- Chuyên mục: Phong Tục Thánh Kinh
Đối với người Y-sơ-ra-ên, nhà đầu tiên là nơi họ dựng lều. Cho đến
khi một lúc nào đó người Hi-bá đã sinh cơ lập nghiệp trong xứ Ca-na-an
sau thời gian tạm ở Ai-cập, họ là người du mục. Họ không định cư trong
những thành phố, nhưng di chuyển từ nơi nầy sang nơi khác để giải quyết
những đòi hỏi thức ăn cho bầy gia súc của họ. Tự nhiên, nhà của họ là
những cái lều mang theo dễ dàng.
TRẠI BẰNG LÔNG
Những cái lều được đề cập như những chỗ đóng trại rất sớm trong (Sáng
4:20), trong đó Gia-banh được mô tả là "tổ phụ của các dân ở trại".
Áp-ra-ham "đóng trại" gần Bê-tên (Sáng 12:8). Y-sác đóng trại trong
trũng Ghê-ra (Sáng 26:17); Gia-cốp, gần Si-chem (Sáng 33:18).
[image: Gia Trại]
Những ngôi làng trại dàn trận của Áp-ra-ham được dựng trên những cánh
đồng của Ca-na-an thật gây ấn tượng ! Khi Lót bị các vua của Ê-lam,
Si-nê-a, và Ê-la-sa bắt phu tù, Áp-ra-ham đuổi theo với 300 người sinh
ra trong gia đình ông đã được huấn luyện. Làm sao hình dung được hằng
trăm cái trại có cần cho một gia đình như vậy. Những trại nầy được sắp
xếp thành những vòng tròn với mục đích bảo vệ.
Trong 40 năm lang thang nơi đồng vắng, tuyển dân của Đức Chúa Trời là những người ở trong trại. Môi-se nói, "Dân Y-sơ-ra-ên mỗi người phải đóng ở trong trại quân mình"
(Dân 1:52). Nhiều năm sau khi họ vào Đất Hứa, họ vẫn sống trong trại.
Ngay cả những ngày của vua Đa-vít, nhiều người sống trong kiểu nhà nầy.
Giê-rê-mi viết, "... cả đất bị phá tán; nhà tạm (trại) tôi thình lình bị hủy" (Giê 4:20).
Quả thật, trại của người Y-sơ-ra-ên là nhà của họ. Những trại của họ
làm thật đơn giản và thú vị ! Những phụ nữ nội trợ dệt tất cả vật liệu
dùng cho "nhà lông" bằng máy dệt gia đình. Những vật liệu theo nghĩa đen
là làm bằng lông. Lông dê màu đen thô được dệt thành những mảnh vải
rộng khác nhau, tùy thuộc vào kích cỡ của máy dệt tay. Những mảnh vải
nầy được kết lại với nhau làm một cái trại theo kích thước mong muốn.
Kích thước của trại thay đổi theo số nhân khẩu hợp thành gia đình. Trại
trung bình dài năm mét và rộng độ ba mét.
Trong những ngày mưa lớn đầu tiên, lông dê co rút lại làm cho vật
liệu hầu như không thấm nước. Vật liệu nặng nầy bảo vệ gia đình khỏi
lạnh trong mùa đông. Trong mùa hè, những vành trại được dương lên làm
thành mái che nắng. Sa-lô-môn đưa ra một bức tranh thú vị về những cái
trại trong bài ca của ông: "Hỡi các con gái Giê-ru-sa-lem, tôi đen, song xinh đẹp, như các trại Kê-đa..." (Nhã ca 1:5).
Nhìn vào bên trong một trong các trại nầy sẽ thấy một bức màn treo từ
giữa mái trại chia ra nơi của phụ nữ với nam giới. Như Sa-ra tại
Mam-rê, trong gian trại của bà, bà đã nghe trộm cuộc nói chuyện giữa
Áp-ra-ham với thiên sứ (Sáng 18:10). Trong nhiều gia đình, nam nữ có
những trại riêng biệt. Trong Sáng 31:33, nói đến trại của Gia-cốp, trại
của Lê-a, trại của Ra-chên, và trại của các con đòi. Những trại nầy rất
linh hoạt. Khi một gia đình gia tăng số người, họ thêm vài tấc chiều dài
của trại. Đây là bối cảnh lời kêu gọi của Ê-sai: "Hãy mở rộng nơi trại ngươi, giương màn chỗ ngươi ở. Chớ để chật hẹp; hãy giăng dây cho dài, đóng nọc cho chắc..."
(Ês 54:2). Chín cái cọc, được xếp thành hàng ba cái, hỗ trợ mái trại.
Ba cái cột ở giữa cao hai hoặc ba mét; những cái cột khác chạy song song
phía trước và phía sau. Trại được căng ra bằng những dây dài. Những dây
nầy giữ những cái cột đúng vị trí, và những nọc trại buộc chặt trại
xuống đất.
"Nhà lông nầy" là một biểu tượng về đời sống đơn sơ, tự do của người
Y-sơ-ra-ên. Những người nầy thật yêu thích sống ngoài trời và thật sự
thích cái trại hơn ngôi nhà gỗ và đá được dùng sau nầy! Sứ đồ Phao-lô là
một người may trại nổi tiếng trong Kinh-Thánh.
NHỮNG VẬT DÙNG TRONG TRẠI
Chúng ta đã xem xét cấu trúc của trại. Bây giờ chúng ta hãy nhìn lên
vành trại và quan sát những đồ dùng. Mọi vật cực kỳ đơn giản. Sàn trại
là đất được nện cứng. Trong các gia đình nghèo không có loại phủ sàn
nào. Tuy nhiên trong nhiều nhà tiến bộ, những người trong nhà dùng những
thảm rơm hoặc gỗ hoặc thảm lông lạc đà thô.
Dọc theo vách trại, những giường cuộn hoặc những ổ rơm được chất
thành từng lớp từng lớp. Một tập hợp chậu, xoong chảo, ấm nước, và vạc
(chảo lớn) treo trên những cái trụ gỗ. Trên một cái trụ đối diện là
những túi và bình bằng da dê. Cái chày và cái cối gần cửa (Dân 11:8).
Mỗi nhà có một cái thùng nhồi bột (Xu 12:34). Không có nhà nào mà không
có cối xay (Phục 24:6). Đèn trại đặt một chỗ dành riêng. Đối với những
người khá giả thì có một con lạc đà, một túi yên dùng làm chỗ ngồi (Sáng
31:34).
[Image: Giường cuộn ]
Tất cả dụng cụ gia đình nầy có thể được đóng gói lại ngay lập tức và
được những người phụ nữ mang đi hoặc đặt trên lưng lạc đà trong trường
hợp bị tấn công hoặc quyết định chuyển đến những đồng cỏ tốt hơn. Làm
trại, giăng trại, hạ trại, toàn bộ là công việc của phụ nữ. Họ là những
người chuyên khoanh cọc để đóng trại. Những người phụ nữ làm những cái
lò riêng của họ để nướng bánh mì và nấu thức ăn cho gia đình cách đơn
giản bằng cách dựng lên vài hòn đá nơi cửa trại. Họ đốt lò bằng than cho
đến khi đủ nóng để nướng những ổ bánh mì phẳng.
[image: tui nuoc]
Sự tiến bộ của một người thường được quan sát trong những sự sửa sang
nhà của họ. Trong triều đại vua Đa-vít, người ta dần dần thay đổi từ
cuộc sống du mục sang định cư để tiếp tục nghề nông. Điều nầy đòi hỏi
việc xây dựng những ngôi nhà lâu bền hơn. Từng cái từng cái "nhà lông"
bắt đầu biến mất, và những ngôi nhà bằng bùn, gạch, và đá trở nên vật
được chấp nhận.
Người Hi-bá vẫn là người sống ngoài trời, vì ngay từ đầu họ không xây
những ngôi nhà lớn. Họ thích sự tự do của cuộc sống ngoài trời.
Tất cả họ muốn nhà là nơi che chở. Những phụ nữ thường ở ngoài đồng
làm việc với đàn ông. Do đó, nhà chính thức là nơi để ăn và ngủ.
NHÀ GẠCH VÀ ĐÁ
Người Y-sơ-ra-ên xây tường của một ngôi nhà từ bùn chưa nung và gạch
đất sét được phơi nắng cho khô. Thỉnh thoảng họ làm đá góc để chống đỡ
đà nhà. Không lâu sau, họ khám phá rằng những nhà lông và đất sét có thể
bị những tên ăn trộm hoặc kẻ thù tấn công. Như Gióp nói: "Đương đêm tối tăm, chúng nó khoét nhà" (Gióp 24:16a).
Bởi thế người ta bắt đầu làm những nhà bằng đá bền vững hơn. Việc nầy
đã mở đầu nghệ thuật chẻ đá và thợ nề. Sa thạch rất thông dụng trong xứ
và sẵn có cho việc xây dựng loại nhà mới nầy. Những đá nầy luôn luôn
không được cắt, vì vậy thường rất đa dạng về kích cỡ. Hồ (vữa) làm từ
bùn kết hợp với đá. Người ta xây những ngôi nhà một phòng nhỏ trong
làng.
Trong các thành phố, người ta xây những ngôi nhà lớn và đẹp hơn. Ở
đó, họ thích nhà có nhiều phòng. Tuy nhiên, họ không xây các phòng kế
nhau như chúng ta ngày nay. Họ chia hai phòng của nhà bằng một khoảng
trống hoặc một sân lộ thiên. Nếu nhà gồm ba hoặc bốn phòng, nó được xây
quanh một sân ở giữa. Chiều dài sân tùy thuộc vào số phòng. Phía trước
các phòng đối diện với sân bởi vì mỗi gia đình muốn là một khối đoàn kết
chặt chẽ.
Sân vườn được mở lộ thiên. Nơi đó người ta trồng cây trụ, bụi cây,
hoa để thưởng thức. Mọi sân có hồ chứa nước để hứng nước mưa và dùng làm
chỗ dự trữ để cung cấp nước giới hạn. Giô-na-than và A-hi-mát trốn khỏi
Áp-sa-lôm trong một hồ chứa nước giống như thế nầy. Một người đàn bà
dùng rơm phủ lên miệng giếng để người ta không tìm thấy (II Sam.
17:18-19).
SÀN NHÀ
Ngay cả trong những nhà lớn với nhiều phòng, người dân thường không
có sàn nhà ngoại trừ đất mà ngôi nhà được xây trên đó. Đất được làm cho
mềm và nện cho dẽ. Đôi khi, người ta trộn vôi vào bùn và rãi trên sàn
cho đến khi nó cứng. Kiểu sàn nhà nầy có thể bị ẩm ướt và tương đối dễ
bị bụi. Trong một số trường hợp, đá lát sàn và đá phiến được trộn với
vôi và nện xuống sàn. Việc lót sàn tốt nhất gồm những phiến đá vôi vuông
lớn đặt liền nhau. Cách nầy lâu bền, và có thể lau chùi. Đương thời
Đấng Christ, người La-mã đưa ra loại sàn khảm. Những loại nầy được làm
bằng cách gắn những miếng đá vuông nhỏ, cắt phẳng vào đất ướt. Trong
những nhà giàu, sàn nhà được lót bằng đá cẩm thạch và trang trí với
những đá đen và đầy màu sắc.
MÁI NHÀ
Mái của những ngôi nhà lớn được chống đỡ bởi nhiều trụ gỗ to mới đốn
đặt từ bức tường nầy ngang qua bức tường kia. Những đà gỗ nhỏ hơn được
đặt thẳng góc với những kèo gỗ lớn. Ở trên những đà nầy được đặt một lớp
ván mỏng. Lớp ván mỏng nầy được phủ bằng cỏ tranh, cỏ, gai, hoặc rơm.
Trên mặt, người làm nhà trải một lớp đất ướt và đất sét dày độ 3 tấc;
tất cả được nện cho dẽ dặt. Một trục đá lăn nhẹ trên mặt. Cuối cùng, một
lớp cát và đá cuội rải lên trên. Sau mỗi trận mưa, mái nhà được lăn và
nện lại để ngăn chận những chỗ hở. Mái nhà nào cũng có một trục đá để
dành trong một góc dùng sau nầy.
Với mái nhà đất sét, chúng ta có thể hình dung dễ dàng một đám cỏ xanh mọc lên trong mùa mưa. Tác giả Thi-thiên nói: "Nguyện chúng nó như cỏ nơi nóc nhà, đã khô héo trước khi bị nhổ" (Thi 129:6). Ê-sai nói về dân sự của ông giống như "cỏ trên mái nhà" (Ês 37:27)
Nhà của những người giàu được lợp ngói có thể dễ chuyển đổi và sửa
chữa. Vì vậy, bốn người bạn có thể khiêng người bại lên mái nhà bằng cầu
thang bên hông nhà, dở ngói, và hạ người bại xuống để Chúa Giê-su có
thể phán những lời bất hủ "Hỡi con ta, tội lỗi ngươi đã được tha" (Mác 2:3-5).
Mái nhà được chống đỡ từ phía trong bằng một hoặc nhiều trụ dựng lên
từ giữa phòng để làm vững chắc những đà ngang. Khi người Phi-li-tin họp
lại trong đền thờ Đa-gôn để vui mừng đã bắt được kẻ thù của họ là
Sam-sôn, những trụ giữa nầy đóng vai một phần quan trọng (Các 16:29).
CẦU THANG BÊN NGOÀI VÀ SÂN THƯỢNG
Bên ngoài nhà, dù nhà nghèo hay nhà giàu, người ta xây cầu thang dẫn
lên mái nhà. Những cầu thang nầy được làm bằng đá. Phần nhiều đời sống
gia đình vui chơi trên sân thượng, đặc biệt vào lúc chiều mát. Những
đường phố bụi bặm và ồn ào, trong khi trên mái nhà thì yên tĩnh và thoải
mái. Sa-lô-môn thích một góc nhỏ trên mái nhà rộng của ông hơn là với
một người đàn bà hay cải cọ. (Châm 25:24).
Phi-e-rơ đã leo lên sân thượng, nhà của Si-môn thợ thuộc da tại
Gióp-bê để cầu nguyện (Công 10:9). Hạt giống, trái cây, và nhiên liệu
được trải ra phơi nắng trên sân thượng. Khi các thám tử của Giô-suê đến
Giê-ri-cô trong xứ Ca-na-an, Ra-háp giấu họ dưới sợi gai nàng đã trải ra
trên mái nhà để phơi khô, và việc làm nầy đa cứu mạng sống của các thám
tử (Giôs 2:6).
Vào mùa hè, toàn bộ gia đình sẽ rời bỏ sự giam hãm của những phòng
phía dưới để lên sân thượng ngủ. Trong những ngôi nhà lớn và cung điện,
những nhóm đông người thường tụ họp trên sân thượng. Những mái nhà của
người Palestine được dùng nhiều cách, vì thế, cần có những luật lệ buộc
chủ nhà xây lan can hoặc tay vịn chung quanh sân thượng để những người
láng giềng và bạn hữu không bị té xuống và không bị thương. (Phục 22:8).
PHÒNG CAO
Mọi gia đình đều muốn có một phòng cao hoặc phòng kín trên sân
thượng. Những người không có khả năng thực hiện những sự xa xỉ nầy phải
tự thỏa lòng với lá kè, rơm, hoặc cỏ tranh làm một cái lều hoặc cái chòi
bằng lá trên mái để họ cũng có một phòng cao nhỏ hơn.
Nhiều người bình dân xây phòng cao bằng gỗ hoặc đá. Phòng được dùng
làm một chỗ ẩn dật mát mẻ để lánh khỏi những thú nuôi trong nhà, những
người mua bán, và những người ăn xin trên những con đường hẹp phía dưới.
Khi những khách mời ở trong nhà, phòng cao được dùng như một chỗ của
lòng hiếu khách. Người đàn bà Su-nem và chồng dựng một cái phòng cao như
thế cho Ê-li-sê "rồi để tại đó một cái giường, một cái bàn, một cái ghế, và một cây đèn" hầu cho Ê-li-sê có chỗ ở lại (II Vua 4:10).
Trong một phòng cao như vậy, Chúa Giê-su đã lập Lễ Tiệc Thánh. Các
môn đồ nhóm nhau lại trong một phòng cao sau khi Chúa thăng thiên để chờ
Đức Thánh Linh giáng lâm. Nếu có hơn hai phòng được xây trên mái nhà,
đôi khi nó được gọi là nhà mùa hè (Am 3:15)
CỬA SỔ
Dù là nhà lớn hay nhỏ đều có vài cửa sổ. Cửa sổ mở hướng ra đường
thường được đặt cao trên tường như biện pháp an toàn tránh người ngoài
xâm nhập. Những cửa sổ lớn mở vào sân. Kính cửa sổ chưa có, nên cửa sổ
được làm bằng gỗ, hoặc che bằng khung rào mắt cáo.
Tác giả Thi-thiên có lẽ đang nghĩ về những cửa sổ mắt cáo mở ra, khi ông nói: "Hỡi
Đức Giê-hô-va vạn quân, là Vua tôi và là Đức Chúa Trời tôi, con chim sẻ
tìm được một nơi ở, và chim én tìm được một ổ đặng đẻ con nó, tức là
bàn thờ của Chúa" (Thi 84:3). Ban đêm, các cửa sổ được đóng lại
bằng những cánh cửa chớp kín đáo và an toàn. Những cửa sổ trong các
phòng cao không cần chấn song vì không tên trộm nào có thể trèo lên
tường.
CỬA CÁI
Cửa đi là chỗ thánh riêng biệt và quan trọng. Sự khác nhau giữa trong
và ngoài nhà là hai thế giới riêng biệt. Bên trong là nơi trú che chở,
nơi mà sự ồn ào, lộn xộn, và xâm phạm bị ngăn lại. Bên ngoài là một chỗ
không liên quan đến ai, đầy trộm cắp và kẻ thù. Trong những nhà lớn, một
người gác cửa ngồi nơi lối ra vào để trả lời những câu hỏi cho gia đình
và hạn chế khách. Ban đêm, người gác cửa ngủ trong một phòng nhỏ gần
cửa. Trong nhà nhỏ hơn ở nông thôn, trách nhiệm gác cửa được các thành
viên trong gia đình chia sẻ. Vị trí quan trọng của người cha là nơi cửa.
Những cửa cái được mở suốt ngày như một biểu hiện của sự mến khách.
Một cánh cửa đóng lại ý rằng gia đình đang làm gì đó mà họ bị hổ thẹn.
Vào lúc hoàng hôn, cửa được đóng cho đến sáng hôm sau. Điều nầy được nói
đến đối với thí dụ mà Chúa Giê-su đã kể về người bạn từ chối cho bạn
mình ba ổ bánh lúc nửa đêm. Người bạn ấy nói: "Đừng khuấy rối tôi, cửa đóng rồi, con cái và tôi đã đi ngủ, không dậy được mà lấy bánh cho anh"
(Lu 11:5-7). Những khóa à những chìa khóa cửa cổ xưa được làm bằng gỗ.
Thông thường, cửa cái được làm bằng gỗ cây sung. Chỉ những nhà giàu mới
trang hoàng cửa của họ bằng gỗ bá hương.
ĐỒ DÙNG CỦA NHÀ BẰNG ĐÁ
Những đồ dùng của nhà một phòng đơn giản hơi khác với những đồ dùng
trong trại. Trong nhà ở thành phố, một ngăn kệ trưng bày những dụng cụ
nấu ăn bằng đồng. Những chồng đồ để ngủ và những ổ rơm được cất vào hốc
tường. Những hốc tường nầy về sau phát triển thành những tủ để quần áo.
Chung quanh ba phía tường là những cái giường hoặc trường kỷ, được
phủ vải, len, lụa, bọc lại từ máy dệt địa phương. Ban ngày các trường kỷ
để ngồi thả chân dài ra. Ban đêm, trường kỷ trở thành giường ngủ. Một
số đồ dùng rất tinh vi. A-mốt đã nói về những giường ngủ bằng ngà voi
(Am 6:4)
Một lò than lớn bằng đồng ở giữa phòng cho cảm giác ấm áp và thân
thương đối với gia đình. Bàn ăn của người bình dân là chiếc thảm cây
liễu gai, nhưng đối với người giàu là cái mâm bằng đồng được mang vào
phòng và đặt trên một cái bệ chạm trổ. Những tấm thảm và khăn nhiều màu
được phủ lên sàn nhà của người giàu.
ĐÈN
Ánh sáng được cung cấp bởi một cây đèn dầu ô-liu bằng đất sét đặt trên một cái bệ "thì nó soi sáng mọi người ở trong nhà"
(Mat 5:15). Người Palestine sợ và ghét bóng tối, vì ban đêm là giờ nguy
hiểm do những kẻ trộm cắp, những người láng giềng thù nghịch, và kẻ
thù. Chỉ những người xấu mới thích bóng tối (Gi 3:20). Do đó, đèn rất
quí đối với gia đình.
Loại đèn rẻ nhất nhỏ hơn cái dĩa để tách, tim đèn được đặt nơi cuối
môi đèn. Khi người Hi-lạp xâm chiếm xứ Palestine, họ giới thiệu một loại
đèn tinh vi hơn. Loại đèn nầy kín phần trên và có một cái lỗ nơi tim
đèn lú ra, một cái môi đèn phía bên kia để đổ dầu vào. Phía trên đèn
thường được khắc những kiểu hoa lá tinh vi. Thỉnh thoảng thêm vào tay
cầm. Sở thích và tài khéo léo làm ra những cái đèn có hình dạng trang
trí khác nhau. Những cây đèn của Sa-lô-môn dùng cho đền thờ là bằng vàng
(I Vua 7:49).
Đèn cháy suốt đêm ngay cả trong những gia đình nghèo nhất. Người phụ
nữ tài đức (Châm. 31:18) không bao giờ để đèn bị tắt. Khi dầu đã cạn,
đèn sẽ tỏa ra một mùi không tốt và khói. Điều đó báo hiệu cần được châm
vào. Nếu tim đèn đã mòn cũ, người nội trợ sẽ tắt lửa và cho vào một tim
mới. Tim đèn thường được làm bằng vải hoặc sợi len se lại. Tim đèn nầy
được đặt vào dĩa dầu.
Thời Cựu Ước không dùng chơn đèn. Tuy nhiên, trong thời Chúa Giê-su,
chơn đèn rất thông dụng. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy nhiều chơn đèn. Một
số chơn đèn làm bằng đồng, cao từ 4 đến 5 tấc. Chắc chắn người nghèo có
loại chơn đèn rẻ tiền. Nếu gia đình không thể cố gắng có được một chơn
đèn, đèn được đặt trong một hốc tường, hoặc một cái đấu được lật úp lại.
Nếu gia đình có một cái bàn, cũng có thể dùng để đèn lên đó.
Trong Bản Kinh-Thánh King James đã dùng từ ngữ "giá đỡ". Từ ngữ giá
đỡ được dùng vì là cách dùng chung vào lúc đó ở Nước Anh. Thật sự, lối
sống thời Kinh-Thánh không biết gì về giá đỡ. Dịch từ ngữ đó theo nghĩa
đen là một cây đèn, hoặc đuốc, hoặc nến.
NHÀ QUÁN
Vì những luật lệ hiếu khách nghiêm khắc giữa người Hi-bá, các nhà
quán không cần thiết. Áp-ra-ham và các tổ phụ ý thức những khó khăn và
nguy hiểm về việc du hành như vậy, nên họ coi việc tiếp khách là một bổn
phận thánh để dành cho du khách một chỗ trú ẩn trong nhà của họ. Các du
khách nương nhờ vào lòng hiếu khách của người bản xứ cho họ trọ qua
đêm. Nếu gia đình có một phòng cao, nó sẽ dành cho khách.
Câu chuyện đầu tiên đề cập đến nhà quán là trong câu chuyện các con
trai của Gia-cốp sau khi gặp Giô-sép ở Ai-Cập trở về (Sáng. 42:27). Chỗ
trọ nầy là ở Ai-Cập. Những Nhà quán xứ Palestine có lẽ được lập lên
nhiều sau nầy, như có ám chỉ một chút trong Cựu Ước.
Bất cứ nhà quán nào cũng được đặt gần những nơi có nước và có lẽ là
những vùng đất đóng trại. Người ta cần được cung cấp thức ăn, dụng cụ
nấu ăn và những nhu cần khác cho việc ngủ và sinh hoạt. Tại những địa
điểm quan trọng các đoàn lạc đà du hành, những nhà quán nầy đôi khi sửa
soạn cẩn thận hơn. Ở đó, du khách có thể mua thức ăn và những nhu cần.
Nhà quán có thể chỉ là một phòng yên tĩnh rộng nơi các ông và gia súc cùng được đón tiếp.
Bầu da: Bình (Mat 9:17)
"Cũng không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ; nếu làm vậy thì bầu nứt, rượu chảy ra, và bầu phải hư."
Người phương Đông lấy da dê (nguyên con) sau khi đã mổ bụng lấy hết
thịt, xương thì họ may lại thật kỷ, cột túm các phần ở chân, cắt bỏ đầu
và may kín phần cổ lại chỉ chừa một lổ nhỏ để làm miệng bầu và có làm
nút để đậy lại. Bầu khi đã may xong được treo lên để xông khói nhiều
ngày cho da săn lại, không còn bị hôi thối - hư rửa thì sau đó mới đem
ra dùng để đựng nước hoặc rượu.
Bình da mới rất săn chắc nên khi dùng để đựng rượu mới thì rượu mới
sẽ lên men và nở thể tích thì bình mới cũng nở theo được; còn những bình
cũ thì với thời gian đã mất hết tính bền dai vì đã nở nhiều, nên khi
dùng đựng rượu mới thì khi rượu lên men nở thể tích mà bình cũ thì không
nở được nên sẽ làm nứt hư đi bình cũ đó.
Chúa Giê-su phán về điều này ngụ ý muốn dạy rằng những khuôn khổ,
luật pháp cũ của thời Cựu ước không thể thích hợp, không áp dụng cho
thời Tân ước được; vì khi áp dụng như vậy sẽ làm hư chương trình cứu rỗi
của Chúa. Vì nhân loại chỉ nhờ vào Ân điển của Ngài để hưởng ơn cứu rỗi
chứ không phải là nhờ vào luật pháp nữa.
Kinh-Thánh tham khảo: Gióp 32:19.
Bình Bát: (Nhã 2:3b)
"Như cây bình bát ở giữa những cây rừng" Là một loại cây ở phương Đông mà cây trông giống như cây táo, trái có vị ngọt chua như trái cam. Cây có tàng rộng, mát; lá nó có tuyến tỏa hương thơm. Có công dụng bổ sức. Cây được mô tả hình ảnh về Chúa, và trái là lời của Ngài có công dụng bổ lại sức lực cho người theo Ngài.
Kinh-Thánh tham khảo: Thi 119:50.
Bình Một Dược: (Nhã 1:13)
"Lương nhơn tôi giống như bó hoa một dược cho tôi, nằm ở giữa nương lòng tôi"
Người phụ nữ Đông Phương ngày xưa có người trang sức bằng một sợi dây chuyền trên cổ, dây dài và thòng xuống trước ngực. Mặt dây là một cái lọ nhỏ bằng vàng hoặc bạc, được chạm trổ rất đẹp; bên trong lọ có đựng hương liệu một dược và trên nắp lọ có những lỗ nhỏ để hương thơm xông lên. Mùi hương này giúp cho người mang lọ tránh được những cơn gió độc, bịnh cảm gió v.v... Và cả những người lân cận cũng hưởng được mùi hương và công dụng của nó nữa. Vì một dược là một hương liệu có công dụng chữa bịnh, thường được các lái buôn làm hàng hóa để bán, trao đổi.
Cây một dược có nhiều ở phía Đông Ấn độ bên Arabi, là một loại cây cằn cỗi có vỏ màu xám nhạt. Người ta rạch trên thân cây thì cây tiết ra từng giọt như nước mắt, để đặc lại thì có màu nâu, vàng đậm, rất dễ vỡ; đem nghiền ra thành bột để dùng lâu được, một dược có vị đắng nhưng hương rất thơm. Được dùng làm hương liệu, thuốc trị bịnh.
Hình ảnh này dạy về Cơ-Đốc nhân để Chúa ở tâm khảm mình, cho Ngài làm chủ ngai lòng, sự sống mình; người ấy sẽ đắc thắng tội lỗi, bịnh tật và người này cũng sẽ giúp đỡ cho những người khác được như vậy. Đây là một đời sống tỏa hương thơm sự sống cho Chúa.
Kinh-Thánh tham khảo: Sáng 37:25; 43:11; Thi 45:8; Châm 7:17; Nhã 3:16; 4:14; Xu 30:23; Mác 15:23.
Ché Đá: (Gi 2:6)
" Vả, tại đó có sáu cái ché đá"
Những ché đá đựng nước thường chứa được một dung tích từ 100 đến 120 lít nước, ché nước này được dùng cho việc tẩy rửa của người Do-Thái:
- Dùng để rửa chân trước khi bước vào nhà, vì đường sá tại Palestine không được trãi nhựa mà dép là một miếng đế được cột bằng giây dính vào chân; khi gặp nắng ráo thì chân sẽ bị dính đầy bụi, còn lúc mưa lại bị bám đầy bùn nên cần phải có nước để rửa.
- Dùng để rửa tay, người Do-Thái rất nghiêm nhặt việc phải rửa tay trước khi dùng bữa và giữa các món ăn; cách rửa tay cũng phải đúng theo qui định như sau: trước tiên thì bàn tay được đưa lên rồi đổ nước cho chảy xuống tới cổ tay thì chúc bàn tay xuống để cho ước từ cổ tay chảy xuống đến các đầu ngón tay, tay này được rửa sạch rồi mới rửa tay kia; sau đó thì phải lấy mu bàn tay này chà xát lòng bàn tay kia.
Cối Đá: (Mat 18:6)
"Song, nếu ai làm cho một đứa trong những đứa nhỏ
này đã tin ta sa vào tội lỗi, thì thà buộc cối đá vào cổ, mà quăng nó
xuống đáy biển còn hơn(*)."
(*)Trong nguyên văn là: quăng tít ngoài khơi.
Chữ cối đá đây là chữ mulos onikos, chỉ về một loại cối lớn, nặng phải dùng đến sức kéo của một con lừa mới kéo được.
Người Do-Thái rất sợ chết ở trong biển, hoặc chết chìm; với họ đó là biểu hiện của sự hủy diệt hoàn toàn. Khi một thầy dạy đạo Do-Thái muốn nói là người ngoại và dân ngoại sẽ bị hủy diệt hoàn toàn thì ông ta sẽ nói là: "Họ sẽ bị quăng xuống biển". Điều này nói lên tính cách khủng khiếp của án phạt, của sự hư mất đối với những kẻ phạm tội và sẽ bị trừng phạt.
Như vậy, khi nói là làm cho một đứa trẻ phải sa vào tội lỗi là muốn nói rằng đã làm cho nó phải chết một cách thật nặng nề, không thể cứu vãn.
Đèn Đeo Chân: (Thi 119:105)
"Lời Chúa là ngọn đèn cho chơn tôi, ánh sáng cho đường lối tôi"
Hình ảnh về một loại đèn dùng để đi vào buổi tối, nó được nằm liền trên phần trước của đôi giày; bên trong có hộc nhỏ chứa được ít dầu và có tim đèn nhô lên bên trên.
Hình ảnh Lời Chúa như ngọn đèn soi sáng đường cho chân bước đi trong đêm tối, là để dạy dỗ Cơ-Đốc nhân rằng phải nhờ Lời Chúa dẫn dắt, soi sáng cho mình trong cuộc sống để có thể bước đi, sống động trong những ngày ở trên đất một cách đẹp lòng Chúa và hưởng được phước của Ngài.
Nền Nhà: (Mat 7:24)
"Vậy, kẻ nào nghe và làm theo lời Ta phán đây, thì giống như một người khôn ngoan cất nhà mình trên hòn đá"
Xứ Palestine thì phần lớn là núi đồi, có nhiều đá lớn; nên việc làm nền nhà dễ gặp những khó khăn, tốn kém. Nhưng nếu một căn nhà được làm xong rồi trên nền đá thì rất vững chắc. Còn nhà làm trên nền cát thì khi có mưa to, nước chảy nhiều - mạnh thì sẽ làm trôi cát và làm cho căn nhà không còn nền vững chắc sẽ rất dễ bị sụp đổ, hư hại.
Do đó, khi người ta muốn làm nhà, xây nền thì phải tính toán trước chi phí để không rơi vào tình trạng thực hiện nền nhà nhưng rồi không hoàn tất được vì thiếu kinh phí giữa chừng sẽ bị chê cười, nhạo báng. Trong trường hợp nền nhà, hoặc nhà xây cất bị dở dang vì thiếu tiền; rồi về sau có người khác dựng tiếp lên là điều rất khiếm nhã, không nên làm.
Dân bổn xứ Ca-na-an lại có tục là chôn sống một người ở dưới một nền nhà khi chuẩn bị dựng nền và làm một căn nhà mới; họ cho rằng làm như vậy để người đó sẽ phù hộ, giữ nhà dùm cho người chủ.
Kinh-Thánh bổ sung: Lu 14:28-29; Rô 15:20; I Cô 3:10.
Thùng: (Mat 5:15)
"Cũng không ai thắp đèn mà để dưới cái thùng, song người ta để trên chơn đèn, thì nó soi sáng mọi người ở trong nhà"
Đây là loại thùng được dùng để đựng bột, có dung tích vào khoảng 10 lít; thùng này được làm bằng gổ. Khi ta lấy chiếc thùng này chụp lên một chiếc đèn dầu của người Do-Thái, là một loại đèn thường vỏ được làm bằng đất nung, nó có vòi dài và ngọn lửa nằm ở đầu vòi nên lửa sẽ gần sát với vách thùng. Trong trường hợp này dễ có một trong hai sự việc sẽ xảy ra:
- Vì thùng không đủ lớn nên không đủ không khí cho ngọn đèn, do đó lửa của đèn sẽ bị tắt.
- Hoặc vì thùng không đủ lớn, rộng nên khi ngọn lửa gần vách gổ sẽ làm cháy thùng.
Điều này mang sự dạy dỗ thuộc linh như sau:
- Đời sống Cơ-Đốc nhân nếu để cho thế gian bao phủ thì sự sống đó sẽ mất đi đức tin (tắt lửa) và bị thế gian đồng hoá trong tối tăm.
- Đời sống Cơ-Đốc nhân mạnh mẽ, thì dù ở trong thế gian vẫn đắc thắng và chinh phục thế gian cho Chúa; làm cho ánh sáng của Chúa càng sáng rực hơn (thùng bị cháy bùng lên).