
và không thấy được (vật lý và tâm
lý = sắc tướng và vô sắc tướng) đều liên
tục biến đổi cho đến khi chúng trở về
trạng thái thật, tức là KHôNG. Cho nên,
chỉ cần thấy được tánh không của vạn vật sẽ ý thức được vạn vật
vô ngã và lập tức dứt mọi
phiền ưu lao khổ, hội
nhập Niết Bàn, tỉ như người vừa choàng tỉnh ra khỏi cơn ác mộng, trở về với đời
sống thực tế. (Đây chính là điểm "hốt nhiên giác ngộ"
trong Phật Giáo mà
Ấn giáo không có.) Người chưa
giác ngộ cũng ví như người còn ở trong cơn
ác mộng, vì tâm cứ bám
víu vào những hiện
tượng xảy ra trong cơn ác mộng
nên giấc ngủ càng say và ác mộng càng
nhiều, ác mộng này kết nối và sinh
ra ác mộng khác…
Phật Thích Ca dạy
rằng có 84,000 pháp môn (con đường tu tập để giác ngộ). Không
một kinh sách nào liệt kê hay phân loại 84,000 pháp môn mà Đức Phật khẳng định. Tuy nhiên, có
thể tin rằng con số 84,000 chỉ là một con số tượng trưng chỉ về số nhiều
đếm không xuể như phương ngôn "hằng
hà sa số" (số lượng cát ở sông Hằng=vô lượng pháp môn tu). Khi
nói có
84,000 pháp môn tu tập để đạt đến giải
thoát, hoặc nói có 84,000 sinh
mạng trong một ly nước chỉ là một cách nói biểu tượng. Điều có thể chắc chắn đó là những pháp môn tu tập mà không một pháp
môn nào giống pháp môn nào (về điểm này thì
Ấn giáo và Phật Giáo giống nhau, tỉ
như chất nước của hai
dòng chảy cùng phát xuất từ một nguồn). Hơn
2500
năm nay, ngoài Phật Thích Ca tự
tuyên bố
mình đắc đạo, chưa một
người nào tự cho mình đã đắc đạo
như Phật Thích Ca, chính vì đó mà không có
ai kiểm nghiệm
thêm được một pháp môn nào khác ngoài
pháp môn mà qua đó Đức Thích ca giác ngộ thành Phật: Pháp môn Thiền Định!
Nhờ thiền mà Đức
Thích Ca giác ngộ được Vô Ngã.
B. Giá trị của thuyết Vô Ngã về mặt
triết học:
1. Ý tại ngôn ngoại?
Thuyết Vô Ngã
của triết Phật tự làm cho mình
mâu thuẫn với chính mình.
Trên cơ sở và phương pháp lý luận,
Thuyết Vô Ngã rất dễ bị phản biện, vì Vô Ngã luôn luôn có chu ng một mẫu số với Hữu Ngã: Nếu không có Ngã thì
"cái gì" đau khổ?
"cái gì" tạo nghiệp và chuyển nghiệp? "cái gì" suy tư?
”cái gì" đi tu?
"cái gì" giác ngộ?
"cái gì" nhập Niết Bàn? "cái gì" giảng dạy và viết
ra thiên kinh vạn quyển tràn lan? Một câu
hỏi khác cũng rất "hóc
búa": Nếu con người của Đức Thích
Ca là "không thật" thì chân lý
Vô Ngã do Ngài tìm ra "có thật" hay không? Bởi vì
thuyết Vô Ngã là một sản phẩm tối cao,
cuối cùng, và chân thật của trí tuệ mà trí tuệ đó
ở trong một chủ thể tên là Thích Ca, nếu
Thích Ca vốn là Vô Ngã, tức là không có thật; thì
cái trí tuệ
"của" Thích Ca cũng không có
thật, suy ra chân lý Vô Ngã mà
trí tuệ không có thật ấy nhìn
thấy cũng chỉ là ảo ảnh. Lý
lẽ rõ
ràng nầy đã đánh bại thuyết Vô
Ngã dễ dàng.
Trên
một phương diện khác, các bậc trí thức
Phật Giáo cho rằng thuyết Vô Ngã gặp khó khăn về mặt lý luận bởi vì ngôn ngữ không đủ để chuyên chở những điều
vi diệu của tư duy. Người xưa từng nói:
"ý tại ngôn ngoại" nghĩa
là cái ý tứ
nằm ở ngoài lời
nói, lời nói
không sao diễn đạt được những điều
mà tư duy chứng nghiệm. Nhưng nói
thế khác nào bảo rằng tất cả giáo
lý Phật Giáo đều chưa nói
lên được chân lý,
ai bám vào nó là sai
lầm! Bởi, Đức Thích ca
xưng nhận mình là
người chỉ đường cho chúng sinh đến với
chân lý mà chân lý không
được giải bày minh
bạch, khúc triết thì làm
sao thế nhân có thể lãnh hội
được, nhất là thế nhân đã u mê
tăm tối từ vô lượng kiếp? Phải chăng đây chính là nguyên
cớ khiến cho xưa nay chưa có ai khác ngoài Đức Thích Ca đắc đạo thành Phật?
Cũng
có những nhà nghiên cứu Phật học giảng rằng, cái
NGã mà Đức Thích Ca khẳng định không có
thật đó, chỉ là những cái
"Ngã giả định" được
thêu dệt nên trong tâm trí của
con người. Cái Ngã giả định
này đã được đề cập
trong Ấn giáo. Ấn giáo
phân biệt rõ ràng một bản ngã giả định và một bản ngã đích thật. Phật Giáo thì tuyên bố
vạn vật vô ngã rồi thêm vào thuyết "sắc không"
khiến cho giới bình
dân đại chúng không thể nào thấu
triệt cái lý luận
của thuyết Vô Ngã; trong khi đó,
những bậc thượng trí, dốc lòng
đi tìm chân lý của sự giải thoát khỏi
đau khổ thì miệt mài
chiêm nghiệm thuyết Vô
Ngã như những học sinh ưu tú, hiếu học, kiên trì cố giải cho được
một phương trình không có nghiệm
số! Chính giữa giới bình dân đại chúng và những bậc thượng trí
lại có thành phần những kẻ chẳn
g hiểu
biết gì về Phật pháp,
chỉ thuộc lòng một số kinh
sách, đem ra nói như vẹt để gạt gẫm
thiên hạ nhằm thu lợi về danh,
sắc, tài vật…
Nhưng
giảng về Vô Ngã như thế khác nào
cho rằng Phật Giáo cũng "ngầm" công nhận
một bản ngã đích thật như Ấn giáo? Phật Giáo khẳng định mọi pháp đều vô
ngã (kể cả Niết Bàn) thì làm gì
"có" một cái Ngã nào
trong Phật Giáo? Sự
vi diệu của thuyết Vô
Ngã là ở chỗ: ngay cả Niết Bàn cũng Vô Ngã!
Như vậy, ý nghĩa đích thực của Vô Ngã là gì, xét về mặt triết lý? Để có
thể định nghĩa được Vô
Ngã, có lẽ trước hết chúng ta phải tìm hiểu về Niết Bàn, là cứu cánh của Phật
Giáo.
2. Niết Bàn:
Trong
Kinh Itivuttka và Udana, Phật
Thích Ca dạy về Niết Bàn như sau:
"Này chư tỳ khưu, có một
trạng thái không sanh (ajata), không
khởi phát (abhuta),
không được cấu tạo (akata), và không tùy thế (asamkara). Nếu không có
trạng thái không sanh, không khởi
phát, không cấu tạo, và không tùy thế, ắt không thể có lối
thoát cho cái có sanh, có
khởi phát, có cấu tạo, và tùy
thế. Do sự kiện có
trạng thái không sanh, không khởi
phát, không cấu tạo, và không tùy
thế, nên mới có lối
thoát cho cái có sanh, có khởi phát,
có cấu tạo, và tùy thế."
Niết
Bàn, Nam Phạn gọi là "Nibbana", Bắc Phạn gọi
là "Nirvana". Theo định nghĩa
của Bắc Phạn
thì "Ni" là một
hình thức phủ định, là
KHÔNG, và "vana"
là DỆT.
Dệt ở đây là dệt những ái
dục từ kiếp này qua kiếp khác. Như vậy, Niết Bàn có nghĩa là chấm dứt hay không có, hay tách rời ra khỏi
sự thèm khát, ham muốn. (Những tư
tưởng nầy rất thích hợp với
giới người sống lang thang vô định để triền miên suy tư và tự cho mình là
kẻ thao thức chân lý trong xã hội Aán Độ
vào thời xưa và còn rải rác thời nay).
Đức Thích Ca dùng những danh từ sau
đây để gọi Niết Bàn: An toàn
(Khema), Bất khả diệt
(Akkhara), Bất tùy
thế (Asamkhata), Chỗ
nương tựa tối
thượng (Paràyana), Duy nhất (Kevala), Giải thoát
(Mutti), Hạnh phúc (Siva), Siêu
thế (Lokuttara), Tối cao (Para),
Tối thượng (Anuttara), Trọn vẹn (Tana), Tuyệt đối
trong sạch (Visuddha), Vắng lặng
(Santi), Vĩnh cửu (Amata), Vô song (Anupameya), Vô tận (Ananta), Vượt ra
ngoài (Pàra), v.v…
Có hai hình thức đạt Niết Bàn, trong kinh
Itivuttaka, Đức Thích Ca dạy rõ về Vô dư
Niết Bàn và Hữu dư Niết Bàn. Lấy trường
hợp đắc đạo đạt Niết Bàn của Phật Thích Ca ra xét nghiệm thì ngay sau khi giác ngộ Vô Ngã Đức Thích Ca lập
tức thành Phật (người giác ngộ) đạt Niết Bàn, ấy gọi là Hữu
dư Niết Bàn (Sopadisesa Nibbana Dhatu), tức đạt được "trạng thái" Niết Bàn;
Sau khi Phật Thích Ca qua đời,
ra khỏi sự ràng buộc của thân
Tứ đại,
Ngài nhập vào
"cõi" Niết Bàn, tức Vô dư Niết
Bàn (Anupadisesa Nibbana Dhatu).
Như vậy,
Niết Bàn là một trạng thái hay
một nơi chốn? Nó
là cả hai. Khi
nói về Hư vô (emptiness) chúng ta ý
thức được Hư vô vừa là
trạng thái và cũng vừa là nơi chốn (không gian). Hư vô
là vĩnh cửu của KHôNG, Niết Bàn là
vĩnh cửu của Có. Nếu có thể ví
Hư vô là bóng tối thì
Niết Bàn cũng ví như ánh sáng. Khi ánh
sáng bừng lên thì
không còn thấy được bóng tối nhưng
không có nghĩa là bóng tối không có thực, không tồn tại.
3. "Ngã" trong triết Phật:
Thế
gian, theo triết Phật, là
sự giao thoa giữa Hư vô
và Niết Bàn, giữa Không và Có, giữa Mộng và Thực… thế gian là Ảo ảnh.
Chúng ta hãy trở lại với minh họa về ảo
giác của một lữ khách đi trong sa mạc, nhìn thấy vũng nước hoặc ốc đảo.
1.
Có một chủ thể kinh nghiệm ảo gi ác
(người lữ khách).
2.
Vũng nước, hay ốc đảo vốn có thật trong kinh nghiệm của người lữ khách.
3. Hình ảnh
của vũng nước, hay ốc
đảo người lữ khách nhìn
thấy trong sa
mạc chỉ là ảo giác, không có thật.
4.
Trong cơn mê muội (vô minh)
người lữ khách có thể chạy nhanh
đến vũng nước, hay ốc đảo để rồi thất vọng vì
hình ảnh đó tan biến
hay còn đó mà chạy hoài không tới.
Cũng có thể người lữ khách thấy mình đã chạy đến tận vũng nước, gieo
mình vào vũng nước và uống lấy những ngụm
nước mát lịm, thoả mãn cơn khát điên cuồng, rồi
nằm im lặng, nghỉ
ngơi hạnh phúc dưới tàn cây râm
mát của ốc đảo. Trong khi thực tế, người
ấy nằm chết khô dưới ánh mặt trời gay
gắt, miệng đầy cát nóng…
Từ
trong vĩnh cửu, chúng sinh (các chủ thể) thực hữu trong trạng thái và trong
cõi Niết Bàn, kinh nghiệm
hạnh phúc tuyệt vời của trạng
thái và cõi Niết Bàn, ví
như người lữ khách lúc đang ở quê nhà với vườn
cây, ao nước…
Khi
chúng sinh phóng tâm về Hư vô (hướng
cái tâm tìm kiếm để hiểu biết Hư vô) thì
cũng ví như một người mơ thấy mình
rời chốn quê nhà đi vào sa mạc (từ cõi Có của
Niết Bàn vào cõi Không của Hư vô) tưởng rằng mình sẽ tìm
thấy những gì khác lạ hơn vườn
cây ao nước chốn quê nhà.
Trong
sa mạc chẳng có điều mà người lữ khách
mong tìm, người lữ khách cứ miệt mài
đi tìm cho đến khi rơi
vào ảo giác. Thế gian chính
là cái ảo giác
xuất hiện khi chúng sinh
rời xa khỏi thực tại
của Niết Bàn, phiêu lưu vào
thực tại của Hư Vô. Những pháp
trong thế gian (các sự vật, sự việc) mà chúng sinh
nhìn thấy chỉ là ảo giác, là hình ảnh phản hồi
dựa t rên kinh nghiệm của cái tâm lúc chúng sinh thực hữu trong trạng
thái và cõi Niết Bàn. Khi người nằm mơ
ra khỏi cơn mơ, lập
tức cảnh nắng cháy của sa mạc, cảm giác
của cơn khát nước điên cuồng…
cũng biến mất, đồng thời người ấy trở về với vũng nước,
vườn cây, và chính mình trong
thực tế. Hạnh phúc trở lại, đau khổ chấm dứt!
Cái
mê trận
của Vô Minh bắt
đầu khi người nằm mơ thấy
mình là lữ
khách, rồi lữ khách trong giấc mơ lại nằm mơ thấy mình là
lữ khách trong giấc mơ khác, rồi lữ
khách trong giấc mơ khác đó, lại nằm mơ
thấy mình là một
lữ khách trong giấc mơ khác nữa…
cứ như vậy, trùng trùng điệp điệp… và người nằm mơ cứ
tưởng rằng những gì trong các
giấc mơ là thật, những "lữ khách" trong những giấc mơ là chính
mình, là "tôi", cái "tôi" đó không có
thật, và Phật Thích Ca gọi đó là Vô Ngã!
Các
nước á châu như Trung Quốc và Nhật Bản
hay sản
xuất ra một
loại búp bê rỗng
ruột. Bên trong con búp bê này là một con búp bê khác…cùng hình dáng, màu sắc, đặc điểm, chỉ có kích thước
là nhỏ hơn mà thôi. Một bộ
búp bê như vậy
có thể có từ 5 đến 12 búp bê. Những bộ búp bê rỗng ruột này có thể dùng để minh họa cho ý tưởng nêu trên.
Người ta có thể làm một bộ
búp bê 12
con như vậy với
hình dáng của
Phật Thích Ca, nhưng
chúng không phải là Phật Thích Ca, những con búp bê đó… vô ngã!
Như vậy,
trong khi chối từ bản ngã trong mỗi chúng sinh và trong cả vũ trụ, Phật Giáo không hề
chối từ các chủ thể có thật và vĩnh
cửu như: Hư vô, Niết Bàn,
Tâm, Phật, Chúng sinh, Tứ
đại… (Thật ra,
khi dùng các danh từ chủ thể, Hư vô, Niết Bàn, Tâm, Phật, Chúng sinh, Tứ đại… thì cũng đã chấp
ngã rồi!) Trong tư duy của Đức Thích Ca,
một chủ thể là một chủ thể, nó có thật,
vốn không sanh, không diệt, thường hằng, vĩnh
cửu… đối chiếu
với sự không có thật, vốn cũng không sanh, không diệt, thường
hằng, vĩ nh cửu. Một chủ thể như vậy không có bản ngã, không có tên gọi, vượt
ngoài nghị luận, chỉ có thể chứng
nghiệm qua tư duy, bằng trí tuệ. Cho
nên, để trả lời cho các câu hỏi: "Nếu không có Ngã thì
"cái gì" đau khổ?
"cái gì" suy tư? "cái gì" giác
ngộ? "cái gì " nhập
Niết Bàn?" một nhà Phật
học chân chính chỉ mĩm cười, im lặng; họ gọi là thái
độ niêm hoa vi tiếu, bất khả tư
nghị. Lý luận như thế chẳng khác gì không lý luận, triết lý như thế chẳng khác gì không triết lý.
C. Giá trị của thuyết Vô Ngã về mặt tôn
giáo:
Từ khởi thủy,
Phật Giáo không phải là một tôn
giáo theo ý nghĩa đích
thực của danh từ tôn giáo,
bởi Phật Giáo phủ
nhận Một Đấng Thần Linh Tuyệt Đối
và không hề có các hình thức, nghi lễ thờ phượng, cũng không sùng
bái một ai cả. Trong quá trình trôi ch
ảy của dòng triết Phật, hàng trăm, hàng ngàn những dòng chảy của các nguồn
triết học, tín ngưỡng
(kể cả mê tín dị đoan), và tôn giáo thế tục đã gặp gỡ và hoà nhập vào dòng triết Phật trước khi tách trở ra chảy theo dòng
riêng của chúng.
Những dòng chảy này đã đem lại nhiều
mầu sắc không hề có trong Phật Giáo và khi chúng tách trở ra,
chảy theo dòng riêng của mình thì
chúng đã để lại ảnh hưởng
của mình trong triết Phật đồng thời mang theo ảnh hưởng của triết Phật trong
chính giáo lý của chúng.
Các
môn đồ của Đức Thích Ca và về sau, những người ái
mộ Phật pháp, ngày càng tôn giáo hóa triết Phật, đồng thời tùy ý
diễn đạt những sự dạy dỗ của Phật Thích Ca, nhiều khi thực hành sai lạc
ý nghĩa của Phật pháp, và dung nạp các trào lưu tư
tưởng, triết học, tín
ngưỡng, tôn giáo khác…
mà khiến cho triết Phật biến
dạng thành Phật Giáo với nhiều
tông, nhiều phái như ngày nay.
Nếu
xét riêng giá trị
của thuyết Vô Ngã về mặt tôn
giáo, người viết
xin trình bày những nhận định của
mình như sau:
1)
Thuyết Vô Ngã dù là một cột trụ trong giáo lý của Phật Giáo nhưng
không phải người tín đồ hoặc tu sĩ
Phật Giáo nào cũng am tường về thuyết này. Hầu hết các tín đồ Phật Giáo tôn thờ Phật Thích Ca như là một vị
thần linh tuyệt đối
có quyền ban ơn, giáng phúc và cứu họ khỏi những khổ đau, bất hạnh trong cuộc đời. Đại chúng Phật tử tin rằng cứ
làm lành, lánh dữ, đi chùa,
niệm Phật, tụng kinh… để kiếp
này đời sống được an nhàn, sung túc hơn và kiếp sau được
đầu thai vào một
cảnh sống tốt
đẹp hơn còn khi nào đắc
đạo thành Phật, thoát vòng sinh tử là điều ít có ai nghĩ đến.
2)
Đối với
những Phật tử thuần thành và quyết tâm đi tu để đạt sự giải thoát, đa số không quán
triệt được ý nghĩa
đích thực của Vô Ngã, thì việc chứng nghiệm Vô Ngã để thành Phật là việc quá xa vời.
Độc giả có thể vào link sau đây để tham khảo sự hiểu biết về Vô Ngã của một trí thức Phật tử: http://www.giaodiem.com/doithoai/vonga-tcn.htm
Một
số những
người đã quán triệt
được ý nghĩa
đích thực của Vô Ngã thì
cố gắng chứng nghiệm lý
thuyết ấy qua sự tu tập của mình
nhưng vẫn chưa thành đạt. Một số khác cũng quán triệt được ý nghĩa đích thực của Vô Ngã nhưng họ lại
không thể áp dụng lý thuyết vào thực tế.
Hiểu Vô Ngã là một chuyện
nhưng sống Vô Ngã lại là một chuyện khác. Người viết dùng chữ "quán triệt Vô Ngã" ở đây là có ý
nói sự hiểu rõ ràng những gì
Đức Thích Ca trình bày về Vô Ngã. Chúng ta có thể hiểu
rất rõ ràng về những gì một người trình
bày nhưng hiểu rõ không có nghĩa là áp dụng được, vì nó không hợp lý.
Thí dụ, có người bảo chúng ta: hãy lấy
một chén gạo trộn chung với một
chén nước, khấy cho đều, một tiếng đồng
hồ sau nước và gạo sẽ
biến thành cơm. Lời chỉ dẫn
ấy ngắn, gọn, dễ hiểu
nhưng không bao giờ chúng ta
có thể đạt được cơm bằng cách thực hành lời chỉ dẫn ấy, vì nó
không hợp lý.
3)
Đối với
các bậc thức giả khác (không
phải là
Phật tử hoặc đã giả từ Phật
Giáo), họ quán triệt được
ý nghĩa của thuyết Vô
Ngã nhưng họ không chấp nhận thuyết
này. Bởi, nói cho cùng thuyết Vô Ngã chỉ là
một lý thuyết chưa ai
chứng nghiệm được ngoài
người lập ra thuyết ấy. Thuyết Vô
Ngã, cũng như các triết thuyết khác, không đem lại tác dụng ích lợi gì
trên nhu cầu tâm linh của nhân
loại. Thuyết Vô Ngã
không thật sự dẫn dắt con người đến chỗ được
giải phóng tâm linh. Người
tin và tu theo thuyết Vô Ngã vẫn bị
trói chặt trong vòng vây của tội
lỗi, của khổ đau, và vô vọng. Cuộc
đời tu tập theo thuyết Vô Ngã của cựu
đại đức Thích Huệ Nhật là một thí dụ điển hình. Xin tìm đọc các tác phẩm:
"Từ áo cà -sa đến thập tự
giá" và "Ai chết cho ai? Ai sống cho ai?" của Nguyễn Huệ Nhật để nghe ông diễn tả kinh nghiệm tuyệt vời của một người từ bỏ giáo lý đạo Phật để trở về trong Chúa, một
người nhận biết mình là một
bản ngã riêng biệt, một thực thể hiện hữu ý
thức điều lành và điều dữ
theo tiêu chuẩn của Đứùc Chúa trời
để ăn năn và nhận lấy phước hạnh
tràn đầy của Ngài khi ông ta đang
sống giữa thế gian.
4)
Đối với
những người tin Chúa và sống theo Thánh Kinh,
lý thuyết Vô Ngã là
một ngụy thuyết, sản phẩm của một sự ngụy biện tinh vi, bản thân của
thuyết Vô Ngã chính là một ảo giác chứ
không phải cuộc đời này, thế gian
này, muôn loài vạn vật, trong đó
có con người, là những ảo giác. Những người tin nhận Thánh
Kinh nhận thức được
bản chất ngụy thuyết của triết lý
Vô Ngã bởi vì Thánh Kinh bày tỏ sự Hữu Ngã của nhân loại và chỉ ra con đường cứu rỗi cho nhân loại. Con đường
cứu rỗi đó, không cần phải qua một quá trình tu tập, không cần phải tự lực
giác ngộ… con đường
cứu rỗi đó là sự
ban cho vô điều kiện
của Đức Chúa Trời, Đấng Tạo Hóa,
Đấng Cao Siêu Tuyệt Đối. Một khi con người
tiếp nhận sự cứu rỗi ấy, lập tức được
giải thoát khỏi gông cùm của tội lỗi và
mặc cảm tội lỗi, lập
tức tràn ngập bình an, hạnh phúc
mà mọi cảnh ngộ trong cuộc đời này
không thể nào
chi phối. Khi đã nhận được ơn Cứu
Rỗi để sống trong bình an hạnh phúc, con người bắt đầu
loại bỏ việc ác để thực hiện việc
lành bởi sự dẫn dắt của Đứùc Thánh Linh.
Loại bỏ việc
ác và thựïc hiện việc lành
là bông trái hiển
nhiên sau khi đã được
Ơn Cứu Rỗi chứ không phải là
điều kiện phải có để
được Ơn Cứu Rỗi. Muốn được Ơn Cứu Rỗi,
con người cần ăn năn tội và tiếp nhận Ơn Tha Thứ của Đức Chúa Trời
trong Đức Chúa Jesus Christ. Từ
đó Đức Thánh
Linh sẽ tái sanh người có
Đức Tin và soi sáng cho phần tâm
linh và trí tuệ của họ để sống với điều lành cùng thông công với những
người thực lòng tin nhận Thánh Kinh, giúp họ hiểu được bản ngã đích thực của chính mình, và của
chính Đức Chúa Trời Toàn Năng Yêu
Thương.
Giống
như đứa con hoang đàng trở về ăn năn với người Cha của nó để được Cha tha thứ, dù nó chưa có thời
gian để thay đổi hành vi
bên ngoài, nhưng nó vẫn được
Cha tiếp nhận và ban lại địa vị làm
con để nó được thừa hưởng cuộc sống an vui yêu mến trong nhà Cha nó.
Khi
được sống trong nhà
Cha nó, nó vui vẻ bình an và học
tập thể hiện điều lành
theo sự dắt dẫn và yêu thương của Cha nó. Những điều lành ở đây là kết
quả của địa vị làm con mà nó đã tái sở hữu từ tình yêu và lòng tha thứ của Cha
nó.
Niết
Bàn mà Đức Thích Ca mô tả, chính
thực là trạng thái và nơi
chốn mà
người tin nhận Thánh Kinh, tiếp
nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời, chứng nghiệm được ngay trong đời này và vui hưởng cho đến đời
đời mà sự chết cũng không
thể nào chi phối. Sự
chết đối với họ, chẳng
qua chỉ là cánh cửa để bước từ thời
gian vào trong vĩnh cửu. Nghĩa là
một người trở về với Đức
Chúa Trời để nhận ơn tha tội,
được ơn cứu rỗi, được
tái sinh, được
thánh hóa, được sống với kinh
nghiệm thiêng liêng,
được mở mắt tâm linh
và bừng thấy hạnh
phúc, yêu thương trong ân
điển của Đức Chúa Jesus Christ. Người
ấy có được một cách cụ thể cuộc sống hạnh phúc hôm nay mà Phật Giáo đã cố gắng mô tả một cách mù mờ bằng các từ ngữ
Niết Bàn, Giác Ngộ, Đại Định, Viên Mãn...
Huỳnh
Christian Timothy
2003