Ðọc Kinh Thánh: Thi Thiên 6
2 Lạy Chúa, xin đừng trách mắng con khi thịnh nộ,
đừng sửa trị con lúc nổi lôi đình.
3 Lạy Chúa, xin đoái thương, này con đang kiệt sức,
chữa lành cho, vì gân cốt rã rời.
4 Toàn thân con rã rời quá đỗi,
mà lạy Chúa, Chúa còn trì hoãn đến bao giờ?
5 Lạy Chúa, xin trở lại mà giải thoát con,
cứu độ con, bởi vì Ngài nhân hậu!
6 Chốn tử vong, ai nào nhớ Chúa,
nơi âm phủ, ai ngợi khen Ngài?
7 Rên siết đã nhiều, nên con mệt mỏi,
trên giường ngủ, những thổn thức năm canh,
từng giọt vắn dài, lệ tuôn đẫm gối.
8 Mắt hoen mờ vì quá khổ đau,
thêm suy nhược bởi quân thù vây hãm.
9 Ði cho khuất, hỡi bọn làm điều ác,
vì Chúa đã nghe tiếng nức nở ta rồi.
10 Chúa đã nghe tiếng ta cầu khẩn,
Chúa đón nhận lời ta nguyện xin.
11 Ước gì hết mọi kẻ thù tôi
phải nhục nhã, rụng rời kinh khiếp,
vội tháo lui, nhục nhã ê chề.
Ghi chú về cuộc "hành trình tâm linh":
Với Bài thứ Ba nầy, chúng ta bước lên trạm đường thứ nhất của "hành trình tâm linh tìm Chúa" theo các Thi Thiên: trạm đường "Ðau khổ - Thể xác và Tinh thần".
Dẫn giải: Lại một Thi Thiên không chút đơn giản.
TT 6 nầy bắt đầu bằng một lời cầu nguyện: "Lạy Chúa, xin đừng trách mắng con khi thịnh nộ, đừng sửa trị con lúc nổi lôi đình". Hiểu được TT nầy đã là một điều không đơn giản, giải thích và đi sâu vào được TT nầy lại càng khó khăn hơn. Ðể hiểu được đâu là những khó khăn của TT, chúng ta sẽ nêu lên những câu hỏi như sau: TT nầy muốn nói gì với ta, nó thuộc về loại nào trong toàn tập TT, ta cảm nghiệm được TT nầy như thế nào, ta rút ra được những hậu quả gì cho cuộc sống tâm linh của chúng ta?
Khi nói rằng TT nầy không chút đơn giản, điều ấy có nhiều lý do:
- Trước tiên đó là một TT nói về cơn thịnh nộ của Ðức Chúa Trời: "Lạy Chúa, xin đừng trách mắng con khi thịnh nộ,đừng sửa trị con lúc nổi lôi đình" (c.1). Ta khó lòng mà hình dung ra được cơn thịnh nộ của Ðức Chúa Trời. Cơn thịnh nộ của Chúa là một điều nằm hẳn ngoài ngôn ngữ và tâm tưởng của con người chúng ta. Nếu Ðức Chúa Trời là Ðấng công chính và công minh, thì Ngài cũng là Ðấng yêu thương và thành tín. Liệu ta có lấy tâm tình người phàm gán vào cho Ðức Chúa Trời hay không, khi ta nói rằng Ngài cũng rơi vào những tâm trạng "hỉ nộ ái lạc" của con người: Ngài cũng thịnh nộ, lôi đình, giận dữ? Làm sao ta có thể thanh thản cầu nguyện, khi chính Chúa lại giận dữ, thịnh nộ, lôi đình?
- Lý do thứ hai làm cho TT nầy khó hiểu là, TT nầy xem ra muốn đóng ngoặc lại tất cả những gì không thuộc về cuộc sống hiện tại. Tỉ như câu nói: "Chốn tử vong, ai nào nhớ Chúa, nơi âm phủ ai ngợi khen Ngài?" (c.6). Tác giả, người cầu nguyện trong TT nầy, hầu như tỏ ra không nghĩ gì đến cuộc đời tương lai, mà chỉ nhìn đến cuộc sống trong thế giới hiện tại. Tân Ước đã hoàn toàn thay đổi cái nhìn nầy và đã rõ ràng mở chân trời cuộc sống con người đến một cuộc sống tương lai bất tận.
- Lý do thứ ba làm cho TT nầy không dễ hiểu là do thể văn của TT: đây là một TT thuộc loại TT ca thán. "Ai ca", "ca thán", những tác phẩm như thế làm ta không mấy hứng thú; chúng cho ta có cảm tưởng như là những gì buồn phiền, chán nản. Tại sao ta lại phải xử dụng một TT buồn nản như vậy?
- Cuối cùng còn một lý do cũng không mấy phấn khởi: đó là TT nầy còn thuộc loại TT người đau ốm, một TT được viết ra cho người ốm đau và người khổ cực. Ai trong chúng ta đã trải qua những cơn bệnh "cửu tử nhất sinh", hoặc nữa ai có thể đặt mình vào tình trạng cùng khốn của những người đau khổ đến chán chường, thất vọng, tuyệt giao với mọi người, với xã hội? Một cơn đau khổ kiệt quệ tâm thần như thế, chỉ có người nào đã kinh nghiệm trong bản thân da thịt mình đến cùng tận mới có thể viết ra được như vậy; và tác giả của lời cầu nguyện nầy quả đã kinh nghiệm những khổ cực như thế.
Ðó là kinh nghiệm của một người bệnh, của một người già trong cô đơn và cô độc cảm thấy sinh lực cuộc sống mình bị xói mòn và rơi rã đến mức cuối cùng. Và không có một ai kề bên nâng đỡ. Bệnh nhân cảm thấy như mọi người chê bỏ, chống đối mình, như mọi người truy nã bắt bớ mình, và chính mình chỉ còn là bực tức giận dữ đối với tất cả mọi người và tất cả xã hội. Những trường hợp như thế có thật, nhưng có lẽ không mấy ai trong chúng ta đã có lần kinh nghiệm. Và như thế làm sao ta có thể tự cho mình là có thể hiểu được một hoàn cảnh đau thương bi thảm đến mức cuối cùng, nhưng lại có thật trong thực tế như vậy?
Ðó là những khó khăn chính mà TT nầy có thể đưa lại cho người đọc ngày hôm nay. Bây giờ chúng ta cùng nhau tìm hiểu TT nầy muốn nói gì. Ðây là một bản kịch ngắn với ba nhân vật: Ðức Chúa Trời, bản thân tôi được đồng nhất với người bệnh, người đau khổ và thứ ba là kẻ thù nghịch. Ðiều sau cùng nầy cũng lại gây thêm khó khăn, bởi kẻ thù nghịch ở đây không được xác định rõ ràng.
Một kịch bản với ba nhân vật:
Ta có trước mắt một người nằm lê lết cùng kiệt từ trong đến ngoài, y cảm thấy như Ðức Chúa Trời bỏ rơi mình, và y muốn kêu to lên một lời trách móc Chúa vì sự ruồng bỏ đó. Nhưng rồi khi kêu lên với Chúa, thì y lại cảm thấy Chúa đã nghe tiếng kêu của mình.
Ðó là tóm tắt ngắn gọn nội dung của TT: một người hết mức cùng cực từ trong đến ngoài đã trút hết lòng mình ra cho Ðức Chúa Trời mà y nghĩ là Chúa nổi giận đối với mình, và rồi y cầu nguyện xin Chúa giải thoát mình khỏi tay những kẻ thù nghịch. Và sau đó y nhận được ơn cứu thoát.
Suy niệm:TT nầy có liên hệ gì với hai TT mà ta đã đọc và suy niệm? Chúng ta đã chọn ra một số TT tiêu biểu diễn tả việc con người đi tìm Chúa, nói lên cuộc "hành trình tâm linh" con người đi đến với Chúa; và ta đã suy niệm được hai TT khai mở cuộc hành trình nầy. TT 131 trong bài suy niệm thứ nhất diễn tả niềm tin sâu xa của con người vào Ðức Chúa Trời là Ðấng độc nhất cao cả: "Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ, trong con hồn lặng lẽ an vui" (c.2b). TT 1 trong bài suy niệm thứ hai cho ta thấy sự lựa chọn dứt khoát của con người bước lên con đường của người công chính, con đường xác định sinh mệnh và cuộc sống của con người trên trần gian nầy: ""Phúc thay người... vui thú với lề luật Chúa, ... Người ấy tựa cây trồng bên dòng nước, cứ đúng mùa là hoa quả trổ sinh,/ cành lá chẳng khi nào tàn tạ. Người như thế làm chi cũng sẽ thành" (cc. 1-3).
Hai TT trên đây khai mở một cách tích cực cuộc hành trình. Còn TT 6 trong bài suy niệm thứ ba nầy lại đã mô tả một trạm đường mang cảnh tiêu cực: ở đây được nói đến những hoàn cảnh trong đó con người không thể sống cũng như không thể tìm Chúa. Vậy ta phải hiểu làm sao tín thư và sứ điệp của TT nầy?
Muốn vậy, thiết tưởng ở đây chúng ta cần có thêm một ít thông tin và giải thích về nội dung tổng quát của tập Thi Thiên, để rồi từ đó hiểu rõ hơn TT đang được bàn đến ở đây.
Như ta biết, tập TT như hiện nay gồm có 150 bài. Ðó là những lời cầu nguyện dưới nhiều thể văn và nhiều phân loại khác nhau. Người ta phân biệt những thể thi phú và ca vịnh, những loại TT lịch sử, giáo huấn, khôn ngoan, về vua, về đấng xức dầu (Mêsi), về vương quyền Ðức Chúa Trời. Trong phần Dẫn Nhập, ta đã có nói đến ba đại loại đứng về phương diện thái độ người cầu nguyện: Tôn Ca, Ai Ca và Cảm Tạ. Mà nếu cảm tạ cũng được diễn tả trong tôn ca, thì cuối cùng ta còn hai thái độ căn bản của người thờ Chúa: đó là tôn ca và ca thán.
Trọn cuộc sống của con người cầu nguyện với TT được thấm nhuần bởi hai nhịp điệu tâm linh căn bản là tôn ca và ca thán, hai bức tranh sáng và tối của tâm hồn trong liên hệ với Chúa và cầu nguyện với Ngài. Chúng ta ngày nay khi nói đến hai thái độ căn bản của một người cầu nguyện, có thể sẽ dùng hai từ khác với một vài màu sắc ý nghĩa hơi khác: Tỉ như ta sẽ dùng những từ cầu xin và cảm ta. Còn tác giả TT lại diễn tả lời cầu nguyện của mình dựa trên những kinh nghiệm nguyên sơ của con người với hai thái độ muôn thuở là tôn ca và ca thán.
Tôn ca và ai ca trong Kinh Thánh.
Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu TT muốn nói gì với ta, khi TT diễn tả mối tương quan của mình đối với Ðức Chúa Trời thông qua hai hình thức tôn ca và ca thán.
Tôn ca nghĩa là gì, và TT hiểu tôn ca như thế nào?
Tôn ca trong Kinh Thánh chỉ có một đối tượng là Ðức Chúa Trời. Ðộng từ tôn ca trong Kinh Thánh không nhắm ai khác hơn là chính Chúa. Và như thế, tôn ca là thể thức và là thái độ con người liên hệ với Chúa và ra mắt trước mặt Chúa. Tiếng hibá hiểu tôn ca là reo mừng, là nhịp đập rộn rã của con tim, là sự cung kính và ngỡ ngàng trước hành động của Chúa. Ðó là lời tôn ca của Kinh Thánh, đó là lời tôn ca của Ðức Maria thân mẫu Chúa Giêsu với bài "Ngợi Khen" (Magnificat): "Linh hồn tôi ngợi khen sự cao cả của Ðức Chúa Trời, tâm trí tôi hớn hở vui mừng vì Chúa, Ðấng Cứu Chuộc tôi" (Lc 1:46-47); đó là thái độ căn bản của tôn ca.
Và như thế, tôn ca trong Kinh Thánh là biểu lộ của sự sống. Ngày nay có thể ta sẽ diễn tả một cách triết lý nói rằng: tôn ca là biểu lộ của hiện hữu, là ngỡ ngàng trước hiện hữu.
Tiên tri Êsai có câu: "Kẻ sống mới tôn ca Ngài, như tôi làm ngày nay" (Êsai 38:19). Sự sống mới tôn ca Chúa, kẻ sống mới tôn vinh Ngài. Tôn ca là sự diễn tả của một con người ý thức được về chính mình, cảm nghiệm được mình đang sống và cung kính ngưỡng mộ Ðấng ban cho mình sự sống. Ðối với Kinh Thánh, đối với TT, tôn ca và sự sống là một. Và ngược lại, không-tôn-ca là không-sống, không-tôn-ca là chết; và cũng từ đó, chết là không- tôn-ca. Ý nghĩa chết trong Kinh Thánh khác với ý nghĩa chết ta hiểu ngày nay: ta hiểu chết là bước qua một cuộc sống khác, một cuộc sống cao hơn, Kinh Thánh và TT hiểu chết là không-sống, là không-tôn-ca. Không-tôn-ca là không-sống, là không-hiện-hữu, là chết. Do đó, TT của chúng ta nói rằng: "Chốn tử vong ai nào nhớ Chúa, nơi âm phủ ai ngợi khen Ngài?" (c.6), bởi tôn-ca là sống và sống là tôn-ca, cũng như không-tôn-ca là chết và chết là không-tôn-ca. Con người kinh nghiệm được mình là một sinh vật và cảm nhận được nhịp sống đập mạnh trong mình với vui mừng, hoan hỉ, và ý thức được rất rõ mình đang làm gì khi mình tôn-ca, nghĩa là mình đang sống, như TT nói đến.
Còn ai ca và ca thán là gì? Ðó là tiếng kêu than của con người cảm thấy sự sống của mình đang biến dần mất đi. Ðó cũng là tiếng kêu than của con người cảm thấy sự sống của mình dưới một phương diện nào đó đang giảm sút đi: tỉ như sức khoẻ, công ăn việc làm, kế hoạch xây dựng cuộc đời, khả năng yêu thương, danh giá sự nghiệp. Khi con người cảm thấy sự sống mất dần đi như thế, y bèn lên tiếng kêu than. Khi con người nhận thấy cuộc sống mình đang xuống dốc và biết rằng xa lìa sự sống là xa lìa Ðức Chúa Trời hằng sống, y bèn cả tiếng kêu lên: "Xin đừng lìa bỏ tôi, xin hãy trở lại, tôi muốn lại được tôn ca Ngài".
Ðiều mà con người cảm nghiệm trong tình trạng âu lo buồn bực cho cuộc sống của mình như thế, điều đó trong truyền thống Kinh Thánh Cựu Ước được gọi là sự bực nhọc của Chúa, là cơn thịnh nộ, là sự xa lìa của Chúa. Và từ đó con người kêu lên: "Lạy Chúa, xin thương xót tôi, tôi kiệt sức rồi, xin hồi sức cho tôi; hồn tôi đã rã rời, xin đến cứu tôi, xin cứu tôi vì lòng thương xót Chúa!".
Ai ca là điều ngược lại với tôn ca, nghĩa là ngược lại với ý thức sống là tôn ca và để tôn ca. Vậy khi con người cảm thấy sự sống mình bị giảm sút hay bị đe dọa bởi ốm đau, cô đơn, ruồng bỏ, tổn thương tâm hồn hay lo sợ cho tương lai, con người đó liền kêu lên với Chúa, Ðấng là sự sống; người đó kêu than với Chúa, Ðấng làm cho sống, bởi y cảm thấy hình như Chúa xa lìa mình nên kêu than cầu xin với Ngài.
Ðể có phần cụ thể và sống động hơn, ta có thể trưng dẫn một ít trường hợp ca thán trong Kinh Thánh.
Trường hợp đầu tiên hiện đến là hình ảnh vua Ðavít. Một phần lớn các TT được ghi lại là do ông soạn ra (73 trên 150); Ðavít là con người đã từng kinh qua những đau thương, nhục nhằn và ruồng bỏ. Nhưng Ðavít đã kinh nghiệm những đau thương đó như một kẻ tin, nghĩa là ông đã kêu lên cùng Chúa. Ông đã không sống những tình cảnh đó như một người thất vọng tự chôn vùi mình trong cô đơn và cô độc, nhưng đã kêu lên tiếng ca thán và biết được rằng tiếng kêu than của mình sẽ thấu đến đôi tai yêu thương của Ðức Chúa Trời. Ðiều đó Ðavít đã cảm nghiệm một cách rất mãnh liệt và cụ thể.
Một hình ảnh khác là tiên tri Giêrêmia; ông đã viết ra những bài "ca thương" mà từ ngữ cũng như tứ thơ rất gần với các TT. Ngôn sứ Giêrêmia cũng đã phải trải qua những cảnh sống cô đơn và bị ruồng bỏ, và từ đó ông đã diễn tả tình cảnh sinh sống của mình ra bằng những lời kêu than thống thiết. Gióp cũng đã bộc lộ diễn tả những dằn vặt đau thương thể xác và tâm hồn mình ra bằng những lời kêu than cảm thán. Và dĩ nhiên ta không thể không tưởng đến tiếng kêu than não nuột của Chúa Giêsu trên cây thập tự giá: "Lạy Chúa Trời tôi, lạy Chúa Trời tôi, sao Ngài lìa bỏ tôi?" (Mt 27:46).
Mỗi tín nhân Cơđốc/Kitô có thể cảm nghiệm được điều mà Ðavít, Giêrêmia, Gióp cũng như điều mà Chúa Giêsu đã từng cảm nghiệm - mỗi tín nhân bị đau ốm, cô đơn, bị giam cầm, bắt bớ, ruồng bỏ: có rất nhiều hoàn cảnh trong cuộc sống làm cho tín nhân Chúa cũng cảm nghiệm được số phận đau thương như thế. Rồi còn biết bao nhiêu anh em chị em, thân nhân, bạn hữu, đồng hương chúng ta trong đau thương, cô đơn, bắt bớ, giam cầm cũng đang cảm nghiệm tấn bi kịch đau thương và ai ca cảm thán của TT nầy!
Chúng ta không thể nghĩ rằng, kẻ nào đã tin nhận Chúa, đã nghe và đọc Phúc Âm, đã quyết tâm sống cho công bình, tự do và yêu thương, nay gặp phải bắt bớ, giam cầm hoặc tra tấn, lại nhất thiết phải reo hò lên vì vui mầng; rất có thể những người đó đang phải vô cùng đau đớn vì khổ cực, vì oan ức, vì bị ruồng bỏ, cùng với hoảng sợ và lo âu trong tâm hồn. Và từ đó họ cả tiếng kêu lên với Chúa.
Khi cầu nguyện với TT nầy, ta có thể ôm siết vào lời cầu nguyện của ta hết tất cả mọi người đang chịu khổ cực đau thương: có thể ta không thoa dịu được những khổ đau của họ với một lời an ủi, với một cử chỉ yêu thương; nhưng với TT nầy, ta có thể hòa nhập chính mình ta vào lời ca thán phủ khắp cả trần gian của những người đang chịu đau thương, những người đang hướng trọn cuộc sống mình vào một Ðức Chúa Trời rất đỗi nhân hậu và đầy thương xót.
Ði vào phần kết thúc của suy niệm, ta có thể nêu lên một vài câu hỏi về ý nghĩa của TT nầy đối với ta.
- Câu hỏi thứ nhất về ý nghĩa sống là tôn ca và tôn ca là sống.Tín nhân chúng ta quen biết nhiều việc cầu nguyện, và cầu nguyện thường được hiểu là xin ơn: xin Chúa cho con ơn nầy ơn kia, xin Chúa cho người nầy người kia ơn nầy ơn nọ. Ðó là lời "cầu nguyện xin ơn". Việc xin ơn như thế cũng đã được chính Chúa Giêsu chỉ bày cho chúng ta trong Phúc Âm. Nhưng Chúa Giêsu còn dạy chúng ta một cách cầu nguyện khác: đó là lời "cầu nguyện tôn ca" như ta đã học được trong "Kinh Lạy Cha": "Chúng con nguyện cho Danh Cha được tôn thánh, nước Cha được đến, ý Cha được nên dưới đất cũng như trên trời...". Chính lời "cầu nguyện tôn ca" - theo truyền thống Kinh Thánh và các Thi Thiên mà ta đang học - là lời cầu nguyện tốt đẹp nhất, đến nỗi Kinh Thánh đã cho ta hiểu "tôn ca là sống", và "sống là tôn ca", "sống và tôn ca" là một.
Vậy nay ta tự hỏi: Ðã có lần nào tôi cảm thấy được trong đời tôi cái "nhu cầu" phải reo vui lên để tôn kính, để chào mầng, để ngợi khen Ðức Chúa Trời không? Giống như khi ta vui thì hồn nhiên mở giọng hát xướng tôn ca, giống như chim trời khi chúng sống là hồn nhiên ca hót, giống như hoa lá khi chúng mọc lên là hồn nhiên đua nhau tung nở. Chúng ta đã có từng "cảm nghiệm" được một cách đích đáng rằng, cũng như đối với thân xác: sống là thở và thở là sống, thì đối với tâm hồn: sống là tôn ca và tôn ca là sống? Ðối với thân xác: sống và thở, thở và sống là một; thì đối với tâm hồn: sống là tôn ca và tôn ca là sống, sống và tôn ca là một?
Nhìn nhận và cảm nghiệm được như thế, thì tôn ca vượt hẳn trên cảm tạ, bởi cảm tạ là giống như một sự đổi chác giữa ơn ban cho và lời cảm tạ. Còn tôn ca thì chỉ nhìn đến một chiều cao cả vô tận của Chúa: "Chúng con ngợi ca Chúa, lạy Chúa, vì Quyền Năng và Vinh Hiển của Chúa! Chúng con ngợi ca Chúa vì Chúa là Cao Cả! Chúng con ngợi ca Chúa vì Chúa là Công Chính và Nhân Hậu, vì Chúa là Yêu Thương và Thành Tín! Chúng con ngợi ca Chúa vì Chúa là Chúa!"
Hoặc giống như Kinh Thánh cũng đã từng diễn tả dưới hình thức như dâng lên cho Chúa một món quà: "Tất cả đều quy về Chúa, lạy Chúa Toàn Năng và Cao Cả, tất cả Quyền Năng và Vinh Hiển, tất cả Phúc Lành và Ngợi Ca"!
Khi một người cảm nghiệm được cuộc sống của mình chìm đắm trong lời "cầu nguyện tôn ca" như thế, họ sẽ thấy được rằng, họ sinh ra là để ngợi ca, và ngợi ca như thế là họ tìm về được cái ý nghĩa thâm sâu của cuộc sống, là họ tìm về được cái chân ngã của mình. Nhiều người và nhiều tín nhân ngày nay thường chỉ quen dùng lời "cầu nguyện xin ơn" mà ít biết đến lời "cầu nguyện tôn ca" có lẽ vì họ đã đánh mất đi chăng cái ý nghĩa thâm sâu của cuộc sống, cái hiểu biết về cái chân ngã của mình, cũng như đã đánh mất đi cái cảm nghiệm về một Ðức Chúa Trời Uy Nghi, Cao Cả và Hiển Vinh chăng? Nhưng ta cứ thử nghiệm một lần lời "cầu nguyện tôn ca", và ta sẽ "nếm" được, sự tự do nội tâm là ngọt ngào chừng nào, và Chúa Cao Cả của chúng ta là phúc lộc chứa chan biết bao!
- Câu hỏi thứ hai về ca thán như là sự thực lịch sử của sinh mệnh đời ta:Như ta đã tìm hiểu, ca thán nói lên niềm ước mong được sống và sự khắc khoải trông chờ ở Chúa của Sự Sống làm cho cuộc đời ta thật đáng sống. Có thể cái từ "ca thán" mà các nhà giải kinh dùng ở đây làm ta không mấy thiện cảm; ta có thể dùng một từ khác vừa đồng nghĩa vừa thích hợp với tâm tư của con người thời đại hơn: từ "ca thương" (x. Ca Thương của tiên tri Giêrêmia). "Ca thương" là lời cầu nguyện của một người ý thức và cảm nghiệm được cái khốn cùng và khổ cực của bản thân mình, cái khốn cùng và khổ cực của bạn bè thân nhân mình, cái khốn cùng và khổ cực của trần gian và nhân loại, để rồi với tin cậy và yêu thương, tôn kính và vâng phục trải bày những khốn cùng và khổ cực đó ra trước mặt Ðức Chúa Trời.
Lời "cầu nguyện thương đau" sẽ luyện tẩy và biến đổi tâm hồn kẻ cầu nguyện; lời "cầu nguyện thương đau" sẽ làm cho đau thương nên lời cầu nguyện và lời cầu nguyện nên lửa tẩy luyện tâm hồn mình.
- Câu hỏi thứ ba làm nổi bật lên nội dung của lời ca thán: Con người kêu than gì? Lời "cầu nguyện thương đau" nói lên những gì?Ca thán và lời cầu nguyện thương đau nêu lên tất cả những gì làm tổn thương đến sự sống, tất cả những gì chống lại sự sống, tất cả những gì làm hủy hoại sự sống. Và như thế thì nay ta hiểu được ý nghĩa và giá trị của sự "phản kháng" chống lại những thế lực và bạo quyền của sự chết - sự chết từ thể lý đến tâm linh và tinh thần.
Những "phản kháng" chống lại các thế lực và bạo quyền của sự chết và của những tình trạng đưa đến sự chết như thế đang được xẩy ra khắp nơi xa gần trên thế giới như ta thấy ngày nay; chúng mang những ý nghĩa và những giá trị của sự phục hồi và phát huy nhân phẩm con người và chức vị làm con Chúa.
Thi Thiên diễn tả một cách hào hùng ý nghĩa và giá trị của sự "phản kháng" là Thi Thiên 18. TT "phản kháng" nầy đã đi từ những giá trị của cuộc sống đến những giá trị tâm linh và tôn giáo, và đã nêu lên những đặc điểm của một sự phản kháng phải có. Ðó là một sự phản kháng phơi bày sự ác ra đến tận gốc tận rễ. TT không dừng lại ở những nguyên nhân bên ngoài, nhưng đi đến cội nguồn của sự ác nằm tận trong đáy tim con nguời. Sự phản kháng ở đây không chỉ diễn tả bằng những lời nói suông mà không có hành động, trái lại làm dấy lên niềm hy vọng, đòi hỏi những tình trạng mới, quyết tâm thay đổi hoàn cảnh. TT là một phản kháng hoàn toàn đặt niềm tin vào Chúa; do đó mà TT nầy mang giá trị tôn giáo và đạt thấu tận gốc rễ của sự sống, của hiện hữu.
Ngài đã nghe tiếng tôi kêu cầu:
Lời cầu ca thương của chúng ta đi đến đâu, đạt được những gì, có giống như cảnh kết thúc của TT thay đổi hoàn toàn tình trạng hay không?
Tác giả TT đã tự giới thiệu mình qua lời cầu nguyện:
"Rên siết đã nhiều nên con mệt mỏi,
trên giường ngủ những thổn thức năm canh,
từng giọt vắn dài lệ tuôn đẫm gối,
mắt hoen mờ vì quá khổ đau,
thêm suy nhược bởi quân thù vây hãm" (cc.7-8).
Tác giả nguyện cầu hầu như đã cùng kiệt đến lằn mức cuối cùng; nhưng đột nhiên lời ca bỗng thay đổi:
"Ði cho khuất hỡi bọn làm điều ác,
vì Chúa đã nghe tiếng nức nở ta rồi,
Chúa đã nghe tiếng ta cầu khẩn,
Chúa đón nhận lời ta nguyện xin" (cc. 9-10).
Trọn "lời cầu thương đau" vào phút giây nầy bỗng đã trở nên tiếng cảm thán ba nhịp loan báo được Chúa nghe lời: Chúa đã nghe tôi, Chúa đã nhận lời tôi, Chúa đã chấp nhận tôi.
Con người - kẻ đã nản lòng, nghi ngờ và hầu như thất vọng khi bước vào lời cầu thương đau - nay nhận được niềm tin và xác tín rằng Chúa ở cùng mình. Và niềm tin chắc nầy đã thay đổi hẳn cái nhìn về cuộc sống: Kẻ thù không còn nữa; tất cả những gì trước đây xem như thù nghịch, thì nay xuất hiện một quang cảnh khác. Bây giờ thì không còn gì có thể làm tổn thương sự sống, bởi nay con người đó đã nhìn ra được cuộc sống dưới một ánh mắt mới và xáp mặt những khó khăn với một sức mạnh mới.
Ðó là cao điểm của TT, của "lời cầu thương đau" nầy. Một con người bị thử thách vì khổ đau, nay được trở nên tươi mới, không còn chán nản thất vọng với đau ốm và cô đơn nữa, nhưng năng động và sáng tạo. Người đó nay đã tìm lại được ý nghĩa cho điều mà trước đó xem như bế tắc cùng đường. Và như thế chúng ta thấy được lời cầu nguyện thương đau có thể dẫn đưa ta đến những đâu: lời cầu nguyện thương đau đã đưa ta đến việc tôn ca Chúa và cho thấy con người là gì trước mặt Chúa.