Nghe dụ ngôn
Lại một lần nữa kinh ngạc
Mt 13: 31-33.44-46
Tác giả: Paul Ricoeur
Người dịch: Lưu Hồng Khanh
Lời nói đầu của người dịch:
![]() |
MsTs Lưu Hồng Khanh |
Bài viết này là bài giảng của Paul Ricoeur tại nguyện đường Rockefeller thuộc đại học Chicago, được đăng tải dưới tựa đề "Listening to the Parables: Once More Astonished" trong tạp chí Criterion, số 13 (1974), 18-22, rồi trong tạp chí Christianity and Crisis, số 34 (1975), 304-308, sau đó lại được đăng lại trong tuyển tập "The Philosophy of Paul Ricoeur. An Anthology of his Work" do C.Reagan - D.Stewart xuất bản (Boston, 1978, 239-245). Bài này sau đó lại đã được đăng tải bằng tiếng Pháp dưới tựa đề "À l'écoute des Paraboles: Une fois de plus étonnés" trong tác phẩm Paul Ricoeur: L'herméneutique biblique (Paris, 2010, 256-265), do Francois-Xavier Amherdt chuyển ngữ và giới thiệu. Chúng tôi phiên dịch từ bản tiếng Pháp này.
Chủ đề về dụ ngôn đã được Paul Ricoeur phần nào nói đến trong bài "Nước Trời trong dụ ngôn của Ðức Giêxu" (x.Trang mạng "Chia Sẻ Niềm Tin", đăng ngày 22.03.2012). Lần này, trong bài "Nghe dụ ngôn - Lại một lần nữa kinh ngạc", Paul Ricoeur bàn sâu rộng thêm, cùng với nhiếu suy nghĩ mang tính lý thuyết về dụ ngôn và các hình thức biểu tượng khác trong khung nghiên cứu Thông diễn học Kinh thánh (Biblical Hermeneutics).
Một số các tiểu đề một phần đã có trong nguyên bản tiếng Anh và một phần do chúng tôi đưa ra, cùng với một số các tham chiếu trong Kinh thánh.
![]() |
Paul Ricoeur0 |
oooOooo
Rao giảng dụ ngôn ngày nay: một thách thức.
Ngày nay rao giảng về dụ ngôn của Ðức Giêxu quả là một thất bại đã được dự báo! Chúng ta đã không từng nghe những câu chuyện đó trong các trường chủ nhật? Không phải đó là những câu chuyện trẻ con không xứng đáng cho những kỳ vọng tri thức khoa học của chùng ta, cách riêng trong một nguyện đường đại học như của chúng ta ở đây, bây giờ? Những hoàn cảnh chúng gợi lên không phải là những cảnh tiêu biểu cho cuộc sống thôn dã mà nền văn minh hiện đại của chúng ta không còn cho ta biết nó là gì nữa? Và những biểu tượng mà ngày xưa đã từng đánh thức, lay động trí tưởng tưởng của dân chúng bình dân, thì ngày nay chúng chỉ còn là những hình ảnh chết khô, chết khô như cái chân ghế mình ngồi. Và còn hơn thế nữa, cái sự xói mòn các hình ảnh của một xã hội nông nghiệp thời xa xưa không phải là cái chứng cứ hùng hồn nhất cho cái sự xói mòn các biểu tượng Kitô-giáo trong nền văn hóa hiện đại của chúng ta ngày nay?
Ngày nay rao giảng về dụ ngôn của Ðức Giêxu - hay đúng hơn rao giảng các dụ ngôn - quả thật là một thách thức, một sự đánh cuộc. Thách thức, đánh cuộc rằng, mặc dầu mọi luận cứ phản ngược, vẫn còn luôn có thể nghe các dụ ngôn của Ðức Giêxu một cách làm cho ta một lần nữa kinh ngạc, bị đánh động, được đổi mới, và được chuyển mình ra hành động. Và chính cái thách thức, cái sự đánh cuộc này làm cho tôi thử tìm cách rao giảng các dụ ngôn, chứ không phải là nghiên cứu một cách hàn lâm bác học, giống như khi phân tích nghiên cứu những bản văn nào khác.
Dụ ngôn: những truyện kể triệt để phàm tục.
Ðiều đầu tiên có thể đánh động chúng ta là, dụ ngôn là những truyện kể triệt để phàm tục. Trong đó không có thần có thánh, không thiên sứ không quỷ dữ, không phép lạ, không thời gian trước khi có thời gian như trong các tích truyện tạo dựng trời đất, cũng không có những biến cố làm nền tảng cho lịch sử dân tộc như trong câu chuyện xuất hành vượt qua biển Ðỏ của dân Do-thái thời xưa. Không có gì như thế, nhưng chỉ là những con người như chúng ta: những chủ nông ở đất Pha-lệ-tinh lên đường đi xa xứ và cho thuê trồng cấy đất đai vườn tược để lại, những quản gia và những nông dân lao động, những người gieo giống và những người thuyền chài đánh cá, những người cha và những người con. Tóm lại, đó là những con người bình thường làm những công việc bình thường: mua và bán, dăng lưới đánh cá và những công việc tương tự. Và đây là cái nghịch lý đầu tiên: một đàng - giống như câu nói của một nhà phê bình - đó là những câu truyện bình thường, nhưng đàng khác lại nói Nước Trời là như thế. Ðiều khác thường như là điều bình thường.
Có một số lời của Ðức Giêxu nói về Nước Trời - nhất là trong những châm ngôn về thế mạt - và dường như những lời nói đó ám chỉ về một cái gì hoàn toàn khác, về một cái gì thuộc thế giới bên kia, khác hẳn cái lịch sử sinh sống của chúng ta như trời và đất khác nhau vậy. Do đó, điều đầu tiên có thể làm ta ngạc nhiên là, chính lúc chúng ta đang chuẩn bị để nghe một ngôn ngữ của huyền thoại, ngôn ngữ của linh thiêng, ngôn ngữ của mầu nhiệm, thì ta lại nghe được ngôn ngữ của cuộc sống chúng ta, ngôn ngữ của đời thường, ngôn ngữ của bản kịch mở rộng.
Và chính cái tương phản giữa cái loại sự vật được nói đến - là Nước Trời - và loại sự vật đem ra so sánh - cuộc sống đời thường - có thể thúc đẩy ta tìm hiểu. Không phải là con người tôn giáo trong ta, không phải là con người thánh thiêng trong ta, nhưng chính là con người đời thường của ta, con người phàm thế của ta được kêu hỏi, được chất vấn.
Dụ ngôn: cái gì làm nên ý nghĩa?
Ðiều kế tiếp - sau cái bất ngờ kích động này - là câu tự vấn, vậy thì cái gì là cái làm nên ý nghĩa trong các dụ ngôn. Nếu đúng thật - như việc giải kinh hiện đại cho thấy - rằng, Nước Trời không phải so sánh với người mà…, với người đàn bà mà…, với nhúm men mà…, nhưng là với sự việc được diễn ra trong câu truyện, thì chúng ta phải nghiệm xét cặn kẽ hơn chính cái câu truyện này, để nhận diện được cái gì có thể là mô biểu (paradigmatique) trong câu truyện. Chính ở đây, chúng ta gặp cái nguy cơ bị chi phối bởi những yếu tố xã hội học mà tôi gợi lên lúc ban đầu, khi tôi nói về những hoàn cảnh được diễn tả trong các dụ ngôn là những hoàn cảnh sinh hoạt và sinh sống ở thôn dã. Cái làm nên ý nghĩa, không phải là những hoàn cảnh tự nó, nhưng - như một nhà giải kinh gần đây đã trình bày - là cái cấu trúc, cái kết cấu (intrigue) của câu truyện. Cái kết cấu ba bước: Biến cố - hoán cải - quyết định.
Biến cố - Hoán cải - Quyết định:
Nếu ta làm theo gợi ý vừa rồi, ta sẽ tức khắc nhìn đến những điểm gay cấn, những bước ngoặt định đoạt trong các mẩu truyện ngắn đó. Và chúng ta thấy gì? Ta hãy một lần nữa đọc lại câu truyện ngắn nhất và cô đọng nhất trong các dụ ngôn: Matthêu 13:44, dụ ngôn kho báu. Có ba điểm gay cấn rõ ràng nổi bật lên: tìm được kho báu, bán tất cả những gì mình có, mua thửa ruộng. Quá trình ba bước này cũng thấy được trong Matthêu 13:45-46, dụ ngôn viên ngọc quý: tìm được viên ngọc quý, bán tất cả những gì mình có, mua viên ngọc; và Matthêu 13:47-48, dụ ngôn chiếc lưới: lưới đầy người ta kéo lên bãi, nhặt cá tốt cho vào giỏ, cá xấu thì vứt ra ngoài.
Nếu bây giờ ta thử để cho ba điểm gay cấn đó phô diễn ra trong trí tưởng tượng, trong cảm xúc, trong suy tư của chúng ta, chúng sẽ bắt đầu cho thấy những ý nghĩa sâu, lớn, rộng hơn là những sinh hoạt bên ngoài mang tính thực tiễn, nghề nghiệp, kinh tế, thương mại kể trong câu truyện. Tìm được một vật gì… lời diễn tả này bao hàm mọi thứ gặp gỡ làm cho cuộc sống của chúng ta khác với một sự tích trử do tài năng hay bạo lực, do việc làm hay gian manh: gặp những con người, gặp cái chết, gặp những hoàn cảnh bi ai, gặp những biến cố phước hạnh, khám phá ra một người, khám phá ra chính mình chúng ta, khám phá ra thế giới, nhìn nhận ra những con người mà chúng ta không hề để ý, những con người mà chúng ta không biết rõ, những con người mà chúng ta chẳng mảy may biết gì. Nếu ta gom lại tất cả những thứ khám phá đó, chẳng phải dụ ngôn chỉ ra cho ta một thứ tương quan nền tảng nào đó với thời gian? Một hình thức hiện hữu nền tảng nào đó trong thời gian? Tôi muốn nói cái hình thức đáng được gọi là biến cố đặc biệt. Một cái gì đó xẩy ra. Ta hãy chuẩn bị mình cho cái mới của cái gi mới. Có như thế, ta mới có thể "khám phá".
Nhưng cái nghệ thuật của dụ ngôn là nối liền cách biện chứng tác động khám phá với hai điểm gay cấn kia. Người tìm được kho báu / bán tất cả những gì mình có / mua thửa ruộng: hai điểm gay cấn mới mà chúng ta có thể gọi - theo diễn tả của một nhà giải kinh hiện đại, người này lấy được cảm hứng từ Heidegger - là hoán cải và quyết định. Tác động quyết định không được liệt vào hàng thứ hai. Trước khi quyết định: là hoán cải. Tất cả những ai đã từng đọc các thư văn tôn giáo ngoài Kinh thánh, và cả những thư văn không tôn giáo, đều biết được năng lực nào được tích lũy trong chữ "hoán cải". Từ "hoán cải" này mang nhiều ý nghĩa hơn chỉ là một sự lựa chọn mới, nhưng là hàm chứa một sự thay đổi hướng nhìn, một sự đảo ngược thị kiến, trí tưởng, con tim, trước cả mọi hình thức như ý tốt, quyết định tốt, hành động tốt. Hành động là tác động kết thúc phát xuất từ biến cố và hoán cải. Thoạt đấu là gặp biến cố, rồi đảo ngược con tim, và cuối cùng là hành động với tất cả sức lực hòa nhịp với thị kiến mới.
Dĩ nhiên không phải tất cả mọi dụ ngôn đều được xây dựng một cách máy móc theo cùng một khuôn mẫu. Nếu là như thế, chúng sẽ làm mất đi cái năng lực gây bất ngờ, kinh ngạc. Nhưng mỗi dụ ngôn khai triển và, nói được là, thiết kế lên điểm này hay điểm nọ trong ba điểm gay cấn nói trên.
Ta hãy nghiệm xem những dụ ngôn về tăng trưởng trong Matthêu 13:31-33. Sự tăng trưởng bất ngờ này của hạt cải, sự tăng trưởng vượt quá mọi kích thước này làm ta lưu ý như trong việc khám phá. Sự tăng trưởng tự nhiên của hạt cải và kích thước bất thường của sự tăng trưởng nói lên cái gì đó xẩy đến cho chúng ta, chiếm đoạt chúng ta, phủ choàng lên chúng ta, vượt quá sự kiểm soát và sự tự chủ của chúng ta, vượt quá ý chí và hoạch định của chúng ta. Một lần nữa, biến cố xẩy đến như một tặng phẩm, một sự ban-cho.
Một số dụ ngôn khác có khuynh hướng nhấn mạnh sự hoán cải. Như trường hợp người con hoang đàng (Luca 15:11-24) thay đổi cái nhìn của mình trên sự vật, anh ta quay mắt, đảo ngược cái nhìn; còn người cha thì chờ đợi, hy vọng, đón nhận; và biến cố gặp gỡ được nẩy sinh từ sự kết hợp giữa thay đồi cái nhìn của người con và chờ đợi nhân hậu của người cha.
Trong một số dụ ngôn khác, điểm nhấn là sự quyết định, là việc làm, là hành động tốt, như trong dụ ngôn người Samari nhân lành (Luca 10:29-37). Nhưng thu hẹp vào cái điểm gay cấn chìa khóa cuối cùng này, dụ ngôn xem như không gì khác hơn là một chuyện ngụ ngôn luân lý, một lời kêu gọi "hãy làm như thế". Giản lược vào một giới răn luân lý như vậy, câu truyện sẽ không còn là một dụ ngôn của Nước Trời, nhưng là một ngụ ngôn bác ái, dạy đời. Ta phải đặt nó lại trong khung các dụ ngôn của biến cố, của hoán cải và cúa quyết định, nếu ngụ ngôn luân lý dạy đời muốn được coi là một dụ ngôn.
Dụ ngôn Nước Trời: Nước Trời là gì?
Như thế, sau khi đã đi bước thứ hai, trong đó ta nhìn thấy được cái cấu trúc kịch thuật, cái vận chuyển của kết cấu (intrigue) câu truyện làm nên ý nghĩa, nay ta sẵn sàng cho một khám phá mới, cho một kinh ngạc mới. Nếu ta hỏi: "Mà cuối cùng, Nước Trời là gì?", thì ta sẽ tự chuẩn bị cho câu trả lời sau đây: Tin mừng không nói gì về Nước Trời, nhưng chỉ nói nó giống như là… Tin mừng không nói nó là gì, nhưng chỉ nói nó giống cái gì. Ðiều đó khó hiểu. Bởi tất cả mọi thực hành khoa học của chúng ta đều hướng tới việc dùng hình ảnh chỉ như là những phương tiện tạm thời và rồi thay thế hình ảnh bằng những khái niệm. Còn ở đây, chúng ta lại được mời gọi đi theo một con đường khác. Và suy tư theo một lối tư duy bằng ẩn dụ - không phải vì lý do hùng biện - nhưng là để nói lên điều phải nói. Ở đây, chỉ có thuật ngữ tương tự mới đưa ta đến gần những điều hoàn toàn thực tế.
Nhưng không phải chỉ có Tin mừng mới xử dụng loại văn này. Những nơi khác [như trong Kinh thánh cựu ước, thí dụ Ôsê 2:4-25], chúng ta nghe ngôn sứ Ôsê nói về Ðức Chúa Giavê như là hôn phu, về Israen như là hôn thê của các thần tượng, được gọi là các tình nhân. Không một bản dịch nào trong một ngôn ngữ trừu tượng được đưa ra, nhưng ở đây chỉ có sự tàn bạo của một ngôn ngữ - từ đầu đến cuối - suy tư qua ẩn dụ (métaphore) và không bao giờ rời ẩn dụ. Cái năng lực của ngôn ngữ ẩn dụ này là nó cầm mình cho đến tận cùng hoàn toàn trong sự căng thẳng được hinh ảnh tạo ra.
Nếu ta chấp nhận giả thuyết này, thì cái thất vọng của chúng ta - cái thất vọng mà một tư duy khoa học cảm nhận khi nó không cách nào rút ra được một ý tưởng mạch lạc, một khái niệm đơn nghĩa (univoque) trong cái tổ hợp các ẩn dụ này - cái thất vọng của chúng ta lại có thể trở thành một kinh ngạc lớn. Bởi bây giờ ta có được nhiều hơn trong các dụ ngôn nghiệm xét chung với nhau, nhiều hơn bất cứ một hệ thống khái niệm nào về Ðức Chúa Trời và về hành động của Ngài giữa chúng ta. Có nhiều hơn trong suy tư qua sự giàu có của hình ảnh hơn là qua sự mạch lạc của một khái niệm đơn thuần. Ðiều xác nhận cảm tưởng này là ta có thể rút ra từ các dụ ngôn hầu như tất cả mọi thứ thần học đã chia rẽ Hội thánh qua nhiều thế kỷ nay.
Nếu bạn tách riêng cái dụ ngôn về đồng bạc bị đánh mất (Lc 15:8-10), nếu bạn bẻ gãy cái động lực của diễn thuật và rút ra từ đó một khái niệm cứng nhắc, thì bạn có được loại giáo thuyết về tiền định được hệ phái Calvin khắc nghiệt chủ trương. Nhưng nếu bạn lấy cái dụ ngôn người con hoang đàng (Lc 15:11-24) và rút ra từ trong đó cái khái niệm cứng nhắc về sự hoán cải cá nhân, thì bạn có được một giáo thuyết thần học về ý chí hoàn toàn tự do của con người, như trong giáo thuyết của các tu sĩ dòng Tên chống lại giáo thuyết của hệ phái Calvin, hay giáo thuyết của hệ phái Tin lành khoáng đạt chống lại với hệ phái Tin lành chính thống.
Bởi vậy, không thể quả quyết rằng dụ ngôn không nói gì trực tiếp đến Nước Trời. Chúng ta phải diễn tả bằng những từ tích cực hơn rằng, các dụ ngôn trong tổng thể của chúng nói nhiều hơn bất cứ một thứ thần học duy lý nào. Chính khi các dụ ngôn đòi một giải thích thần học, thì là lúc chúng bắt đầu phá hủy những giản lược thần học mà chúng ta muốn đưa ra thay thế chúng.
Cái thách thức này đối với nền thần học duy lý không đâu rõ ràng hơn là trong dụ ngôn hạt giống tốt bị chết ngộp bởi cỏ lùng được gieo vào giữa ruộng lúa mì; các gia nhân của chủ trại đến thưa với chủ: "Thưa ông, không phải ông đã gieo giống tốt trong ruộng ông sao? Thế thì cỏ lùng ở đâu mà ra vậy?" (Mt 13:27). Ðó cũng là câu hỏi của triết gia, khi triết gia tranh luận lý thuyết về vấn đề sự ác, giống như người ta thường nói. Nhưng câu trả lời độc nhất mà ta nhận được cũng lại là ẩn dụ: "Kẻ thù làm đó". Và như thế, các bạn có thể đi đến đủ thứ thần học phù hợp với câu trả lời này. Bởi có nhiều suy nghĩ trong câu trả lời bằng ẩn dụ hơn là trong bất cứ một thứ lý thuyết nào.
Ðịnh hướng lại vì mất hướng.
Hãy cho phép tôi đề nghị thêm một bước, một bước mà tôi hy vọng sẽ làm tăng thêm sự kinh ngạc của chúng ta, sự sửng sốt của chúng ta. Nhiều người có lẽ sẽ nói: "Ðược, chúng tôi không có khó khăn gì khi phải từ bỏ mọi thứ thần học". Nhưng, nếu mọi thứ thần học là sai lầm, thì ta sẽ xem các ẩn dụ như là một giáo huấn hoàn toàn thực tiễn, như là một giáo huấn luân lý dạy đời, hoặc nữa là một giáo huấn xã hội chính trị. Nếu các ẩn dụ không phải là những mảnh thần học tín lý, thì ta xem chúng như là những phân tố của thần học thực hành. Ý kiến thứ hai này nghe ngon tai hơn ý kiến thứ nhất. Không phải đã từng có nói, nghe là để rồi đem ra thực hành? Ðiều này dĩ nhiên đúng. Nhưng, đưa dụ ngôn ra thực hành, điều ấy có nghĩa gì?
Tôi e rằng, một ý định quá nhiệt tâm rút ra từ các ẩn dụ một áp dụng tức thời cho đạo đức cá nhân hay cho luân lý chính trị lại sẽ chỉ làm thêm hỏng chuyện. Chúng ta có thể tức khắc nghĩ rằng, một sự nhiệt tâm không kiềm chế như thế sẽ biến đổi ẩn dụ thành những lời khuyên thô thiển, thành những giới răn vô vị. Và như thế, chúng ta lại giết chúng đích thị bằng những thực đơn luân lý tầm thường còn hơn là bằng những khái niệm thần học siêu việt.
Dĩ nhiên, ẩn dụ có điều dạy dỗ, nhưng chúng không dạy một cách bình thường. Quả thật có một cái gì trong ẩn dụ mà cho đến bây giờ ta chưa nói hết, và điều này ẩn dụ cùng có chung như trong châm ngôn được Ðức Giêxu dùng, như trong các Tin mừng nhất lãm (ba Phúc âm đối chiếu: Mt+Mc+Lc). Ðiều này có phần dễ nhận diện hơn trong châm ngôn. Ðó là thuật văn nghịch lý, hay quá thuyết, trong những ngạn ngữ hay những công thức đối ngẫu, như "Ai muốn cứu mạng sống mình, thì bị mất; còn ai liều mất mạng sống mình […], thì sẽ được lại" (Mt 16:25). Giống như một nhà chú giải đã nói, nghịch lý trong sự đảo ngược định mệnh sắc bén đến nỗi nó cướp dật đi những toan tính xây dựng một kế hoạch đời sống liên tục từ hoàn cảnh này đến hoàn cảnh khác. Dự án xây dựng cuộc sống thành một toàn bộ bị đánh dập bẻ gãy. Bởi ai có thể lên phương án thiết kế cho tương lai trên phương châm "phải mất đi, để được lại"?
Tuy nhiên, đó không phải là những lời nói của sự khôn ngoan châm biếm hay hoài nghi. Và cho dầu tất cả gì gì đi nữa, sự sống được bảo đảm bởi chính con đường xéo nghịch lý này. Cũng cùng phải nói một điều như thế với lời nhắn nhủ quá thuyết như "Hãy yêu thương kẻ thù, hãy làm điều lành cho những ai hờn ghét các ngươi" (Mt 5:43-48). Giống như nghịch lý, quá thuyết có mục đích kéo dật người nghe ra khỏi dự án xây dựng đời mình trên một con đường thẳng mạch. Nhưng đang khi tính hài hước hoặc lòng từ bỏ có khuynh hướng đưa ta hoàn toàn ra khỏi thực tại, thì ngược lại quá thuyết lại đưa ta trở về giữa cung lòng của hiện hữu. Cái thách thức đánh thẳng vào sự khôn ngoan quy ước thì đồng thời cũng là một cách sống. Chúng ta trước tiên bị mất hướng để rồi lại được định hướng.
Ðó không phải cũng là điều xảy ra cho nghịch lý? Cách thức giáo huấn của chúng có khác gì chăng mô hình "định hướng lại, bởi sự mất hướng"? Chúng ta chưa ý thức đủ về các nghịch lý và quá thuyết trong các truyện thuật ngắn ngủi nói trên. Trong phần lớn các thuật văn đó, có một yếu tố dị thường lay động chúng ta và làm ta lưu ý.
Ta hãy nghiệm xem cái dị thường của ông gia chủ trong dụ ngôn những tá điền sát nhân, sau khi lần lượt sai các đầy tớ, ông lại sai chính con trai mình đến gặp họ (Mt 21:33-45). Có gia chủ Pha-lệ-tinh nào sống xa xứ đã nổi điên để hành động như ông gia chủ nói ở đây? Hoặc phải nói thế nào về ông chủ nhà trong dụ ngôn đám tiệc đã gửi gia nhân ra mời đón những người ngoài đường vào bàn tiệc thay thế cho những khách mời đã không đến dự (Mt 22:1-10)? Chúng ta sẽ không cho đó là dị thường? Và trong dụ ngôn đứa con hoang đàng: người cha đã không đi quá xa mọi biên giới xử sự bằng cách tiếp nhận lại đứa con phung phí của mình (Lc 15:11-24)? Có doanh nhân nào trả công cho người làm thuê vào giờ thứ mười một cũng cùng một số tiền lương như cho các thợ vào giờ thứ nhất (Mt 20:1-16)?
Dụ ngôn về sự tăng trưởng nghe cũng không êm tai hơn (Mt 13:31-33). Ở đây là sự nghịch lý của châm ngôn. Có hạt giống tí teo nào lại có thể trở thành một đại thụ đến nỗi chim trời có thể đến làm tổ? Sự tương phản cũng không thua kém trong dụ ngôn men bột. Giống như dụ ngôn người gieo giống, dụ ngôn men trong bột được thiết kế cũng trên một tương phản như thế. Nếu nó diễn tả sự sung mãn của thời thế mạt, là bởi hoa trái của hạt giống trong câu truyện vượt hẳn quá mọi thực tại.
Những dụ ngôn nghịch lý và dị thường nhất - trong tương quan với thực tại - là những dụ ngôn mà tác giả Joachim Jeremias đã sắp xếp lại dưới các tiêu đề "Sự cấp bách của tai ương" và "Có lẽ đã quá trễ rồi". Lược đồ "Cơ hội chỉ một lần xuất hiện, rồi sau đó sẽ quá trễ" bao hàm tính bi kịch của điều mà trong kinh nghiệm hằng ngày chúng ta thường gọi là "nắm lấy cơ hội", nhưng tính bi kịch này vừa là nghịch lý vừa là ngoa ngữ: nghịch lý bởi nó ngược lại với kinh nghiệm thực tiễn trong đó luôn có một cơ may khác, và ngoa ngữ bởi nó phóng đại kinh nghiệm về tính độc nhất của các quyết định quan trọng trong cuộc sống.
Có trong đám cưới thôn dã nào mà người ta đóng cửa trước mặt đám trinh nữ đưa dâu vô tư về tương lai (vì không mang theo dầu đèn trong đêm tối) [vả dầu sao họ cũng vô tư như hoa huệ ngoài đồng nội] (Mt 25:1-13)? Người ta gọi đó là những "dụ ngôn của khủng hoảng". Thật vậy rồi, nhưng giờ phút thử thách và sự "lựa chọn quyết định" đã được biểu thị bởi cơn khủng hoảng trong trình thuật làm tăng cường sự ngạc nhiên, sự vấp phạm, và đôi khi khêu dậy sự phản đối như khi điểm thúc kết là "không thể tránh khỏi".
Kết luận:
Ta hãy rút ra kết luận hầu như được xuất hiện từ chiến thuật diễn ngôn bất ngờ mà Ðức Giêxu xử dụng khi Ngài trình bày các dụ ngôn cho môn đồ và dân chúng. Nghe dụ ngôn của Ðức Giêxu, đối với tôi, là để cho trí tưởng tượng của mình mở rộng trước những khả năng mới được diễn bày ra bởi sự dị thường của những tấn kịch ngắn đó. Nếu ta xem dụ ngôn như lời nói cho trí tưởng tượng hơn là cho ý chí, thì chúng ta sẽ không bị cám dỗ giản lược chúng trở thành chỉ là những lời khuyên răn mang tính giáo dục sư phạm, trở thành những ngụ ngôn dạy đời. Chúng ta sẽ để cho năng lực thi văn của chúng diễn bày chính mình chúng ra trong chúng ta.
Nhưng sự tranh luận mang tính thi văn này không phải đã xảy ra khi ta đọc dụ ngôn về viên ngọc quý và dụ ngôn về biến cố, hoán cải và quyết định? Quyết định - như chúng ta đã nói - quyết định luân lý đến vào hàng thứ ba.Trước đó là hoán cải. Nhưng biến cố là bước mở đường. Năng lực thi văn của dụ ngôn là năng lực của biến cố. Thi văn có nghĩa nhiều hơn là câu thơ trong nghĩa một loại hình văn học. Thi văn có nghĩa là sáng tạo[*]. Và chính giữa lòng trí tưởng tượng của chúng ta mà chúng ta để cho biến cố xuất hiện, trước cả khi chúng ta có thể hoán cải con tim và chỉnh sửa lại ý chí.
Và như thế, ta hãy lắng nghe dụ ngôn của Ðức Giêxu (Mt 13: 31-32, 45-46):
(31) Và Ngài trình bày cho họ nghe một dụ ngôn khác: "Nước Trời cũng giống như chuyện hạt cải người nọ lấy gieo trong ruộng mình.
(32) Tuy nó là loại nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống, nhưng khi lớn lên, thì lại là thứ lớn nhất; nó trở thành cây, đến nỗi chim trời tới làm tổ trên cành được".
(45) "Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp.
(46) Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy".
(Bản dịch: Nhóm GKPV, TP HCM 1998).