
Ngày
nay có nhiều thiền sư nỗi
tiếng cũng chủ
quan như thiền sư Suzuki.
Họ dám viết những điều mà họ chưa
thật sự từng trải. Vì trọng sự
chân thật, tôi thấy cần ghi ra một số nét khác nhau rất cơ bản về thiền Phật Giáo và sự cầu nguyện của
tín hữu Cơ -đốc Giáo. Bản thân tôi đã tu
thiền và cũng đang là một cơ
đốc nhân; tôi thấy Thiền Phật Giáo và Sự Cầu Nguyện của người tin Chúa rất khác nhau
cả phương pháp, mục đích và kết quả.
I. Thiền Định:
A. Mục đích:
1. Tu Thân và tâm, tìm an lạc giải thoát.
2. Diệt trừ nghiệp và phiền não.
3. Chữa một số bịnh tật trong thân thể.
4. Tìm kiếm sự giác ngộ để biết quá khứ hiện tại
và tương lai của mình và của vạn vật.
5. Đạt đến sự giác ngộ chân không diệu hữu (vô ngã): thành Phật, đạt chân không niết bàn.
B. Cách thực hiện:
1. Bước
đầu là tập ngồi, tập thở đều đặn và đếm hơi thở để định tâm.
2. Cá nhân hành đạo, đặt niềm tin vào chính
mình, tự lực đạt đến sự giác ngộ rốt
ráo.
3. Buộc thân thể phải tuân theo kỷ
luật như giữ giới, ngồi yên một chỗ thật đúng cách, đúng giờ và kéo dài hàng giờ hay cả buổi.
4. Buộc
tâm trí không loạn động, không cho phép tư dục kích động, không để tạp ý lôi kéo ra ngoài sự tĩnh tâm.
C. Những trở ngại thường gặp:
1.
Trẻ con không chịu ngồi thiền. Tuổi cao,
sức khỏe thiếu: khó ngồi lâu vì dễ bị tê
chân, dễ sinh bực bội.
2.
Trong khi ngồi thiền, ý
tưởng miên man khó tập trung. Ra
khỏi thiền định,
khó giữ giới, nhưng không ý thức
được vấn nạn nầy, vì ít ai muốn biết
mình không giữ được giới.
3.
Người tu thiền là
người cố gắng tự chủ, nhưng càng cố
gắng tự chủ thì càng dễ bị xáo trộn, hoặc dễ bị rơi
vào tình trạng tự lừa dối
mình hết sức tinh vi. Càng tỏ ra diệt
dục vọng, càng bị khiển bởi dục
vọng. Càng cố gắng xả bỏ càng dễ gây mâu thuẫn với mục đích xả bỏ.
4.
Khi đã ngồi quen thì
dễ ngủ quên trong “tham
thiền nhập định,“ gọi
là bịnh thùy miên. Bịnh nầy chữa được bịnh mất ngủ khá công hiệu.
5.
Hoàn cảnh gần như người nhà nói chuyện, tiếng
muỗi bay vo ve, tiếng còi xe ngoài đường, v.v. cũng gây trở ngại khiến
cho người ngồi thiền khó định
tâm; đôi lúc vì thế mà càng thêm phiền não.
6.
Những người đau yếu, tuổi quá cao không
thể ngồi thiền.
7.
Bị ràng buộc bởi công tác hay việc làm
ăn sinh sống.
D. Kết quả:
Sau
một thời gian chuyên tâm thiền định,
có thể đạt đến thói quen ngồi
lâu nhưng ít tê
chân, không mỏi mệt. Cũng có khi sự tê chân xẩy ra toàn diện
đến nỗi thiền giả
không còn biết đôi chân của mình
ở đâu. Sau
khi thiền, phải xoa bóp thật nhiều mới lấy
lại cảm giác bình thường, lúc đó
tâm hồn thư thái; thiền
giả tưởng rằng mình đã tự vứt bỏ
được những phiền não, nhưng
tiếp theo sau trạng thái vui vẻ
(an lạc) tạm thời
ấy, thiền giả thường móng tâm kiêu ngạo,
tự mãn và trở lại phiền bực như trước. Cũng có người tạo
được bản lĩnh tự chủ nhất thời.
Dễ
bị ảo giác như thấy
ma quỷ khiến
thiền giả hoảng hốt, lo
sợ, loạn trí; có khi lơ
là với ngoại cảnh kể cả người thân, hoặc bị điên loạn có
thể dẫn đến tình trạng tự tử, v.v cũng khá phổ biến. Thường là
bị hoang tưởng, cho rằng
mình đã thành Phật, đã vào cõi niết
bàn. Tại Chùa Huỳnh Kim, Gò Vấp,
năm 1969, có một vị thiền sư
đang ngồi thiền,
bất ngờ đánh vỡ đầu người đệ tử của mình
bằng cái dùi mõ.
Nhưng vị thiền sư nầy
vẫn tin chắc là
mình đã giết một con quỷ. Giới đồng đạo, không ai có một
lý lẽ nào để kết án ông được. Trong sách
Phật Giáo Huyền Bí Tây Tạng có nói đến một vị
đạo sỹ đang thiền định bên bìa
rừng, bất ngờ đứng lên tóm
lấy một cô gái
đang đi qua để hiếp dâm. Vị đạo sỹ giải thích rằng trong khi ngồi thiền,
ông chứng quả thần thông
nên thấy một a-lai-gia thức (tạm gọi là một linh hồn người đã chết) sắp sửa đầu
thai vào bụng con trâu cái khi một đôi
trâu đang động dục. Bài học giáo lý
dạy rằng nhờ thông tuệ của bậc Bồ Tát hạnh, vị đạo sỹ ấy đã kịp thời
cưỡng dâm cô gái để tạo duyên cho linh hồn ấy đầu thai làm kiếp
người, khỏi bị đầu thai làm kiếp trâu. Năm 1966 ở Nha Trang
có một giáo sư toán, người Huế đã tự tử sau
một thời gian thiền định. Năm 1981, anh Ẩn, ở gần nhà
tôi đã tự tử sau một thời gian thiền định.
Sách
vở ghi
lại vô số vị tu hành đạt đạo nhờ thiền định
sau thế hệ Đức Thích Ca, nhưng
chưa có
một người nào chứng
tỏ rằng mình đã giác
ngộ như Đức Thích Ca. Vị Thiền Sư đã dạy cho tôi tu thiền
theo Kinh Pháp Hoa
tại Phú Nhuận 1973-1975, là một
người khôi ngô, khoảng 45-50 tuổi,
chuyên mặc bộ bà ba trắng, hút
thuốc số 555, tự nhận mình đã thành
chánh quả, hiệu là Phổ Quang Phật, nhưng ông có
4 vợ. Cuối năm 1974, ông
cưới thêm một bà thứ năm. Tôi
nghe một số
người nói rằng ông đã di
tản ra nước ngoài
trước ngày 30.4.1975, nhưng tôi
hoàn toàn mất liên lạc. Khi đang viết
bài nầy, tôi vào blog www.dangvannham.com
và được biết vị Phật Phổ Quang nầy
hiện là giáo chủ Thiên Long Hoa. Ông cưới
thêm vợ một bà vợ trẻ hơn con mình và đã phong chức Bố Tát cho
một trong những bà khác của ông tại
Hawaii-Hoa kỳ.
Nhiều
người trí thức đem thiền vào thi
ca, hội họa, âm nhạc, triết, v.v. mặc dầu họ chưa bao giờ chứng minh cụ thể rằng mình đã giác ngộ
thiền. Vì thế thiền là một lối tu hay là
một lối sống yên tĩnh của những người trí
thức, nghệ sỹ, dù trong số đó
có rất nhiều người chưa thật sự
tọa thiền, thậm chí chưa
hiểu thiền là gì.
Họ xem những thưởng ngoạn thiên
nhiên, chơi hoa cảnh, trà đạ là một phần
của pháp môn tu chứng, giải
thoát, giác ngộ như là đem “thiền“ vào đời sống. Đây là
nét mạo nhận về thiền định bàng bạc tro ng văn hóa Á Đông từ xưa đến
nay.
Trên
lý thuyết, Thiền được mô
tả như là một sự thức tỉnh, tự do, giải
thoát với cuộc sống bình an,
thanh tịnh khi con người giữ được sự nhiếp tâm liên tục đến nỗi đi, đứng, nằm
ngồi đều bất ly thiền định. Trên thực tế, một người đạt đến sự tự tin tuyệt
đối là không thể có. Ít ra người ấy cũng
có thể tin được rằng
mình không có khả năng làm cho mình trẻ
mãi, cũng như không biết bao giờ
mình chết hay là thành
Phật trước khi chết như Đức Thích
Ca. Vậy làm sao mà nói rằng mình
là chúa tể của mình? Ngày nay nhiều người
trí thức gián tiếp hoặc trực tiếp tự nhận mình có tinh thần thiền hay có lối
sống thiền. Tương tự như cách của thiền
sư Suzuki, tiến sỹ TKĐ
viết một bài báo nói
đến sự giác ngộ thấy được “tâm
con vi trùng“ (1) hoặc như thiền sư Nhất Hạnh viết về Đấng
Christ và Đức Thánh Linh để đồng hóa
với Đức
Phật, trong khi chính
ông là người không tin
Chúa (2), hơn nữa, nội dung Kinh
Thánh và giáo lý Phật Giáo cũng khác nhau
hoàn toàn.
Hàng
trăm năm sau nầy, tốc độ sống của nhân
loại càng gia tăng khủng khiếp, sự suy nghĩ của con người càng lệ thuộc nhiều
hơn vào những máy móc do họ tìm tòi chế tạo, khi ấy, ai đọc sách của thiền
sư Suzuki, tiến sỹ TKD,
thiền sư Nhất Hạnh
trong Luận Tạng,
không chừng người ta sẽ nghĩ rằng cả ba vị ấy đã thành Phật rồi.
Khác với
các sự kiện ấy, Thánh Kinh chỉ
ngắn gọn khuyên con dân Chúa rằng
“Hãy tỉnh thức, kẻo có ai lấy triết học và lời hư không, theo lời truyền
khẩu của loài người, sơ học của thế gian, không theo Đấng Christ, mà bắt anh em
phục chăng“ (Cô-lô-se 2:8). Thánh Kinh cũng đã xác nhận cụ thể rằng “Dầu bề
ngoài có vẻ khôn ngoan, là bởi thờ lạy theo ý riêng, cách khiêm nhượng và khắc
khổ thân thể mình; nhưng không ích chi để chống cự lòng dục của xác thịt”
(Cô-lô-se 2:23).
E. Một số môn phái thiền quen thuộc đối
với người Việt:
* Thiền Yoga Ấn-độ: Thiền giả kiên
trì tập luyện những tư
thế yoga lắc léo để giữ thân thể tham thiền theo các tư thế ấy rất lâu. Thiền Yoga
bắt đầu với những người trẻ
tuổi là thích hợp hơn cả. Có người cho
rằng thể dục
thư giản, tập dịch-cân-kinh, thái
cực quyền của người lớn
tuổi, hay tập một vài thế Yoga
cũng được cho là khởi đầu
thực hành thiền
định, nhưng đó hoàn toàn không
phải là thiền Yoga Ấn-độ.
* Thiền Thông Thiên Học: Là một trong những giáo phái thiền cũng
xuất phát từ Ấn Độ
vào đầu thế kỷ 17, truyền đến Việt Nam vào
cuối thế kỷ 19.
Trong thập niên 1990, tôi
gặp những thiền giả Thông-Thiên-Học ở Sài Gòn, Bình Dương, Thủ Đức, Nhà Bè. Họ cho tôi xem và nghe giáo lý
của Thiền Thông Thiên Học trong băng video. Tôi
bắt gặp nhiều câu Kinh Thánh trích
từ sách Khải Huyền nhưng
đã bị sửa lại cả văn mạch lẫn
nội dung để phù hợp với giáo lý của Thiền Thông Thiên Học.
* Thiền Tịnh Độ: Giữ giới và niệm
danh hiệu Phật A-Di-Đà để neo tâm vào thiền định.
Câu kinh nền tảng
của Thiền Tịnh Độ là “Niệm một câu Nam Mô A Di Đà Phật đủ tiêu tan
tám vạn bốn ngàn kiếp sinh tử trọng tội.“ Phật Giáo không dạy cụ thể về sự xé
lòng ăn năn tội, cũng không tin rằng có
một đấng thiêng liêng kết tội
hay tha tội cho con người. Phật Giáo không có giáo lý về sự tha tội. Người
phật tử làm lễ sám hối, tức là
đọc những bài kinh viết sẵn, đọc
thần chú diệt tội và lạy
Hồng Danh (108 vị Phật). Tâm hồn người làm lễ sám
hối không có sự ăn năn thống hối mà chỉ thuần
tuý là lễ nghi
tụng niệm. Thông thườ ng, thiền
giả Tịnh Độ Tông ngồi yên và niệm vài
chục chuỗi danh hiệu Phật là xong một
lần thiền; sau đó thiền giả
cảm thấy bình tịnh, thoải
mái. Một chuỗi dài nhất
là 108 hạt. Tâm niệm,
hoặc miệng niệm một câu, ngón tay lần qua
một hạt cho đến
khi hết chuỗi hạt.
Trong thực tế tâm hồn người
Việt Nam vẫn có niềm
tin chung chung rằng Trời phạt kẻ
ác, Trời thương kẻ lành.
Niềm tin “Ông Trời“ có tự
trong thâm tâm
nhân loại với nhiều
văn hóa, khác nhau trước khi nhiều tôn giáo xuất hiện.
* Thiền Mật Tông: Giữ giới,
ngồi thiền và niệm thần chú để neo tâm vào chỗ đại định.
*
Tụng kinh, đọc kinh, lần
tràng hạt của Phật Giáo và Công Giáo, Hồi
Giáo không phải là thiền
định, mặc dù sự đọc kinh giúp
người hành đạo tự neo tâm
vào một chỗ, tự an ủi tạm thời,
tự trấn an mình bằng cách lặp đi lặp lại nhiều lần những bài kinh viết sẵn.
*
Thiền Tông Trung Hoa rất chú trọng công
phu tọa thiền. Sách giáo lý Thiền viết rằng vị
tổ sư đầu tiên của Thiền Trung Hoa
là ngài Đạt Ma đến từ Ấn Độ. Ông là vị thiền tổ thứ 28 của
Thiền Phật Giáo Ấn Độ, đến Trung
Hoa vào năm 520
sau Công Nguyên và trở thành
vị tổ đầu tiên của
Thiền Trung Hoa. Chuyện kể rằng
ông đã ngồi thiền liên
tục 9 năm xây mặt vào trong vách đá (cửu niên diện bích) không ăn uống
gì cả mà vẫn sống! Người tu thiền tin điều nầy là
có thật. Thiền Tông Trung
Hoa truyền đến vị tổ thứ năm, là thiền
sư Hoằng Nhẫn (601 -674). Khi ngũ tổ Hoằng Nhẫn đã về già, xẩy ra một
cuộc tranh chấp quyền thừa kế y-bát
giữa hai khuynh hướng
khác nhau của hai đại để tử: Thần Tú (606 – 706) và Huệ Năng. Cuối cùng Hoằng Nhẫn phải lén
lút trao y bát cho Huệ Năng để tránh họa huynh đệ tương
tàn, nhưng sau đó Thiền Tông vẫn bị phân rẽ. Từ đời lục tổ Huệ Năng đến nay, không còn thêm vị
thiền tổ nào khác nữa, nhưng Thiền Tông vẫn phát triển
thành nhiều môn phái khác nhau
mang đặc tính văn hóa Trung Hoa rất phong phú.
* Thiền Pháp Luân Công
là một biến thể
đặc trưng của văn hóa Trung Hoa. Trung Hoa có nền văn hóa lâu đời.
Văn viết của Trung Hoa
có mối liên
hệ đặc biệt với Thánh
Kinh Cựu Ước, là quyển sách đã xuất hiện khoảng hai
ngàn năm tại Trung Đông trước khi
Đức Thích Ca ra đời tại Ấn
độ. Ngày
nay các nhà
nghiên cứu tìm thấy mối
liên hệ đáng ngạc nhiên trong
những chữ tượng hình và tượng ý xưa nhất
của văn viết
Trung Hoa với Thánh
Kinh (4). Nhưng Phật Giáo du
nhập vào Trung Hoa cũng rất sớm (trước công nguyên không bao
lâu), và thịnh hành từ đời
Đường (Thế kỷ thứ 6-7).
Cả hai ảnh hưởng của Thánh
Kinh và Phật Giáo đã làm cho nền văn hóa, triết học và luân lý Trung
Hoa thêm phong phú qua suốt sử lịch khổ
đau, áp bức, nghèo đói, hưng
thịnh và dần dần hình thành nếp sống tôn giáo, nghệ thuật, triết lý,
đạo lý Trung Hoa. Ví dụ Pháp
Luân Công mà nhiều người quen
gọi là Thiền Pháp Luân Công. Nhìn bên ngoài,
môn phái nầy rất giống với
Thiền Phật Giáo Trung Hoa, tuy họ không nhận mình là Phật Giáo.
* Dục thiền: Phái thiền
nầy cho phép người hành
đạo trực tiếp
va chạm với nhục dục để chiến thắng
nó. Nam nữ trần truồng, cùng nhau kích thích cảm giác
nhục dục lên tột độ nhưng cấm thỏa mãn. Khi sự ham
muốn nhục dục
lên cao thì tâm trí
thiền giả chỉ nhiếp quán vào đó mà không bị
xao lãng qua chuyện khác. Đây
là một cách định tâm xua tan phiền não. Tiếp đến, người hành đạo dùng
tâm lực và ý chí tiêu diệt sự thèm khát nhục dục
trong thân thể mình. Đây là cách đạt đến trạng thái định tâm, đồng thời rèn luyện khả năng
chiến thắng tình dục xác thịt
(lấy nhục dục trị nhục dục). Pháp môn thiền nầy ít được
phổ biến rộng rãi. Trước
1975, ở miền Nam Việt Nam cũng có
người tu theo phái thiền nầy. Lúc đó dư luận gọi
các tu sỹ nầy là “Đạo Rờ.“ Trong
thập niên 1980 tại thành phố Đà-Lạt có
một tăng đoàn nam và nữ tu theo pháp môn nầy, nhưng bị
chính quyền cộng sản Việt Nam bắt bỏ
tù và giải tán. Vấn đề nầy đã một thời xôn xao trên các báo chí cộng sản
tại Việt Nam.
Chú thích: Theo giáo lý
đạo Phật, thiền là pháp môn cao nhất giúp người tu
hành chóng giác ngộ. Lịch sử Phật Giáo ghi lại rằng
sau khi từ bỏ hoàng cung, thái tử Tất Đạt Đa học đạo và tu
theo pháp môn
Khổ Hạnh của năm anh em
Kiều Trần Như. Sau sáu năm tu khổ
hạnh, thái tử nhận thấy pháp môn nầy
sai lạc,
bèn rời bỏ. Khi ấy
thân thể thái
tử đã gầy yếu gần kiệt lực. Một cô
gái chăn dê tên là Tu-xà-đề tặng
thái tử một bát sữa dê. Nhờ bát
sữa dê, thái tử phục hồi sức khỏe và ngồi dưới
gốc cây bồ đề phát lời thề rằng “Nếu không tìm ra chân lý, ta thà
chết, chứ không rời bỏ chỗ nầy.“ Sau 49 ngày đêm tham thiền nhập định,
thái tử đã
thành Phật vào
lúc nửa đêm. Đêm
đó, ma vương hiện
hình cô gái
trần truồng để cám dỗ thái tử, nhưng
ma vương đã thất bại. Các loài thú
rừng biết thái tử vừa mới thành Phật,
chúng đem các thứ trái cây ngon
nhất dâng cho ông. Một con mãng xà có nhiều đầu cũng đến hầu ông. Rắn đã xòe
các đầu ra làm thành một cái tán che Đức
Phật từ phía sau lưng. Câu chuyện
lịch sử nầy đã gây cảm hứng trên nhiều thế hệ nghệ nhân. Hằng triệu bức tượng Phật
ngồi nhập định dưới mái che bởi
những đầu rắn hổ mang đã được
sáng tác và lưu hành qua nhiều
thế kỷ.
Giáo
lý Thiền dạy rằng người tu hành
phải từ bỏ bản ngã và diệt trừ cả ý
muốn thành Phật, thì sự tu hành
mới đạt đến chánh quả. Khi cái
tâm còn ham muốn thành Phật, tức là cái tâm còn tham dục, con chấp ngã
thì không thể thành Phật được. Nhưng theo
đại thừa Bát Nhã Tâm Kinh thì cái
gì đã gọi là rốt ráo tức là không rốt ráo; và không rốt
ráo mới là rốt ráo! Đó lý nghĩa cao siêu
của câu kinh tụng: “bất khả tư,
bất khả nghị, bất khả lượng, bất khả thuyết; hay nói gọn là
“bất khả tư nghị,“ hoặc nói theo
lời của một bài kinh
nhật tụng là “Đạo cảm thông không thể nghỉ bàn.“ )
II. Cầu nguyện:
A. Mục đích:
Cầu
nguyện là việc làm của Đức Tin có mục đích được
gặp Đức Chúa Trời. Được chiêm
ngưỡng vinh quang, lòng thương xót, hồng ân của Đức Chúa Trời. Được trình
dâng lên Chúa những nỗi niềm,
tình cảm, tâm linh, hoàn cảnh và nội tâm của mình.
Ăn
năn tội, cầu nguyện những nhu cầu của
mình và của người khác.
Được cởi mở
tấm lòng, mời Chúa ngự vào lòng để Ngài biến
hóa con người tầm thường
của mình trở nên đền thờ của Ngài, mặc lại bổn tính của Ngài vốn đã
bị thiếu hụt do tội lỗi
trong mỗi người.
B. Cách thực hiện:
Người cầu nguyện phải có đức
tin của
Chúa như Thánh Kinh dạy. Đức
Tin khiến người cầu nguyện ý thức rằng mình đang tương giao, đang thưa
chuyện, đang thờ phượng Đức Chúa Trời,
là Đấng tối thượng,
công bình, đầy ơn, giàu lòng
thương xót, là Cha thiêng
liêng của mình.
Không giới
hạn tuổi tác, trừ trẻ em
chưa biết nói,
không bắt buộc thân thể phải
ở vào một tư thế cố định
nào cả. Để thân thể thoải
mái như quỳ, đứng, ngồi, hay đang đi,
đang nằm, miễn là tâm hồn tự do, lòng khẩn nguyện hướng về Chúa.
Khi
tâm hồn không cố
gắng định tâm, nhưng chỉ hướng
về Chúa, thì tự nhiên được
sự yên tịnh dễ dàng, dù ngoại
cảnh có ồn ào cũng khó bị ảnh hưởng. Nhưng cũng có khi vì nhu cầu khẩn thiết, người cầu nguyện
tạm thời bỏ qua ăn uống (kiêng ăn) để
cầu nguyện.
Cần
theo đúng Lời Chúa Jesus Christ dạy về sự cầu nguyện trong Ma-thi-ơ 6:1-18.
C. Sự cầu nguyện không gặp những trở
ngại như ngồi thiền:
Không có sự
trở ngại nào trên thân thể hay tuổi tác, sức khoẻ, trình độ
tri thức khi cầu nguyện, nhưng phải
có Đức Tin của
Chúa. Ngay khi đau yếu
hay tuổi gi à, sự cầu nguyện đến với Chúa vẫn không gặp trở ngại.
Khi
một người đã phạm tội mà
chưa chịu ăn năn từ bỏ, chưa tiếp
nhận ơn tha tội của Chúa thì
rất khó cầu nguyện. Đây là sự trở ngại về tâm linh.
Tâm
hồn cầu nguyện với Chúa rất dể tập
trung, vì trong đức tin lúc nào cũng biết chắc có Chúa hiện diện.
D. Kết quả sự cầu nguyện với Đức Chúa
Trời:
1.
Kết quả của sự cầu nguyện hoàn toàn khác
với thiền định,
vì thiền định
là hành động không có đức tin,
tự mình loại bỏ phiền não của
mình, tự xem mình như không
có (vô ngã) nên nội tâm dễ
rơi vào trạng thái hư ảo, hoặc tự kỷ ám thị. Ngược
lại, người cầu nguyện với đức tin của Chúa là người biết chắc mình đang
cầu nguyện với Đức Chúa Trời, ý thức rõ ràng mình
đang cầu nguyện với Chúa
điều gì.
Sau mỗi lần cầu nguyện, tâm hồn người tin Chúa cảm nhận lòng tạ ơn
Chúa, an tịnh, tin cậy, bình
an, hy vọng. Người cầu nguyện
kinh nghiệm được sự nhậm lời của Chúa
nên thêm lòng tin quyết và kính sợ Chúa để tôn thờ Ngài cũng như yêu mến người lân
cận. Người cầu nguyện nhiều là
người có mối tương giao
mật thiết với Chúa, nên tâm tính anh ta khiêm
hòa, giản dị, mạnh mẽ và khó phạm tội, nhưng dễ thể hiện tình yêu thương và lòng tha
thứ.
2.
Người cầu nguyện chân thật với đức tin
là người có đời
sống tâm linh mạnh khỏe,
thoát khỏi những phiền phức trần thế dù đang sống giữa trần thế. Sự
cầu nguyện trong Chúa không đem lại địa
vị tôn giáo, hay địa
vị xã hội, nhưng được
một điều cao quý thiêng liêng nhất là
được thưa chuyện với
Đức Chúa Trời, mở hết tấm lòng mình
cho Ngài. Có thể nói rằng
con người chúng ta
không thể tỏ ra ngay thật với
nhau một cách tuyệt đối, nhưng
ngược lại, người cầu nguyện với Chúa là
người được bày tỏ sự ngay thật
với Ngài một cách sâu xa, trọn vẹn nhất.
Đây là một kinh nghiệm nội tâm khi
được sống trong Đức Thánh
Linh để tiếp xúc với Đấng
tối thượng, đầy ơn, yêu thương, giầu
lòng tha thứ.
3.
Tóm lại, cầu nguyện là hành động của đức tin.
Tâm linh con người được tiếp xúc
với Đức Chúa Trời chí ái
bằng năng lực Đức Thánh Linh. Trong cuộc tiếp xúc nầy, Đức Thánh Linh
tỏ bày tình yêu, nâng đỡ, che chở, khích lệ, lắng nghe để giúp con người
nói ra tất cả những gì anh ta cần nói.
Đó là những điều sâu kín nhất mà anh ta
không thể nói với ai được, và cũng không ai có thể
hiểu hết nỗi lòng
của anh ta như Đức
Chúa Trời vốn hiể u. Trong cuộc
tiếp xúc thiêng liêng nầy, anh ta thốt
lên những lời cảm tạ về sự ban cho, sự
nuôi nấng, sự dắt dẫn, sự bảo vệ, sự
quan phòng mầu nhiệm mà Đức Chúa
Trời đã dành cho riêng anh. Anh ta cũng
tỏ bày những tội lỗi sâu kín,
những vết thương lòng sâu sắc để được Ngài tha
thứ và được chữa lành. Dù anh ta
là người gian ác đến mấy, nhưng sau
khi đã thật sự cầu nguyện ăn năn
với Chúa, vẫn được tha thứ, được
tái sanh, được nhận sức sống mới.
Người cầu nguyện là người thật sự hạnh phúc, vì đã
được vào thế giới thiêng liêng của Chúa để giao cho Ngài mọi
sự, nhờ cậy Ngài mọi sự, tin cậy Ngài mọi sự. Từ thời Cựu Ước cho đến nay, các
thánh đồ, các đấng tiên tri, con dân Chúa đã cầu nguyện và đã được Chúa nhậm lời. Khi Chúa Jesus Christ giáng
thế làm người, Ngài cũng cầu
nguyện với Đức
Chúa Cha. Ngài dạy cho các
môn đồ
cầu nguyện. Trong thời Tân Ước,
bất cứ ai đã công khai
tuyên xưng đức tin trong Chúa Jesus Christ
đều có kinh nghiệm
cầu nguyện và có nhiều kết quả được
Chúa nhậm lời rất kỳ diệu.
Kinh Thánh ghi lại kết
quả của những gương
cầu nguyện như Môi-se, An-ne, Gióp, Ê-li, Ê-li-sê, Ha-ba-cúc, Giê-rê-mi,
Nê-hê-mi, Ê-sai, Đa-ni-ên, Vua Đa-vít, vợ
chồng thầy tế lễ Xa-cha-ri và
Ê-li-sa-bét, cụ già Si-mê-ôn,
chấp sự Ê-tiên, sứ đồ Phao-lô,
Giăng, Sa-chê, người thu thuế ăn năn, người mù, một thầy
đội, 120 môn đồ trên phòng cao, v.v.
E. Sự cầu nguyện không theo đúng Lời
Chúa không kết quả:
1.
Người cầu nguyện
chỉ tin Đức Chúa Trời
như một vị thần hộ mệnh, thần may mắn, và cũng sẵn sàng
tin bất cứ “vị
thần“ nào khác; hoặc cầu nguyện vì động cơ
ích kỷ, chỉ muốn cầu điều tốt cho riêng mình để được hơn người khác (Gia-cơ 4:3).
2.
Người cầu nguyện chỉ tin có
Chúa như cách ma quỷ tin
(Gia-cơ 2:19), chứ không thật sự có
Đức Tin theo lời dạy của Thánh
Kinh như sau đây:
-
Ngài là Đức Chúa Trời
tối thượng; ngoài
Ngài, không có đức chúa trời
nào khác.(Ê-sai 44:6; 45:5 -7, 14, 18-19).
-
Ngài ban Chúa Jesus Christ xuống trần
chịu chết trên thập tự giá để đền tội
cho nhân loại (Giăng
3: 14-16).
-
Ơn tha tội của Ngài là trọn vẹn đối
với tấm lòng ăn năn thống hối
(Rô-ma 6:10).
-
Ngài tái sinh con người bề trong, ban
Đức Thánh Linh cho người tin Ngài để soi sáng, chữa lành, an ủi,
thêm sức, dắt dẫn cuộc sống đắc thắng tội lỗi,
yêu mến mọi người, mang kết quả nước trời trên đất (Giăng
1:12-13, 2 Cô-rin-tô 5:17).
3.
Người cầu nguyện không có nhu cầu chính
đáng để cầu xin, hoặc chưa hết lòng
muốn được trình dâng nỗi
niềm sâu kín nhất
của mình lên cho Chúa, nhưng chỉ thực hiện
một lễ nghi tôn giáo (Ma-thi-ơ 15:6, Mác 7:6-8).
4.
Người cầu nguyện chỉ nói
những lời thuộc lòng với
bài bản quen thuộc trước đám
đông, nhưng không thật sự tỏ ra riêng tư kín nhiệm với Chúa (Ma-thi-ơ 6:7).
5.
Người cầu nguyện thiếu tương giao
mật thiết với Chúa trong cuộc sống thường nhật, chỉ khi đến “nhà thờ“ mới bắt chước làm theo người khác, hay khi có nhu cầu bất chợt mới nghĩ đến cầu nguyện
với Chúa. Đó là một biểu hiện không thật
sự sống với Đức Tin của Chúa.
6.
Người cầu nguyện còn dối lòng,
còn một loại tội lỗi kín dấu
nào đó chưa được
xưng ra, hoặc chưa khao khát từ bỏ; còn một tham vọng ích kỷ, bất chính đang giấu trong lòng,
hay là một nỗi oán hận chưa chịu
buông tha, một thói quen hay trách
móc người khác chưa thật sự được
đóng đinh vào thập tự giá với
Chúa (Gia-cơ 4: 2). Nên nhớ rằng
Đức Chúa Trời không bao giờ đòi
hỏi con người phải
thánh khiết tuyệt đối, vì
Ngài biết rõ bản chất con người vốn là bất toàn, vì
đã nhiễm tội lỗi,
nhưng Ngài đòi hỏi
con người có tấm lòng chân thành tiếp nhận Đức
Tin của Ngài, vì ngoài
Đức Chúa Trời, không có
một đấng nào cao cả thiêng liêng, hiểu thấu lòng người và xứng đáng để con người thờ phượng như Ngài.
7.
Người cầu nguyện ở giữa nơi đông đúc, bị cám dỗ
bởi ngoại cảnh một cách vô thức (Ma - thi-ơ 6:5); hay dùng lời cầu nguyện
để chỉ trích, dạy dỗ người khác
hơn là trình dân g cho Chúa một nan đề thật sự (Lu-ca
18:11).
III. Vài kinh nghiệm và ý kiến riêng
của người viết:
Ai
chưa từng đặt mình vào sự cầu nguyện một cách quen
thuộc cần xem lại chính mình
để xưng ra với Chúa những khờ dại, những thiếu
sót của mình; rằng lòng con lâu nay ít tìm kiếm Chúa. Tâm trí con chưa hiểu đủ về Ngài cũng như về chính
con. Con cảm thấy khó nói hết mọi điều trong đáy lòng mình. Lòng con còn những
u uất rối reng chưa được giải phóng, xin Chúa ban Thánh Linh Ngài vào
lòng con để con được sự soi sá ng, được
an tịnh, được dắt dẫn để
lòng con được mở ra cho Ngài. Xin Thánh
Linh cho con cảm nhận một cách
chắc chắn rằng Ngài đang ở với con ngay
bây giờ. Lời Chúa dạy rằng ai đến
với Ngài dù khờ khạo cũng không lầm lạc,
dù bao nhiêu tội lỗi
cũng được Ngài tha thứ; xin Chúa cho con cảm nghiệm dòng Huyết thánh của Chúa Jesus Christ chảy
vào tâm linh con như dòng suối
tha thứ mọi tội lỗi của con, chữa lành những vết thương trong tâm hồn và thân thể con để con
được kinh nghiệm
tình yêu thiên thượng
từ nơi Ngài. Xin Ngài nắm lấy con vì con không đủ sức nắm chặt
Ngài, cho con được buông mình
vào tay Ngài cách tự do như đứa
trẻ để con được chiêm ngưỡng, được thờ phượng Ngài ngay trong cõi lòng bé nhỏ của con đây. Cho con nhớ lại
biết bao điều oan khuất, lỗi lầm,
cố chấp, thù ghét, bất mãn trong
con và con xin Ngài đóng đinh các tội lỗi
ấy trên thập tự giá của Con Ngài.
Xin Chúa xóa bôi
những thương tổn do người khác
gây ra cho con mà lâu nay con chưa tha thứ cho họ được, Bây giờ con xin Chúa thể hiện sự tha thứ của Ngài
trong lòng con để con được giải phóng ra
khỏi sự cố chấp giận hờn, vì lâu nay con
khó tha thứ người khác. (Xin đừng học thuộc
lòng các lời gợi ý trên
để tránh tệ trạng đọc kinh, nhưng hãy tự xem xét lòng mình cần nói với Chúa điều chi ngay khi mình bắt đầu bước vào sự cầu nguyện).
Mỗi
lần cầu nguyện cần thưa với
Chúa những nhu cầu cụ thể, không phải
nói nhiều, không nói
miên man quanh quẩn mơ hồ. Nếu chưa
nói ra được thì im
lặng, thiết tha khẫn nguyện, tìm kiếm ý muốn
của Chúa. Không cần kéo dài hay lặp
đi lặp lại ý
đã cầu nguyện, nhưng lắng lòng
với ý thức rõ rệt; biết mình đang thưa
với Chúa điều gì.
Khi cầu nguyện xong, chỉ cần nghỉ
ngơi hay làm việc
với tâm tình tạ ơn, tin
cậy và chờ đợi xem kết quả công
việc Chúa làm trong đời sống thực tế nội tâm và
hoàn cảnh của mình. Nên đọc
Kinh Thánh thường xuyên, cần đem
Lời Chúa vào lòng để mỗi khi có
điều chi suy gẫm thì mình có ngay Lời Chúa để làm nền tảng, làm ngọn đèn
cho tâm linh. Luôn luôn ý thức rằng thân thể mình là đền thờ Chúa. Đức Thánh
Linh luôn ngự trong thân thể mình mặc dù có
khi mình quên Chúa, nhưng Chúa không bao giờ quên mình.
Ngay cả khi mình đang sơ ý hay cố
tình làm một điều tội
lỗi, một điều buồn lòng
Đức Thánh Linh,
mình phải biết
rằng không bao giờ mình che dấu
Chúa được, cần kịp thời
thưa với Chúa để được
Ngài giải cứu. Bản chất xác thịt
của mình vốn là tội lỗi, vì thế mình cần đến với Chúa để được
Chúa chăn dắt chứ không cần tự lên án mình và cũng không sợ mình bị ai lên án. Chúa biết hết những gì sâu kín nhất trong nội tâm chúng ta, dù lắm khi chúng ta không biết
hết về chính mình, nhưng Chúa chờ đợi
cho đến khi chúng ta thật sự cần
Ngài lắng nghe, cần Ngài soi
sáng, mở mắt, mở lòng; sau đó
Chúa sẽ cho chúng ta nhận biết về
mình như Ngài đã
biết chúng ta (1 Cô-rin-tô
13:9-12). Nếu chúng ta không còn nhớ đến Chúa nữa, Ngài vẫn có nhiều cách để cáo trách, nhắc nhở, cảnh tỉnh
chúng ta. Chúa là Đấng vui lòng ban
thưởng cho kẻ tìm kiếm Ngài (Hê- bơ-rơ-11:6; Giê-rê-mi
29:13). Chúa biết rằng nhân
loại (nói chung), con dân Ngài
(chung và riêng) vốn quen xa lìa Chúa,
hay lơ đểnh đối
với Chúa, nên
Ngài ban thử thách, cáo trách, trui rèn, nhắc nhở, thì chúng ta mới trở
lại con đường lành đem lòng tìm kiếm Ngài.
IV. Sự khác nhau bề trong và bề ngoài
giữa người cầu nguyện và người thiền định:
Người thiền
định sửa soạn từ bên ngoài vào
bên trong như ăn chay, giữ giới,
tập ngồi, tập đếm hơi thở, tập
trung ý tưởng để định tâm. Tuy nhiên, càng cố
gắng định tâm thì tâm càng dễ
bị phân tán; một con muỗi bay qua, một nốt ngứa trên da thịt cũng
làm cho người ngồi thiền bực bội.
Đó là điều mà
người cầu nguyện hoàn toàn không bị
ảnh hưởng, vì người cầu nguyện
làm công việc của Đức
Tin từ bên trong ra bên
ngoài. Đức Tin nhìn
biết Đức Chúa Trời
là Đấng Tối Thượng mà mình
đang được chuyện trò thân thiết. Dù mình
trình bày chưa đầy đủ, Ngài cũng
hiểu thấu và hiểu hết những ý
tưởng mình chưa kịp
nói ra. Cầu nguyện xong, người
cầu nguyện lấy Đức Tin chờ đợi
Chúa trả lời. Đức Tin và sự tỉnh thức làm cho người cầu nguyện định tâm dễ dàng và tự nhiên, dù bên ngoài có ồn ào đến mấy thì sự cầu nguyện vẫn thực hiện được. Bởi Đức
Tin mà con người biết chắc và kinh nghiệm sự hiện hữu của Chúa. Bởi đức tin
mà con người được
Chúa ban năng lực mầu nhiệm để được
thưa chuyện với Ngài, tiếp xúc
với Ngài là Đấng thiêng liêng, ban
phước, an ủi, khích lệ, soi sáng, dắt dẫn, chữa lành (Hê-bơ-rơ 4:12).
Sự hiện
hữu của Đức Chúa Trời không lệ
thuộc vào đức tin nơi con
người, nhưng nếu con người không có đức
tin thì
không thể đến với Ngài. Đức
Tin là một sự biết chắc vững vàng vô điều
kiện mà lý trí
không thể ngăn trở được. Dù chúng
ta có Đức Tin hay không có Đức Tin,
thì Đức Chúa Trời vẫn hiện hữu. Nhưng tấm lòng
vô tín không bao giờ
muốn nhìn biết Đức Chúa Trời
và không có bản tính thích
hợp để thiết lập sự giao
thông với Ngài. Trái lại, lòng mê tín không thể tin vào
Đức Chúa Trời nhưng lại tin các hình tượng vô tri, tin am miễu tà thần, hoặc tin vào những
sự bói toán, xin xăm rất mê muội.
Người thiền
định quán tưởng cái vốn có
là không có, cái không có thì
phải có. Họ tự lực
loại bỏ sự phiền toái
trong mình, cho rằng vạn vật
là không gì cả, kể cả cái
tôi của mình cũng không; nhưng thay vào sự quán tưởng về cái “không“ ấy, người tu thiền lại quán tưởng một vị
Phật hay một đóa sen trước mặt mình,
đồng thời cũng quán tưởng rằng
không có gì cao siêu, không có gì
thấp hèn, không có Phật, không
có giác ngộ, không có địa ngục, không có niết bàn (chơn không diệu
hữu). Sự quán tưởng nầy trái với những quan niệm sống thực tế, do đó
thiền giả khó tránh khỏi những mâu thuẫn nội tại
đưa đến tình trạng tự dối
lòng, bất cần, giả hình, loạn
trí, nửa điên nửa khùng, nửa mê nửa tỉnh mà ngôn ngữ thiền gọi
là tẩu hỏa nhập ma (bị lửa ma quỷ
làm tán loạn tâm trí). Nếu một người ngồi
thiền hời hợt cho vui thì khó
bị tầu hoả nhập ma, nhưng ngồi thiền như thế
cũng chẳng khác gì không ngồi
thiền. Các vị thiền sư không bị
tẩu hoả nhập ma, vì thực tế họ không có
thời gian ngồi thiền. Họ là thiền sư chứ không
phải thiền giả.
Họ nắm vững lý thuyết để dạy thiền sinh,
để viết sách, để điều khiển
cơ sở, tài chánh, để ban pháp thoại, đi đây
đó lãnh
đạo công việc thiền môn. Từ
xưa và đặc biệt là ngày nay, các
thiền sư nổi tiếng còn làm
cố vấn cho các vua quan và các
chế độ chính trị nữa.
Trái
lại, người cầu nguyện tin Chúa là Đấng Hằng Hữu, biết chắc mình đang hiện hữu trước mặt Ngài. Người cầu nguyện tiếp xúc với Ngài, chiêm ngưỡng, thờ phượng Ngài và
được tâm giao với
Ngài, mở cả cõi lòng
mình cho Ngài. Đây là
những giây phút cao quý nhất mà
tâm linh con người thật sự bước vào thế
giới thiêng liêng
với Đức Chúa Trời.
Sự hiện hữu của người cầu nguyện với Đấng hằng hữu vô lượng thật là mầu nhiệm,
chân thật và sâu nhiệm.
Phật Giáo cũng có
nghi thức cầu nguyện, nhưng giáo lý đạo Phật cho rằng Đức Phật không phải là
Đấng ban phước hay giáng họa; người tu hành phải
tự mình thắp đuốc lên mà đi, vì
thế, sự cầu nguyện của người Phật Giáo
là một nghi lễ
được tổ chức thêm như một phương tiện. Nghi lễ nầy hoàn toàn không xuất
phát từ niềm tin chắc chắn mà chỉ là để đáp ứng nhu cầu tâm lý tín ngưỡng. Tâm
trạng người Phật Tử lạy lục trước các ả nh tượng Phật, đồng thời họ cũng nhận
biết rằng các ảnh tượng ấy do thợ đục đẽo ra từ đất, đá, xi -măng, đồng, chì, gang, thiếc và họ mua về. Ngược lại,
người cầu nguyện với Chúa hoàn
toàn cảm nhận rằng Chúa là Đấng vô hình,
Ngài là Thần Linh và người cầu n guyện tương giao với Ngài bằng tâm thần thiêng liêng, được Đức
Thánh Linh vùa giúp.
Thông thường,
những người có tôn giáo
bề ngoài nhưng không có
đức tin bề trong thì đành phải mượn hình tượng vô tri, hình thức nghi lễ để tượng trưng, hoặc
làm vật trung gi an. Trái lại, người có đức tin
chắc chắn vào sự hiện diện thiêng
liêng của Đức Chúa Trời
như Kinh Thánh soi dẫn, thì không
thể chấp nhận bất cứ một dụng cụ vật
chất nào bên ngoài để thay thế, hay để
đại diện
sự thiêng liêng bề trong
được. Vì sao? Vì trong lòng người cầu nguyện với đức tin
luôn luôn có Đức
Thánh Linh thêm sức, soi
sáng, giục giã người cầu nguyện nói lên điều
đáng nói; không phải chỉ nói
với Chúa một chiều mà còn tha thiết lắng nghe thánh ý
của Ngài nữa. Khi người cầu
nguyện không thể nói hết điều cần nói,
Đức Thánh Linh giúp sức
than thở thay
cho người cầu nguyện như
kinh nghiệm cuộc sống đức tin của Sứ
Đồ Phao-lô (Rô-ma 8:26-27). Để được
Đức Thánh Linh hiện diện
trong một người tin Chúa, anh ta
phải xa lìa các hình tượng. Vì con người mang hình
ảnh thiêng liêng của Chúa nên không thể quỳ lạy trước các hình tượng vô
tri do tay mình
làm ra (Thi-thiên 115:4-8; Ê-sai
44:9- 20; Giê-rê-mi 10:3-5).
Tóm lại,
người tu thiền cố
gắng hết sức mình để đạt đến sự đại định,
nhưng càng cố gắng họ càng khó thành công.
Trong khi đó, tín hữu Cơ-đốc đem
lòng mình đến chuyện trò với Chúa để tâm hồn được an tịnh,
yên nghỉ, hưởng phước;
và tâm linh được nếm trải
mùi vị thiên đàng, là thiên đàng
của Chúa chứ không phải loại bình an tự kỷ
ám thị như người ngồi thiền
thường gọi là “nhất thiết duy tâm tạo”
nghĩa là thay thảy do tâm mình tạo ra.
V. Lòng
tin, niềm tin khác hẳn với Đức Tin:
Lòng tin, niềm tin hoàn toàn khác với Đức
Tin. Lòng tin hay niềm tin phát xuất từ con người. Con người thường
tin điều gì
mình thích, mình
muốn, hay mình hình dung được.
Lòng tin hay niềm tin con người
lệ thuộc vào tình cảm, lý trí, ý muốn, tri thức và cả truyền thống văn hóa, tôn
giáo cũng như trình
độ giáo dục. Mức
độ và đối tượng của lòng tin hay niềm
tin cũng thay đổi không ngừng
theo tình cảm, lý trí,
ý muốn và tri thức. Lòng
tin hay niềm tin luôn bị
lý trí, tri
thức và ý muốn gạn lọc, kiểm
soát một cách ý thức và vô thức. Không
ai không có lòng tin
hay niềm tin, kể cả người vô thần cũng là
người có lòng tin hay niềm
tin. Người vô thần tin rằng “không có thần linh" nào cả.
Nhìn khách
quan, tâm con người không vô
hạn, lòng tin hay niềm
tin trong tâm con người cũng
không vô hạn. Lòng tin
hay niềm tin chủ
quan của con
người không ảnh hưởng
đến chân lý hay thực tế khách
quan; ngược lại, nó bóp méo, vo tròn tô
mầu một cách chủ quan đối với chân lý
khách quan. Từ ngữ Hán Nho của Phật Giáo gọi lòng
tin là tín tâm, niềm
tin là tín niệm
và đặc biệt là tự tín.
Từ ngữ “đức tin“ không có trong
ngôn ngữ Phật Giáo Việt Nam, nhưng dần dần về sau nầy, một số luận sư
Phật học dùng từ ngữ “đức tin“ theo
nghĩa tương tự như “niềm
tin, lòng tin“.
Hoà Thượng Trí Quang trong tập
Đại Thừa Khởi Tín Luận cho rằng “khởi tín đưa ta lên tột đỉnh của sự tự
tín, xác quyết rằng chủ tể của ta chính là ta đây.“ (3) Phật
Giáo không tin có
Đấng Tạo Hóa toàn năng,
nhưng tin rằng khả năng con người là toàn năng và vô tận, con người có thể đạt thành chánh quả để nhìn biết vạn sự từ trước vô cùng đến sau vô tận. Cụm Hán từ “nhất thiết duy tâm tạo“
trong kinh điễn nhà Phật tiêu
biểu cho niềm tin
chủ quan nầy. Đức Thích Ca dạy rằng đừng vội
tin những gì do truyền thống, sách vở, giáo
lý, hoặc bài giảng
của bất cứ ai, dù người đó
là bậc đáng kính trọng,
nhưng hãy tin những gì
mà chính mình thấy đúng, thấy thật, thấy ích lợi cho mình, cho tha nhân, cho hiện tại và
tương lai (kinh Kalama). Ai nghiên
cứu Phật Giáo một cách khách quan, khi đọc Kinh Kalama cũng
dùng lời dạy của kinh nầy để đánh giá
lại giáo pháp của Đức Phật có
đúng hay không rồi mới tin. Nếu giáo lý
của Phật là chân lý tu yệt đối,
làm sao khả năng
hạn hẹp của
con người đánh giá
đúng? Phật dạy rằng giáo lý Phật chỉ
là phương tiện chứ không phải là
chân lý; ai đã thành Phật rồi thì
đương nhiên là vứt
bỏ phương tiện ấy đi. Khả
năng hiểu biết của
nhân loại từ xưa đến nay
vẫn kh ông tuyệt đối trọn vẹn thì
làm sao mà đánh giá đúng mức để đạt đến sự tự tin tuyệt đối và tự cho mình là chúa tể tối cao của mình như Khởi Tín Luận và Hoà Thượng Trí Quang? Thực tế là con người chịu lệ
thuộc rất nhiều vào sự sống khách
quan vốn đã được dựng nên; còn tệ hơn
nữa là con người không đủ khả năng làm điều
lành một
cách trọn vẹn như chính
mình muốn. (Rô - ma 7:19). Vì thế
con người cần Đấng tuyệt đối trọn vẹn và
đặt đức tin Đức Tin của Ngài.
Khác
với giáo lý
Phật Giáo vốn chỉ là phương
tiện, Kinh Th ánh là chân lý,
là sự mặc khải thành văn để chỉ dẫn Đức Tin của Đức
Chúa Trời cho nhân loại, vì
Đức Chúa Trời biết rõ
khả năng hiểu biết của loài người còn quá ít so với chân lý tuyệt đối vô
biên. Đức Chúa Trời mặc khải
Đức Tin của Ngài qua thiên nhiên,
qua Thánh Kinh, Luật Pháp và cuối
cùng là sự giáng thế của Đấng Christ. Dù lương tâm và trí tuệ
của con người không đủ để hiểu hết, nhưng đủ để tin. Thánh Kinh dạy
rằng chỉ có Một Đức
Chúa Trời là Đấng sáng tạo vũ trụ vạn vật, là Đấng Toàn
Năng, Toàn Tri, Toàn Tại. (Sáng Thế Ký 1, 2; Thi-thiên 139:1-18; Ê-sai 43,
44, 45). Chỉ có một Đấng Trung Bảo
giữa Đức
Chúa Trời và nhân loại, là Đức
Chúa Jesus Christ (1 Ti-mô-thê 2:5). Chỉ có một Đức
Thánh Linh ban vào lòng
người tin Chúa Jesus để cáo trách
tội lỗi,
để soi sáng, để tha thứ, chữa
lành, thánh hóa, dắt dẫn, thêm sức,
trang bị thuộc linh theo ý muốn
tốt lành và trọn
vẹn của Một Đức
Chúa Trời Ba Ngôi (1 Cô -rin-tô 12:4-11). Lời Chúa xác nhận ý
tưởng của Ngài là vô lượng cao siêu mà
loài người không thể hiểu thấu được
(Ê-sai 55:8-9), vì thế Ngài ban Đức
Tin để mỗi người có thể nhờ Đức
Tin mà giao thông với Ngài một cách thiêng liêng
và kín nhiệm. Đức Tin là
sự ban cho, là món quà Đức Chúa Trời
tặng riêng cho nhân loại. Nhưng nhân
loại có tự do tuyệt đối
để tiếp nh ận hay khước từ
Đức Tin của Chúa. Dĩ nhiên nhân loại
cũng đã được Ngài ban cho lý trí, lương tâm để ý thức trách nhiệm về thái
độ tự do
chọn lựa của mình.
Đức Tin của
Chúa được mặc khải trong Thánh Kinh,
vì thế bất cứ lòng
tin hay niềm tin nào không đúng với Thánh Kinh thì dứt khoát không phải là đức tin của Chúa. Khi
tiếp nhận Đức Tin của Chúa, tín hữu
tin theo Lời Chúa và sự dắt dẫn của
Đức Thánh Linh
ứng hiệp với Lời Chúa, chứ không thể tin theo ý
tưởng chủ quan của mình. Kinh Thánh là
sự mặc khải thành văn của Đức Chúa Trời, là ngọn đèn soi đường cho đời
sống của người có Đức Tin (Thi -thiên 119:9, 105).
VI. Sự
khác nhau rất nền tảng giữa giáo lý Phật Giáo và Thánh Kinh:
Đức Thích Ca
dạy rằng tất cả giáo
pháp của Ngài chỉ là ngón
tay chỉ mặt trăng
chứ k hông phải mặt trăng. Nghĩa
là tất cả giáo lý Phật Giáo chỉ là phương tiện tu chứng chứ không phải là chân
lý. Ai đã đạt đạo rồi thì vứt bỏ
nó đi, như người đã qua sông thì phải
vứt bỏ thuyền. Pháp môn
thiền định được
xem là pháp môn tu cao nhất của
Phật Gi áo. Thiền định được áp dụng nhiều
cách khác nhau trong hầu hết các tông phái Phật Giáo.
Nhưng tất cả các môn phái
thiền đều có một điểm
giống nhau, ấy là mỗi
người tự thắp đuốc lên mà đi,
mỗi người tu chứng cho riêng mình,
không tu dùm cho ai khác. Mục
tiêu rốt ráo của thiền định
là để đạt đến sự giác ngộ vô
ngã, tức là người tu thiền
không còn thấy mình hiện diện
nữa, bởi đó, cũng không còn ai
ngoài mình để đối
đãi nữa: “vô năng vô
sở” nghĩa là không chủ thể, không đối tượng (tuyệt đối không).
Trong lịch sử Phật Giáo, từ lý
thuyết đến thực tế, chưa có một
người nào đạt thành chánh quả như
Đức Thích Ca. Bởi thế, chưa
ai vứt bỏ được
giáo lý Phật Giáo,
và không ai có thể hiểu được
sự thành Phật của Đức Thích Ca là
như thế nào, vì chỉ có
bậc tu đã thành Phật rồi mới
thông hiểu Phật. Một chúng sanh chưa thành Phật thì không thể có
đại trí, đại
thần thông vi diệu như Phật
để hiểu Phật.
Theo giáo lý đạo Phật thì
tất cả chúng sanh (người cũng như hết
thảy mọi sinh
vật trong sáu loài luân hồi
như ngạ quỷ, súc sanh) đều có khả
năng thành Phật. "Phật là chúng sanh đã thành, chúng sanh là Phật sẽ
thành," đó là câu kinh nền tảng để hiểu giáo lý nầy.
Ngược
lại, Kinh Thánh dạy rằng Đức
Chúa Trời là Đấng Tự
Hữu Hằng Hữu, là Đấng sáng tạo vũ trụ vạn vật; nhân loại là loài thọ tạo
duy nhất được mang ảnh tượng của Đức Chúa Trời và có sự sống thiêng liêng vĩnh cửu. Sau khi
bị Sa-tan cám dỗ để sa vào tội
lỗi (Sáng thế ký 1:1-13), con
người bại hoại (Sáng thế ký
6:5,11-12). Con người kiêu ngạo (Sáng thế ký 11:3-4). Lòng
người gian ác xấu xa hơn mọi vật (Giê-rê-mi 17:9). Con người vốn biển lận, bội nghịch
(Giê-rê-mi 3:20). Lòng người là ngu dại,
suy đồi (Thi -thiên 14:1. 53:1). Tội lỗi trong
loài người càng ngày càng
gia tăng (Ma-thi-ơ 24:12). Nhưng con người là loài thiêng liêng, được
dựng nên giống ảnh tượng của
Đức Chúa Trời và được
Ngài ban cho sự khôn ngoan để
quản trị tất cả các loài khác (Sáng thế
ký 2:26-27). Đức
Chúa trời hứa ban Chúa Cứu Thế
xuống trần để cứu chuộc loài người ra khỏi tội lỗi (Ê-sai 9:5-6). Khi con người đem lòng ăn năn trở về tin nhận
Chúa Cứu Thế Jesus Christ thì nhận
được ơn tha tội, được trở lại địa
vị làm con Đức
Chúa Trời, được tái
sanh trong Đức Thánh Linh
(Giăng 1:12 -13), được cứu ra khỏi sự hư mất
đời đời (Giăng
3:16), được ra khỏi sự đoán phạt (Rô -ma 14:1), được nên thánh,
được đổi
mới và mặc lấy người mới (1Cô-rin-tô 5:17; Ê-phê-sô 4:24), được dùng thân thể mình để làm
đền thờ Đức Chúa Trời (1 Cô-rin-tô 3:16; 6:19), được sống với
Chúa vĩnh viễn trên thiên đàng sau khi qua đời (Khải-huyền 22:1-5).
Sự cầu
nguyện không chỉ thực hiện khi người tin
Chúa cần biệt riêng cầu nguyện với Ngài, nhưng
còn có thể thực hiện một cách tự nhiên trong cuộc sống qua mọi hoàn cảnh. Khi ăn,
ngủ, chuyện trò, đi lại, làm việc, lái xe, ở cơ
quan, ở nhà, trong rừng, trên biển
cả, lúc thanh bình hay giữa vòng chiến cuộc, v.v. người tin Chúa biết
rằng Chúa đang ở với mình và mình
có thể nói với
Chúa bất cứ điều gì mà
tâm hồn mình muốn nói. Đây là mối giao thông tuyệt vời trong cuộc sống đức tin của Cơ
Đốc Nhân với Đức
Chúa Trời thiêng liêng.
Bất cứ ai có Đức
Tin, có lòng
yêu kính Chúa, có Lời Chúa,
có kinh nghiệm hồng ân cứu rỗi của Chúa đều có thể sống trong sự hiện diện
của Ngài ở bất cứ hoàn cảnh nào, ở bất cứ
lúc nào trừ khi người ấy biết
mình đang cố tình
phạm tội. Dù cố tình
hay vô tình phạm tội,
người ấy cũng không trốn đi đâu
xa mắt Chúa được. Cho nên một tấm lòng yêu kính Chúa được Lời Chúa ghi
tạc vào, thì tấm lòng ấy sở đắc mối
tương thân với Chúa để tâm hồn
được an vui hoan lạc như tình Cha con
khắng khít mà thiền định không thể
có được. Khi hữu sự, chúng ta kêu
Trời ơi
và lập tức cầu nguyện, chứ không
ai kêu Phật ơi, và khi ấy thì không ai
có thể ngồi thiền.
VII. Chức
vụ cầu thay:
Như đã đề
cập phần trước, người phật tử có
nghi lễ cầu nguyện cho mình và cho người khác, nhưng rất chung chung,
không phát xuất từ niềm tin tuyệt đối. Trái lại, người tin Chúa xem sự cầu
nguyện là đỉnh cao nhất của đời sống làm
con Đức Chúa Trời. Chẳng nh ững cầu
nguyện cho mình mà còn nghĩa vụ thiêng
liêng cầu nguyện cho người khác.
Đó là
chức vụ cầu thay, như Môi-se cầu xin Chúa tha tội cho dân Y-sơ-ra-ên trong đồng vắng (Xuất Ê-díp- tô ký 5:22-23;
32:30-33), như Chúa Jesus Christ ngồi
bên hữu Đức Chúa Trời cầu thay cho con dân Ngài đang ở giữa thế
gian (Rô-ma 8:34).
Sự cầu thay
đòi hỏi người cầu nguyện quên mình và
đặt mình vào vị trí, vào cảnh huống của người mà mình đang cầu thay. Ví dụ cầu
nguyện cho một người mắc bịnh nan y, cầu nguyện cho một người đang
lâm vào hoàn cảnh tội lỗi, lạc
lầm, cầu nguyện cho dân tộc, cho
đồng hương, v.v. đều phải xem những nan đề của họ, vị thế của họ, bịnh tật của
họ, đau khổ của họ như là của chính
mình. Tâm thần
người cầu nguyện mang những nan đề ấy mà trình dâng cho Chúa, chứ không
chỉ nói suông bằng lời. Đây là sự cầu
nguyện cao nhất. Ví dụ cầu thay cho
một người đang sa vào
cạm bẫy
tội lỗi; người cầu nguyện xem tội lỗi
của anh ta đang phạm như là tội lỗi của chính mình và khao khát
một tấm lòng ăn năn từ bỏ tội lỗi mộ t cách thiết tha đến nỗi
sự ăn năn tha thiết nầy cảm động đến Đức
Thánh Linh, vì chỉ có Đức Thánh Linh cảm động thì người phạm tội ấy mới thật sự ăn năn từ bỏ để thoát khỏi vũng lầy tội lỗi. Nếu không
có năng lực Đức
Thánh Linh với tâm tình Chúa
Jesus Chri st thì không ai có thể thực hiện
sự cầu thay đúng nghĩa được. Vì thế Chúa Jesus Christ dạy: “Ngoài ta ra các ngươi không làm chi
được“ (Giăng 15:5-11). Còn
Sứ Đồ Phao-lô nói “Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban
thêm sức cho tôi“ (Phi-líp 4:13).
Tôi đang ở Đông Berlin, nơi mà con dân nước Việt
đang sa vào nhiều thứ tội lỗi khủng khiếp, nhưng trong cảnh trạng nầy có một số người ăn năn trở về tin nhận Chúa. Sau khi gặp được tình
yêu kỳ diệu của Chúa, họ nhớ đến người thân ở quê nhà. Thay vì tiếp tục phạm tội để kiếm tiền gởi về nuôi
thân nhân, họ đã cầu nguyện cho thân nhân của họ. Họ xin Chúa cảm động người thân của họ ở quê nhà đặt lòng ưu tiên
tìm biết Chúa trước và tìm vật
chất sau như Lời Chúa dạy
trong Ma-thơ-ơ 6:31-34. Chúa đã nhậm lời cầu nguyện của họ. Những thân nhân
của họ gặp người Tin Lành đến
làm chứng và kêu gọi họ tuyên xưng đức tin của Chúa Jesus Christ tại quê nhà.
Chức vụ cầu thay là
rất quan trọng
và rất phước hạnh.
Bản thân tôi sau
khi rời khỏi quê hương
vì sự bắt bớ đức tin. Phải
xa người cha trên 80 tuổi mới tiếp
nhận Đúc Tin của Chúa, tôi chỉ biết cầu nguyện cho ba tôi ở quê nhà. Những ngày cuối cùng của tuổi
già, ba tôi yếu và lẫn. Ba tôi
đau khổ bởi những đứa con không
tin Chúa đã bắt bớ đức tin
của chúng tôi. Họ đánh đập và làm
nhục tôi trước mặt ba tôi để dằn mặt ông cụ. Họ tách rời
ba tôi khỏi sự chăm sóc của tôi để ba tôi
bỏ Chúa. Nhưng khi ba tôi bị lẫn, miệng luôn luôn nhắc đến Chúa và
hỏi thăm về tôi. Có khi
ba tôi vui mừng nghĩ rằng tôi
sẽ về thăm ông cụ. Trong sự vui
mừng nầy, ba tôi đã trút hơi thở cuối
cùng rất bình an. Khi phải rời bỏ quê hương và xa cách cha già, tôi chỉ biết cầu nguyện với Chúa. Ngài đã làm cho ba tôi cảm thấy gần tôi, đứa con cùng có Đức
Tin trong Chúa như ông, và khiến ông vui mừng nhắc nhở về tôi
cho đến k hi nhắm mắt. Tất cả anh
chị em ruột thịt của tôi đều phải công nhận rằng hoàn cảnh họ gây ra đã bắt
buộc tôi xa ba tôi, nhưng
Chúa không để cho ba tôi xa tôi cho đến khi thân thể
ông cụ trút hơi thở cuối cùng để
linh hồn được về với Chúa. Tôi
còn nhiều bằn g chứng của kết quả cầu thay, nhưng bài viết
nầy đã quá dài!
Nếu không có
Đức Chúa Trời thật, thì
chắc chắn người tin
Ngài không thể được
tái sinh, không thể được đổi
mới, và sự cầu nguyện của người
Cơ-đốc chỉ là vô nghĩa.
Riêng quyền lực Sa-tan thì
chỉ làm hại con người và đem con người vào sự cám dỗ
với tội lỗi.
Các bậc vĩ nhân như Đức Thích Ca, Khổng tử, Lão
Tử, Mohamet, Suzuki, Nhất Hạnh, Thanh Hải Vô
Thượng Sư, v.v. đều là người thọ
tạo, được sanh ra với
máu cha thịt mẹ như chúng
ta. Họ lớn lên, già, bịnh và
chết như chúng ta, họ cũng có tội
như chúng ta. Họ không thể hiểu hết tất cả những mầu
nhiệm, huyền vi của vạn vật vì thế họ không phải là
“những đấng“ siêu nhiên như Đức
Chúa Trời. Lời Chúa cho nhân loại biết rằng mọi sự bí mật thuộc về Đức Chúa Trời,
nhưng những sự bày tỏ thì Ngài ban
cho chúng ta và con cháu chúng
ta đời đời,
để chúng ta làm theo Lời Ngài đã phán dạy (Phục truyền 29:29). Ai thật lòng tiếp nhận Đức Tin của Ngài trong Đức Chúa Jesus Christ, thì mới nhận được sự bày tỏ của Đức Thánh
Linh.
Đức Chúa
Trời là
Đấng Tự Hữu Hằng Hữu. Ngài dựng
nên con người. Dù con người khước từ Ngài,
hoặc tự nhận rằng mình đã tu
thành Phật, thì con người vốn cũng đã
được Đức Chúa Trời
dựng nên trong máu cha thịt mẹ
giống như mọi người.
Kinh Thánh dạy rằn g con người
chỉ thờ phượng Đức
Chúa Trời là Đấng dựng nên vạn vật và tổ tiên nhân loại.
Giữa con người với nhau là bình
đẳng, không nhất thiết phải thờ phượng
nhau, nhưng trên hết và trước hết
là tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, nhiên hậu sẽ được
Ngài băn thêm cho chúng ta mọi
điều khác nữa như lời Chúa Jesus Chris t phán được ghi lại trong sách Tin Lành Ma-thi-ơ chương 6
câu 33.
Joshua
Huệ Nhật Nguyễn
Berlin
lập thu 2007
Ghi chú:
(1) Diễn dàn Báo Làng,
Sacramento, tháng 11, năm 2001
(2) Living Buddha, Living
Christ – Thích Nhất Hạnh, Paris 1999 (3)
Khởi Tín Luận, trang 9, nxb tp Hồ Chí Minh-1994
(4) The Discovery of Genesis
– How the Truth of Genesis were found Hidden in the ChineseLanguage, tác giả
C.H Kang và Ethel
R. Nelson, nhà xuất bản CONCORDIA/SAINT LOUIS