Đức tin đến bởi sự người ta nghe, mà người ta nghe, là khi lời của Đấng Christ được rao giảng.

September 14, 2012

Sự khác nhau giữa Thiền Định của Phật Giáo và Sự Cầu Nguyện trong Cơ-đốc Giáo

Khi còn tu học trong chùa, tôi  đọc bộ  sách thiền luận  của Suzuki,  một thiền  sư người Nhật, khoảng giữa  thế kỷ  19-20.  Trong chương  cuối của  bộ   thiền  luận  nổi  tiếng nầy, thiền  sư Suzuki  cho rằng thiền  Phật Giáo giống  như sự cầu nguyện của những tín  hữu Cơ-đốc Giáo. Hồi  đó  tôi cảm phục thiền sư Suzuki lắm, vì tin rằng ông là người thông  hiểu Phật Giáo và cả Cơ-đốc Giáo.  Nhờ    dịp  đọc  Kinh Thánh,  tôi  tin  Chúa và từng bước  kinh  nghiệ m đời  sống Đức  Tin trong Chúa, tâm  trí  tôi  được  mở ra để nhìn biết sự sống thật của thế giới  thuộc linh đầy  phước hạnh  được  chỉ dẫn  rõ ràng  trong  Thánh  Kinh.  Sau  khi tin  Chúa, tôi  đọc lại bộ Thiền Luận, và nhận ra rằng thiền sư Suzuki  đã viết một cách chủ quan về những điều quan trọng mà ông chưa  hề sống qua. Thiền  sư Suzuki  chưa  bao giờ  tin  Chúa, chưa  bao giờ  cầu nguyện với  Chúa, thế mà ông đã viết  một chương  sách cho rằng Thiền Phật Giáo và sự cầu nguyện của tín hữu Cơ-đốc Giáo giống nhau.
Ngày nay có nhiều  thiền  sư nỗi  tiếng  cũng  chủ  quan  như thiền  sư Suzuki.  Họ  dám viết những điều  mà họ chưa  thật sự từng trải.  Vì trọng sự chân thật, tôi  thấy cần ghi  ra một số nét khác nhau rất cơ  bản về thiền Phật Giáo và sự cầu nguyện của tín hữu Cơ -đốc Giáo. Bản thân tôi  đã tu thiền  và cũng đang là  một cơ  đốc nhân; tôi  thấy  Thiền Phật Giáo và Sự  Cầu Nguyện của người tin Chúa rất khác nhau cả phương pháp, mục đích và kết quả. 
I. Thiền Định:  

A. Mục đích:

1.  Tu Thân và tâm, tìm an lạc giải thoát.

2.  Diệt trừ nghiệp và phiền não.

3.  Chữa một số bịnh tật trong thân thể.

4.  Tìm kiếm sự giác ngộ để biết quá khứ hiện tại và tương lai của mình và của vạn vật.

5.  Đạt đến sự giác ngộ chân không diệu  hữu (vô ngã): thành Phật, đạt chân không niết bàn. 

B. Cách thực hiện:

1.  Bước  đầu là tập ngồi, tập thở đều đặn và đếm hơi thở để định tâm.

2.  Cá nhân hành đạo, đặt niềm tin vào chính mình, tự lực  đạt đến sự giác ngộ rốt ráo.

3.  Buộc thân thể phải  tuân theo kỷ  luật như giữ  giới, ngồi  yên một chỗ thật đúng cách, đúng giờ  và kéo dài hàng giờ  hay cả buổi.

4.  Buộc  tâm trí  không loạn  động, không cho phép tư dục kích động,  không để tạp ý  lôi kéo ra ngoài sự tĩnh tâm. 

C. Những trở ngại thường gặp:

1. Trẻ con không chịu ngồi  thiền. Tuổi cao, sức khỏe thiếu: khó ngồi lâu vì dễ bị  tê chân, dễ sinh bực bội.

2. Trong khi ngồi  thiền,  ý  tưởng miên  man khó tập trung. Ra khỏi  thiền  định,  khó giữ  giới, nhưng không ý thức được  vấn nạn nầy, vì ít ai muốn biết mình không giữ  được  giới. 

3. Người  tu thiền    người cố  gắng tự chủ, nhưng  càng cố  gắng tự chủ thì  càng dễ bị  xáo trộn, hoặc dễ bị  rơi  vào tình  trạng tự lừa  dối  mình hết sức tinh vi. Càng tỏ ra diệt  dục vọng, càng bị khiển bởi  dục vọng. Càng cố  gắng xả bỏ  càng dễ gây mâu thuẫn với  mục đích xả bỏ.

4. Khi đã  ngồi  quen thì  dễ ngủ quên trong “tham  thiền  nhập định,“  gọi    bịnh  thùy miên. Bịnh nầy chữa được  bịnh mất ngủ khá công hiệu.

5. Hoàn cảnh gần như người nhà  nói  chuyện, tiếng  muỗi  bay vo  ve, tiếng còi   xe ngoài đường,  v.v. cũng gây trở ngại  khiến  cho người ngồi  thiền  khó định  tâm; đôi  lúc vì  thế mà càng thêm phiền não.

6. Những người đau yếu, tuổi  quá cao không thể ngồi thiền.

7. Bị ràng buộc bởi  công tác hay việc làm ăn sinh sống. 

D. Kết quả:
Sau một thời  gian  chuyên tâm thiền  định,    thể đạt đến thói  quen ngồi  lâu  nhưng  ít  tê chân, không mỏi  mệt. Cũng có  khi sự tê chân xẩy ra toàn  diện  đến nỗi  thiền  giả  không còn biết  đôi  chân của mình    đâu.  Sau  khi thiền,  phải  xoa bóp thật nhiều  mới lấy  lại cảm giác bình  thường,  lúc đó  tâm  hồn thư thái;  thiền  giả  tưởng rằng mình  đã tự vứt bỏ  được  những phiền  não, nhưng  tiếp  theo sau trạng thái  vui vẻ  (an  lạc)  tạm thời  ấy, thiền  giả  thường móng tâm kiêu  ngạo,  tự mãn  và trở lại phiền  bực như trước. Cũng có  người tạo  được  bản lĩnh tự chủ nhất  thời.

Dễ bị  ảo giác  như thấy  ma  quỷ  khiến  thiền  giả  hoảng hốt, lo  sợ, loạn  trí; có  khi lơ    với ngoại cảnh  kể cả người thân, hoặc bị  điên loạn có  thể dẫn đến tình trạng tự tử, v.v cũng khá phổ biến.  Thường là  bị  hoang tưởng, cho rằng mình  đã thành Phật, đã vào cõi  niết  bàn. Tại Chùa Huỳnh Kim,    Vấp,  năm 1969, có  một vị  thiền  sư đang  ngồi  thiền,  bất ngờ đánh vỡ đầu  người đệ  tử của mình  bằng cái  dùi  mõ.  Nhưng vị  thiền  sư nầy  vẫn  tin  chắc là  mình  đã giết  một con quỷ. Giới  đồng đạo, không ai    một lý lẽ nào để kết án ông được.  Trong sách Phật Giáo Huyền Bí Tây Tạng có  nói  đến một vị  đạo sỹ đang thiền  định  bên bìa  rừng, bất ngờ đứng lên  tóm lấy  một cô  gái  đang đi  qua để hiếp  dâm. Vị đạo sỹ giải thích  rằng trong khi ngồi  thiền,  ông chứng quả  thần  thông  nên  thấy  một a-lai-gia thức (tạm  gọi    một linh hồn người đã chết) sắp sửa đầu thai  vào bụng con trâu cái  khi một đôi  trâu đang động dục. Bài học giáo lý  dạy rằng nhờ thông tuệ của bậc Bồ Tát hạnh,  vị đạo sỹ ấy đã kịp  thời  cưỡng dâm cô  gái  để tạo duyên cho linh hồn ấy đầu thai  làm  kiếp  người, khỏi bị  đầu thai làm  kiếp trâu. Năm 1966 ở  Nha Trang    một giáo  sư toán, người Huế đã  tự tử sau  một  thời  gian thiền định. Năm 1981, anh Ẩn, ở gần nhà tôi đã tự tử sau một thời gian thiền định.

Sách vở  ghi  lại vô  số vị  tu hành đạt đạo nhờ thiền  định  sau thế hệ Đức  Thích Ca, nhưng chưa    một  người nào  chứng  tỏ rằng  mình  đã giác  ngộ  như Đức  Thích Ca. Vị Thiền Sư  đã dạy cho tôi  tu thiền  theo  Kinh Pháp  Hoa  tại  Phú Nhuận 1973-1975,  là một  người khôi  ngô, khoảng 45-50  tuổi,  chuyên mặc bộ  bà ba trắng, hút thuốc số 555, tự nhận mình  đã thành chánh quả, hiệu là Phổ Quang Phật, nhưng ông có  4 vợ.  Cuối năm 1974, ông cưới  thêm một bà thứ năm.  Tôi  nghe   một  số  người nói  rằng ông đã  di  tản  ra  nước ngoài  trước  ngày 30.4.1975, nhưng tôi hoàn toàn mất liên lạc. Khi đang  viết bài nầy, tôi vào blog www.dangvannham.com và được  biết vị Phật Phổ Quang nầy hiện là giáo chủ Thiên Long Hoa. Ông cưới  thêm vợ  một bà vợ  trẻ hơn con mình và đã phong chức Bố Tát cho một trong những bà khác của ông tại  Hawaii-Hoa kỳ.

Nhiều người trí  thức đem thiền  vào thi  ca, hội  họa, âm nhạc, triết,  v.v. mặc dầu họ chưa bao giờ  chứng minh cụ thể rằng mình đã giác ngộ thiền. Vì thế thiền là một lối  tu hay là một lối  sống yên tĩnh của những  người trí  thức, nghệ sỹ, dù trong số đó    rất nhiều người chưa thật sự tọa thiền,  thậm  chí chưa  hiểu  thiền là  gì.  Họ  xem những thưởng ngoạn thiên nhiên, chơi hoa cảnh,  trà đạ là  một phần  của pháp môn tu chứng,  giải thoát, giác  ngộ như là  đem “thiền“ vào đời  sống. Đây là  nét mạo nhận về thiền  định  bàng bạc tro ng văn hóa Á Đông từ xưa đến nay.

Trên lý  thuyết, Thiền được    tả  như là  một sự thức tỉnh,  tự do, giải  thoát với  cuộc sống bình an, thanh tịnh khi con người giữ  được  sự nhiếp tâm liên tục đến nỗi đi, đứng, nằm ngồi đều bất ly thiền định. Trên thực tế, một người đạt đến sự tự tin tuyệt đối  là không thể có. Ít ra người ấy cũng có  thể tin  được  rằng mình không có  khả năng làm cho mình trẻ mãi, cũng như không  biết  bao giờ  mình  chết hay là  thành  Phật trước khi chết như Đức  Thích Ca. Vậy làm  sao mà nói  rằng mình    chúa tể của mình?  Ngày nay nhiều  người  trí  thức gián  tiếp hoặc trực tiếp tự nhận mình có  tinh thần thiền hay có  lối  sống thiền. Tương tự như cách của thiền  sư Suzuki,  tiến  sỹ TKĐ  viết  một bài  báo nói  đến sự giác  ngộ thấy được  “tâm  con vi trùng“  (1)  hoặc như thiền sư Nhất Hạnh viết về Đấng Christ và Đức  Thánh Linh để đồng hóa với  Đức   Phật,  trong  khi chính  ông là  người không  tin  Chúa (2), hơn nữa, nội  dung Kinh Thánh và giáo lý Phật Giáo cũng khác nhau  hoàn toàn.

Hàng trăm năm sau nầy, tốc độ  sống của nhân loại càng gia  tăng khủng khiếp,  sự suy nghĩ của con người càng lệ thuộc nhiều hơn vào những máy móc do  họ tìm tòi  chế tạo, khi ấy, ai đọc sách  của thiền  sư Suzuki,  tiến  sỹ TKD,  thiền  sư Nhất  Hạnh  trong  Luận  Tạng,  không chừng người ta sẽ nghĩ rằng cả ba vị ấy đã thành Phật rồi.

Khác  với  các sự kiện  ấy, Thánh  Kinh chỉ  ngắn gọn khuyên con dân Chúa rằng  “Hãy tỉnh thức, kẻo có ai lấy triết học và lời hư không, theo lời truyền khẩu của loài người, sơ học của thế gian, không theo Đấng Christ, mà bắt anh em phục chăng“ (Cô-lô-se 2:8). Thánh Kinh cũng đã xác nhận cụ thể rằng “Dầu bề ngoài có vẻ khôn ngoan, là bởi thờ lạy theo ý riêng, cách khiêm nhượng và khắc khổ thân thể mình; nhưng không ích chi để chống cự lòng dục của xác thịt” (Cô-lô-se 2:23). 

E. Một số môn phái thiền quen thuộc đối với người Việt: 

* Thiền Yoga  Ấn-độ:  Thiền giả  kiên  trì  tập luyện  những tư  thế yoga lắc léo  để giữ  thân thể tham thiền  theo các tư thế ấy rất lâu.  Thiền Yoga  bắt đầu với  những  người trẻ  tuổi    thích hợp hơn cả. Có  người cho  rằng  thể  dục  thư giản,  tập dịch-cân-kinh,  thái  cực   quyền của người lớn tuổi,  hay tập một vài  thế Yoga  cũng được  cho là  khởi đầu  thực  hành  thiền  định, nhưng đó  hoàn toàn không phải là thiền Yoga Ấn-độ.

* Thiền Thông Thiên Học: Là một trong những giáo phái  thiền cũng  xuất  phát  từ Ấn Độ  vào đầu thế kỷ  17, truyền đến Việt  Nam vào  cuối thế  kỷ  19.  Trong thập  niên  1990, tôi  gặp những thiền  giả  Thông-Thiên-Học ở Sài  Gòn, Bình Dương,  Thủ Đức, Nhà Bè. Họ  cho tôi xem và nghe giáo    của  Thiền Thông Thiên Học  trong băng video.  Tôi  bắt gặp nhiều  câu Kinh Thánh  trích  từ sách  Khải Huyền  nhưng  đã bị  sửa lại cả văn mạch  lẫn  nội  dung để phù hợp với  giáo lý của Thiền Thông Thiên Học.

* Thiền Tịnh Độ: Giữ  giới  và niệm  danh hiệu  Phật A-Di-Đà  để neo tâm vào thiền  định.  Câu kinh  nền  tảng  của Thiền Tịnh Độ    “Niệm một câu Nam Mô A Di Đà Phật đủ tiêu tan tám vạn bốn ngàn kiếp sinh tử trọng tội.“ Phật Giáo không dạy cụ thể về sự xé lòng  ăn năn tội, cũng không tin  rằng có  một đấng thiêng  liêng  kết tội  hay tha tội  cho con người.  Phật Giáo không có  giáo lý về sự tha tội.  Người  phật tử làm lễ  sám hối,  tức là  đọc những bài  kinh viết sẵn, đọc thần chú diệt  tội  và lạy  Hồng Danh (108 vị  Phật).  Tâm hồn người làm  lễ  sám hối không có  sự ăn năn thống hối  mà chỉ thuần  tuý là  lễ  nghi  tụng niệm.  Thông thườ ng, thiền giả Tịnh Độ  Tông ngồi yên và niệm vài chục chuỗi  danh hiệu Phật là xong một lần thiền; sau đó  thiền  giả  cảm thấy bình  tịnh,  thoải  mái.  Một chuỗi  dài  nhất là  108 hạt.  Tâm niệm,  hoặc miệng  niệm  một câu, ngón tay lần  qua  một  hạt  cho đến  khi hết  chuỗi  hạt.  Trong thực tế tâm  hồn người Việt  Nam vẫn có  niềm  tin chung chung rằng Trời  phạt kẻ ác, Trời  thương  kẻ lành.  Niềm tin  “Ông Trời“   tự trong  thâm  tâm  nhân  loại với  nhiều  văn hóa, khác nhau trước khi nhiều tôn giáo xuất hiện.

* Thiền Mật Tông: Giữ  giới, ngồi thiền và niệm thần chú để neo tâm vào chỗ đại định.

* Tụng kinh,  đọc kinh,  lần  tràng  hạt  của Phật Giáo và Công Giáo,  Hồi  Giáo không  phải  là thiền  định,  mặc dù sự đọc kinh  giúp  người hành  đạo tự neo  tâm  vào một  chỗ, tự an ủi tạm thời, tự trấn an mình bằng cách lặp đi lặp lại nhiều lần những bài kinh viết sẵn.

* Thiền Tông Trung Hoa  rất chú trọng công phu tọa thiền. Sách giáo lý Thiền viết rằng vị  tổ sư đầu tiên của Thiền Trung Hoa  là ngài  Đạt Ma đến  từ Ấn Độ. Ông là vị thiền tổ thứ 28 của Thiền  Phật  Giáo Ấn Độ, đến  Trung  Hoa vào  năm  520  sau  Công Nguyên và trở thành vị  tổ đầu tiên  của  Thiền Trung Hoa. Chuyện kể rằng  ông đã ngồi  thiền  liên  tục 9 năm xây mặt vào trong vách đá (cửu niên diện bích) không ăn uống gì  cả mà vẫn sống! Người  tu thiền tin điều  nầy là    thật. Thiền Tông Trung Hoa   truyền đến vị  tổ thứ năm, là  thiền  sư Hoằng Nhẫn (601 -674). Khi ngũ tổ Hoằng Nhẫn đã về già, xẩy ra một cuộc tranh chấp quyền thừa kế y-bát  giữa  hai  khuynh hướng  khác nhau của hai  đại  để tử: Thần Tú (606  – 706) và Huệ Năng. Cuối cùng Hoằng Nhẫn phải  lén  lút  trao y  bát cho Huệ Năng để tránh họa huynh đệ tương tàn, nhưng sau đó  Thiền Tông vẫn bị  phân rẽ. Từ đời  lục tổ Huệ Năng đến nay, không còn thêm vị thiền  tổ nào khác nữa, nhưng  Thiền Tông vẫn phát  triển  thành nhiều  môn phái khác nhau mang đặc tính văn hóa Trung Hoa rất phong phú.

* Thiền Pháp Luân  Công  một biến  thể  đặc trưng của văn hóa Trung Hoa. Trung Hoa có nền văn hóa lâu  đời.  Văn  viết  của Trung Hoa    mối  liên  hệ đặc biệt  với  Thánh  Kinh Cựu Ước,    quyển sách đã xuất hiện  khoảng hai  ngàn năm tại  Trung Đông trước khi Đức  Thích Ca ra đời  tại  Ấn độ.  Ngày  nay  các  nhà  nghiên  cứu tìm  thấy mối  liên  hệ đáng ngạc nhiên trong những chữ tượng hình  và tượng ý  xưa nhất  của  văn  viết  Trung Hoa   với  Thánh  Kinh (4). Nhưng Phật  Giáo du nhập  vào Trung Hoa  cũng rất sớm (trước công nguyên không bao lâu),  và thịnh  hành từ đời  Đường (Thế  kỷ  thứ 6-7).  Cả hai  ảnh hưởng  của Thánh  Kinh và Phật Giáo đã làm cho nền văn hóa, triết học và luân lý Trung Hoa  thêm phong phú qua suốt sử lịch khổ đau,  áp bức, nghèo  đói, hưng  thịnh  và dần dần hình  thành nếp sống tôn giáo, nghệ thuật, triết  lý,  đạo lý  Trung Hoa. Ví dụ Pháp Luân  Công mà nhiều  người quen  gọi  là Thiền Pháp Luân  Công. Nhìn bên  ngoài,  môn phái  nầy rất giống  với  Thiền Phật Giáo Trung Hoa, tuy họ không nhận mình là Phật Giáo.

* Dục thiền:  Phái  thiền  nầy  cho phép  người hành  đạo  trực  tiếp  va chạm với  nhục dục để chiến  thắng  nó. Nam nữ trần  truồng,  cùng nhau kích thích  cảm giác  nhục dục lên  tột độ nhưng  cấm thỏa mãn. Khi sự  ham  muốn  nhục  dục  lên  cao thì  tâm trí  thiền  giả  chỉ nhiếp quán vào đó  mà không bị  xao lãng  qua chuyện khác. Đây là  một cách định  tâm xua tan phiền não.  Tiếp đến, người hành  đạo dùng  tâm  lực  và ý chí tiêu diệt sự thèm khát nhục dục trong thân thể mình. Đây là cách đạt đến trạng thái  định tâm, đồng thời rèn luyện khả năng chiến  thắng tình  dục xác thịt  (lấy  nhục dục trị  nhục dục). Pháp môn thiền  nầy ít được  phổ biến  rộng rãi.  Trước  1975, ở miền  Nam Việt  Nam cũng có  người tu theo  phái  thiền nầy. Lúc đó  dư luận gọi  các tu sỹ nầy là “Đạo Rờ.“  Trong thập niên 1980 tại thành phố Đà-Lạt có  một tăng đoàn nam và nữ tu theo pháp môn nầy, nhưng  bị  chính  quyền cộng sản Việt  Nam bắt bỏ  tù và giải tán. Vấn đề nầy đã một thời xôn xao trên các báo chí cộng sản tại Việt Nam. 

Chú thích: Theo giáo lý  đạo Phật, thiền    pháp môn cao nhất giúp  người tu  hành  chóng giác  ngộ. Lịch sử Phật Giáo ghi  lại rằng  sau  khi từ bỏ  hoàng cung, thái  tử Tất Đạt Đa học đạo  và tu  theo  pháp  môn  Khổ Hạnh của năm  anh  em  Kiều Trần Như.  Sau sáu năm tu khổ hạnh, thái  tử nhận thấy pháp môn nầy sai  lạc,  bèn  rời bỏ.  Khi ấy  thân  thể  thái  tử đã gầy yếu gần kiệt  lực.  Một cô  gái  chăn dê tên là  Tu-xà-đề tặng  thái  tử một bát sữa dê. Nhờ bát sữa dê, thái  tử phục hồi  sức khỏe và ngồi  dưới  gốc cây bồ  đề phát lời  thề rằng “Nếu không tìm ra chân lý, ta thà chết, chứ không rời bỏ chỗ nầy.“ Sau 49 ngày đêm tham thiền  nhập định,  thái  tử  đã  thành  Phật  vào  lúc nửa  đêm.  Đêm  đó,  ma  vương hiện  hình    gái  trần truồng để cám dỗ  thái  tử, nhưng  ma  vương đã thất bại.  Các loài thú  rừng biết  thái  tử vừa mới thành  Phật,  chúng đem các thứ trái  cây ngon nhất dâng cho ông. Một con mãng xà có nhiều đầu cũng đến hầu ông. Rắn đã xòe các đầu ra làm thành một cái tán che Đức  Phật từ phía sau lưng.  Câu chuyện lịch sử nầy đã gây cảm hứng trên  nhiều  thế hệ nghệ nhân. Hằng triệu bức tượng Phật ngồi  nhập định dưới  mái che bởi  những đầu rắn hổ mang đã được  sáng tác và lưu hành  qua nhiều thế kỷ.

Giáo lý Thiền dạy  rằng  người tu hành  phải  từ bỏ  bản ngã và diệt  trừ cả ý  muốn thành Phật, thì  sự tu hành mới đạt đến chánh  quả.  Khi cái  tâm còn ham muốn thành Phật, tức là cái tâm còn tham dục, con chấp ngã thì  không thể thành Phật được.  Nhưng theo  đại  thừa Bát Nhã Tâm Kinh thì cái gì  đã gọi  là rốt ráo tức là không rốt ráo; và không rốt ráo mới là rốt ráo! Đó lý  nghĩa  cao siêu  của câu kinh  tụng: “bất  khả tư,  bất khả nghị,  bất khả lượng,  bất khả thuyết; hay nói  gọn là  “bất khả tư nghị,“ hoặc nói  theo lời  của một bài  kinh  nhật tụng là “Đạo cảm thông không thể nghỉ bàn.“ ) 

II. Cầu nguyện:

A. Mục đích:
Cầu nguyện là việc làm của Đức  Tin có  mục đích được  gặp Đức  Chúa Trời. Được chiêm ngưỡng vinh quang, lòng thương xót, hồng ân của Đức  Chúa Trời. Được  trình  dâng lên  Chúa những nỗi  niềm,  tình  cảm, tâm linh,  hoàn cảnh và nội  tâm của mình.
Ăn năn  tội, cầu nguyện những nhu cầu của mình và của người khác.
Được  cởi  mở tấm lòng,  mời Chúa ngự vào lòng  để Ngài biến  hóa  con người tầm  thường  của mình trở nên đền thờ của Ngài, mặc lại bổn tính của Ngài vốn đã bị  thiếu hụt do  tội lỗi  trong mỗi  người. 

B. Cách thực hiện:
Người  cầu nguyện phải    đức tin  của  Chúa  như Thánh  Kinh dạy. Đức  Tin khiến  người cầu nguyện ý  thức rằng mình  đang tương giao,  đang thưa  chuyện, đang thờ phượng  Đức  Chúa Trời,    Đấng tối  thượng,  công bình,  đầy ơn, giàu  lòng  thương  xót, là  Cha thiêng  liêng  của mình.

Không  giới  hạn tuổi  tác, trừ trẻ em chưa  biết  nói,  không bắt buộc thân thể phải    vào một tư thế cố  định  nào cả. Để thân thể thoải  mái  như quỳ, đứng, ngồi,  hay đang đi,  đang nằm, miễn là tâm hồn tự do, lòng khẩn nguyện hướng về Chúa.
Khi tâm  hồn không  cố  gắng định  tâm, nhưng  chỉ hướng  về Chúa, thì  tự nhiên  được  sự yên tịnh dễ dàng, dù ngoại  cảnh có  ồn  ào cũng khó bị  ảnh hưởng. Nhưng cũng có  khi vì nhu cầu khẩn thiết, người cầu nguyện tạm thời bỏ  qua ăn uống (kiêng ăn) để cầu nguyện.
Cần theo đúng Lời Chúa Jesus Christ dạy về sự cầu nguyện trong Ma-thi-ơ 6:1-18. 

C. Sự cầu nguyện không gặp những trở ngại như ngồi thiền:
Không    sự trở ngại  nào trên thân thể hay tuổi  tác, sức khoẻ, trình  độ  tri   thức  khi cầu nguyện, nhưng  phải    Đức  Tin của  Chúa.  Ngay khi đau  yếu  hay  tuổi  gi à, sự cầu nguyện đến với  Chúa vẫn không gặp trở ngại.
Khi một  người đã phạm  tội  mà chưa chịu  ăn năn từ bỏ, chưa  tiếp  nhận ơn  tha tội  của Chúa thì  rất khó cầu nguyện. Đây là sự trở ngại về tâm linh.
Tâm hồn cầu nguyện với  Chúa rất dể tập trung, vì  trong đức tin  lúc nào cũng biết  chắc có Chúa hiện diện. 

D. Kết quả sự cầu nguyện với Đức Chúa Trời:
1. Kết  quả của sự cầu nguyện hoàn toàn khác với  thiền  định,    thiền  định    hành động không có  đức tin,  tự mình loại bỏ  phiền não của mình,  tự xem mình  như không  có (vô ngã) nên nội  tâm dễ rơi  vào trạng thái  hư ảo, hoặc tự kỷ  ám thị. Ngược  lại, người cầu nguyện với đức tin của Chúa là người biết chắc mình đang cầu nguyện với  Đức  Chúa Trời, ý thức rõ  ràng mình  đang cầu nguyện với  Chúa điều  gì.  Sau mỗi  lần  cầu nguyện, tâm hồn người tin  Chúa cảm nhận lòng  tạ  ơn Chúa, an tịnh,  tin  cậy, bình  an, hy vọng. Người   cầu nguyện kinh nghiệm được  sự nhậm lời của Chúa nên thêm lòng tin quyết và kính sợ Chúa để tôn thờ Ngài cũng như yêu mến  người lân  cận. Người  cầu nguyện nhiều    người có  mối  tương giao  mật thiết  với  Chúa, nên tâm tính  anh ta khiêm  hòa, giản  dị,  mạnh mẽ và khó phạm tội,  nhưng dễ thể hiện tình yêu thương và lòng tha thứ.
2. Người  cầu nguyện chân thật với  đức tin    người có  đời  sống tâm  linh mạnh  khỏe,  thoát khỏi  những phiền  phức trần thế dù đang sống giữa  trần thế. Sự  cầu nguyện trong Chúa không đem lại địa  vị  tôn giáo,  hay địa  vị xã hội,  nhưng  được  một điều  cao quý thiêng  liêng nhất là  được  thưa  chuyện với  Đức  Chúa Trời,  mở hết tấm lòng  mình  cho Ngài.    thể nói rằng  con  người chúng  ta  không thể tỏ ra ngay thật với  nhau một cách tuyệt đối,  nhưng ngược lại,  người cầu nguyện với  Chúa là  người được  bày tỏ sự ngay thật với  Ngài một cách sâu xa, trọn vẹn nhất. Đây là một kinh nghiệm nội  tâm khi được  sống trong Đức  Thánh  Linh để tiếp xúc với  Đấng tối  thượng, đầy ơn, yêu thương, giầu lòng tha thứ.
3. Tóm lại, cầu nguyện là hành động của đức tin.  Tâm linh con người được  tiếp xúc với  Đức Chúa Trời  chí ái  bằng năng lực  Đức  Thánh Linh. Trong cuộc tiếp xúc nầy, Đức  Thánh Linh  tỏ bày tình yêu, nâng đỡ, che chở, khích lệ, lắng nghe để giúp con người nói  ra tất cả những gì anh ta cần nói. Đó là những điều sâu kín nhất  mà anh ta không thể nói với  ai  được, và cũng không ai    thể hiểu  hết nỗi  lòng  của  anh  ta như Đức  Chúa Trời  vốn hiể u. Trong cuộc tiếp xúc thiêng liêng  nầy, anh ta thốt lên  những lời cảm tạ về sự ban cho, sự nuôi  nấng, sự dắt dẫn, sự bảo vệ, sự quan phòng mầu nhiệm mà Đức  Chúa Trời  đã dành cho riêng anh. Anh ta cũng tỏ bày những tội  lỗi  sâu kín,  những vết thương  lòng  sâu sắc để được  Ngài tha  thứ và được  chữa lành. Dù anh ta là người gian  ác đến mấy, nhưng  sau  khi đã thật  sự cầu nguyện ăn năn với  Chúa, vẫn được  tha thứ, được  tái sanh, được  nhận sức sống mới.
Người  cầu nguyện là người thật sự hạnh phúc, vì đã được  vào thế giới  thiêng liêng của Chúa để giao cho Ngài mọi sự, nhờ cậy Ngài mọi sự, tin cậy Ngài mọi sự. Từ thời Cựu Ước cho đến nay, các thánh đồ, các đấng tiên  tri,  con dân Chúa đã cầu nguyện và đã được  Chúa nhậm lời.  Khi Chúa Jesus Christ  giáng  thế làm  người,  Ngài cũng cầu  nguyện  với  Đức  Chúa Cha. Ngài dạy  cho các môn  đồ  cầu nguyện.  Trong thời  Tân Ước,  bất cứ  ai  đã công khai  tuyên xưng đức tin trong  Chúa  Jesus Christ  đều có  kinh  nghiệm  cầu nguyện và có  nhiều  kết quả được  Chúa nhậm lời  rất kỳ  diệu.  Kinh Thánh  ghi  lại kết  quả  của những  gương  cầu nguyện như Môi-se, An-ne, Gióp, Ê-li, Ê-li-sê, Ha-ba-cúc, Giê-rê-mi, Nê-hê-mi, Ê-sai, Đa-ni-ên, Vua Đa-vít, vợ  chồng thầy tế lễ  Xa-cha-ri và Ê-li-sa-bét,  cụ già  Si-mê-ôn,  chấp sự Ê-tiên,  sứ đồ Phao-lô, Giăng,  Sa-chê,  người thu thuế ăn năn, người mù, một thầy đội,  120 môn đồ  trên phòng cao, v.v. 

E. Sự cầu nguyện không theo đúng Lời Chúa không kết quả:
1. Người  cầu  nguyện  chỉ tin  Đức  Chúa Trời  như một  vị  thần hộ mệnh, thần may mắn, và cũng sẵn sàng tin  bất cứ  “vị  thần“  nào khác;  hoặc cầu nguyện vì  động cơ  ích kỷ, chỉ muốn cầu điều tốt cho riêng mình để được  hơn người khác (Gia-cơ 4:3).
2. Người  cầu nguyện  chỉ tin có  Chúa như cách  ma  quỷ tin  (Gia-cơ 2:19), chứ không thật sự có  Đức  Tin theo lời dạy của Thánh Kinh như sau đây:
- Ngài là  Đức   Chúa Trời  tối  thượng;  ngoài  Ngài,  không có  đức chúa trời  nào khác.(Ê-sai 44:6; 45:5 -7, 14, 18-19).
- Ngài ban Chúa Jesus  Christ xuống trần chịu  chết trên thập tự giá  để đền tội  cho nhân loại (Giăng 3: 14-16).
- Ơn tha tội của Ngài là trọn vẹn đối  với  tấm lòng ăn năn thống hối (Rô-ma 6:10).
- Ngài tái  sinh con người bề trong, ban Đức Thánh Linh cho người tin Ngài để soi sáng, chữa lành,  an ủi,  thêm sức, dắt dẫn cuộc sống đắc thắng tội  lỗi,  yêu mến mọi  người,  mang kết quả nước trời trên đất (Giăng 1:12-13, 2 Cô-rin-tô 5:17).
3. Người  cầu nguyện không có  nhu cầu chính  đáng để cầu xin,  hoặc chưa  hết lòng  muốn được  trình  dâng nỗi  niềm  sâu  kín nhất  của mình  lên  cho Chúa, nhưng  chỉ thực hiện  một lễ nghi tôn giáo (Ma-thi-ơ 15:6, Mác 7:6-8).
4. Người  cầu nguyện  chỉ nói  những lời  thuộc lòng  với  bài  bản quen thuộc trước đám đông, nhưng không thật sự tỏ ra riêng tư kín nhiệm với  Chúa (Ma-thi-ơ 6:7).
5. Người  cầu nguyện thiếu  tương giao  mật thiết  với  Chúa trong cuộc sống thường  nhật, chỉ khi đến “nhà thờ“ mới bắt  chước làm theo  người khác, hay khi có  nhu cầu bất chợt mới nghĩ đến cầu nguyện với  Chúa. Đó là một biểu hiện không thật sự sống với  Đức  Tin của Chúa.
6. Người  cầu nguyện còn dối  lòng,  còn một loại tội  lỗi  kín dấu  nào đó  chưa  được  xưng ra, hoặc chưa khao khát từ bỏ; còn một tham  vọng ích kỷ, bất chính đang giấu  trong lòng,  hay là một nỗi  oán hận chưa chịu buông tha, một thói  quen  hay trách  móc người khác chưa thật sự được   đóng đinh  vào thập tự giá  với  Chúa  (Gia-cơ 4: 2). Nên nhớ rằng Đức  Chúa Trời không bao giờ  đòi  hỏi  con  người phải  thánh khiết  tuyệt đối,    Ngài biết    bản chất con người vốn là  bất toàn, vì  đã nhiễm  tội  lỗi,  nhưng  Ngài đòi  hỏi  con người có  tấm lòng  chân thành tiếp  nhận Đức  Tin của Ngài,    ngoài  Đức  Chúa Trời,  không có  một đấng nào cao cả thiêng liêng, hiểu thấu lòng người và xứng đáng  để con người thờ phượng như Ngài.
7. Người  cầu nguyện ở giữa  nơi đông đúc, bị  cám dỗ  bởi  ngoại  cảnh một cách vô  thức (Ma - thi-ơ  6:5); hay dùng lời  cầu nguyện  để chỉ trích,  dạy dỗ  người khác  hơn là  trình  dân g cho Chúa một nan đề thật sự (Lu-ca 18:11). 

III. Vài kinh nghiệm và ý kiến riêng của người viết:
Ai chưa  từng đặt mình  vào sự cầu nguyện  một cách quen  thuộc  cần xem lại chính  mình  để xưng ra  với  Chúa những khờ dại,  những thiếu  sót của mình;  rằng lòng  con lâu nay ít tìm kiếm Chúa. Tâm trí  con chưa hiểu đủ về Ngài cũng như về chính con. Con  cảm thấy khó nói hết mọi  điều trong đáy lòng mình. Lòng con còn những u uất rối  reng chưa được  giải phóng, xin Chúa ban Thánh Linh Ngài vào lòng con để con được  sự soi  sá ng, được  an tịnh, được  dắt dẫn để lòng  con được   mở ra cho Ngài.  Xin Thánh  Linh  cho con cảm nhận một cách chắc chắn rằng Ngài đang ở với  con ngay bây giờ. Lời Chúa dạy rằng ai  đến với  Ngài dù khờ khạo cũng không lầm  lạc,  dù bao nhiêu  tội  lỗi  cũng được   Ngài  tha thứ; xin Chúa cho con cảm nghiệm  dòng Huyết thánh của Chúa Jesus Christ  chảy  vào  tâm  linh con như dòng  suối  tha thứ mọi tội  lỗi  của con, chữa lành  những vết thương  trong tâm hồn và thân thể con để con được  kinh  nghiệm  tình  yêu thiên  thượng  từ nơi Ngài.  Xin Ngài nắm  lấy con vì con không đủ sức nắm chặt Ngài,  cho con được  buông mình  vào tay  Ngài cách tự do  như đứa  trẻ  để con được  chiêm ngưỡng, được  thờ phượng Ngài ngay trong cõi  lòng bé nhỏ của con đây. Cho con nhớ lại biết  bao điều  oan khuất, lỗi  lầm,  cố  chấp, thù ghét, bất mãn trong con và con xin Ngài đóng đinh các tội lỗi  ấy trên thập tự giá của Con  Ngài. Xin Chúa  xóa  bôi  những thương tổn do  người khác gây ra cho con mà lâu nay con chưa tha thứ cho họ được, Bây giờ  con xin Chúa thể hiện sự tha thứ của Ngài trong lòng con để con được  giải phóng ra khỏi sự cố  chấp giận hờn, vì lâu nay con khó tha  thứ người khác. (Xin đừng  học thuộc  lòng  các lời gợi  ý  trên để tránh tệ trạng đọc kinh, nhưng hãy tự xem xét lòng  mình cần nói với  Chúa điều chi ngay khi mình bắt đầu bước  vào sự cầu nguyện).
Mỗi lần  cầu nguyện cần thưa  với  Chúa những nhu cầu cụ thể, không phải  nói  nhiều,  không nói  miên man quanh quẩn mơ hồ. Nếu chưa  nói  ra được  thì  im lặng,  thiết  tha khẫn nguyện, tìm kiếm  ý  muốn của Chúa. Không  cần kéo dài  hay lặp  đi  lặp  lại ý  đã cầu nguyện, nhưng lắng lòng  với  ý thức rõ rệt; biết mình  đang thưa  với  Chúa điều  gì.  Khi cầu nguyện xong, chỉ cần nghỉ  ngơi  hay làm  việc  với  tâm tình  tạ ơn, tin  cậy và chờ đợi  xem kết quả công việc Chúa làm  trong đời   sống thực tế nội  tâm  và hoàn cảnh của mình.  Nên  đọc  Kinh Thánh thường  xuyên, cần đem Lời Chúa vào lòng  để mỗi  khi có  điều chi suy gẫm thì  mình có  ngay Lời Chúa để làm nền tảng, làm ngọn đèn cho tâm linh. Luôn luôn ý thức rằng thân thể mình là  đền thờ Chúa. Đức  Thánh  Linh  luôn  ngự trong thân thể mình  mặc dù có  khi mình  quên Chúa, nhưng  Chúa không bao giờ  quên mình.  Ngay cả khi mình  đang sơ ý  hay cố  tình  làm một điều  tội  lỗi,  một điều  buồn lòng  Đức   Thánh  Linh,  mình  phải  biết  rằng không bao giờ mình  che dấu Chúa được,  cần kịp  thời  thưa  với  Chúa để được  Ngài giải  cứu. Bản chất xác thịt của mình vốn là tội lỗi, vì thế mình cần đến với  Chúa để được  Chúa chăn dắt chứ không cần tự lên án mình và cũng không sợ mình bị  ai lên án. Chúa biết hết những gì  sâu kín nhất trong nội  tâm chúng ta, dù lắm khi chúng ta không biết hết về chính mình, nhưng Chúa chờ đợi  cho đến khi chúng ta thật  sự cần Ngài lắng  nghe,  cần Ngài soi  sáng, mở mắt, mở lòng; sau đó  Chúa sẽ cho chúng ta nhận biết  về mình  như Ngài  đã  biết  chúng ta (1 Cô-rin-tô 13:9-12). Nếu chúng ta không còn nhớ đến Chúa nữa, Ngài vẫn có  nhiều cách để cáo trách, nhắc nhở, cảnh tỉnh chúng ta. Chúa là Đấng vui lòng  ban thưởng  cho kẻ tìm kiếm  Ngài (Hê- bơ-rơ-11:6;  Giê-rê-mi  29:13). Chúa biết  rằng  nhân  loại (nói  chung), con dân Ngài (chung và riêng)  vốn quen  xa lìa Chúa,  hay    đểnh đối   với  Chúa,  nên  Ngài ban thử thách, cáo trách, trui rèn, nhắc nhở, thì chúng ta mới trở lại con đường lành đem lòng tìm kiếm Ngài. 

IV. Sự khác nhau bề trong và bề ngoài giữa người cầu nguyện và người thiền định:
Người  thiền  định  sửa soạn từ bên ngoài  vào  bên  trong  như ăn chay, giữ  giới,  tập ngồi,  tập đếm hơi thở, tập trung ý tưởng để định tâm. Tuy nhiên, càng cố  gắng định tâm thì  tâm càng dễ bị  phân tán; một con muỗi  bay qua, một nốt ngứa trên da thịt cũng làm  cho người ngồi thiền  bực bội.  Đó là  điều    người cầu nguyện hoàn toàn không bị  ảnh hưởng,  vì người cầu nguyện làm  công việc  của Đức  Tin từ bên  trong  ra bên  ngoài.  Đức  Tin nhìn  biết  Đức  Chúa Trời  là Đấng Tối  Thượng mà  mình  đang được  chuyện trò thân thiết.  Dù mình  trình  bày chưa đầy đủ, Ngài cũng hiểu  thấu và hiểu  hết những ý  tưởng mình  chưa  kịp  nói  ra. Cầu nguyện xong, người cầu nguyện lấy  Đức  Tin chờ đợi  Chúa trả lời.  Đức  Tin và sự tỉnh thức làm  cho người cầu nguyện định  tâm dễ dàng và tự nhiên,  dù bên ngoài có  ồn ào đến mấy thì  sự cầu nguyện vẫn thực hiện được. Bởi  Đức  Tin mà con người biết chắc và kinh nghiệm sự hiện hữu của Chúa. Bởi  đức tin    con  người được   Chúa ban năng lực   mầu nhiệm  để được   thưa chuyện với  Ngài, tiếp xúc với  Ngài là Đấng thiêng liêng, ban phước, an ủi, khích lệ, soi sáng, dắt dẫn, chữa lành (Hê-bơ-rơ 4:12).

Sự  hiện  hữu của Đức  Chúa Trời  không lệ  thuộc vào đức tin  nơi con người,  nhưng  nếu con người không    đức tin  thì  không thể đến với  Ngài.  Đức  Tin là  một sự biết  chắc vững vàng vô  điều  kiện  mà lý  trí  không thể ngăn trở được.  Dù chúng ta có  Đức  Tin hay không có  Đức Tin,  thì  Đức  Chúa Trời vẫn hiện  hữu. Nhưng tấm  lòng    tín  không bao giờ  muốn nhìn  biết Đức  Chúa Trời  và không có  bản tính  thích  hợp để thiết  lập  sự giao  thông với  Ngài.  Trái lại, lòng mê tín không thể tin vào Đức  Chúa Trời  nhưng lại tin các hình tượng vô  tri, tin am miễu tà thần, hoặc tin vào những sự bói  toán,  xin xăm rất mê muội.

Người  thiền  định  quán tưởng cái  vốn có  là không có, cái  không có  thì  phải  có. Họ  tự lực  loại bỏ  sự phiền  toái  trong mình,  cho rằng vạn vật là  không gì  cả, kể cả cái  tôi  của mình  cũng không; nhưng  thay vào sự quán tưởng về cái  “không“ ấy, người tu thiền lại quán  tưởng một vị  Phật hay một đóa sen trước mặt mình,  đồng thời  cũng quán tưởng rằng không có    cao siêu, không có    thấp hèn, không có  Phật, không có  giác ngộ, không có  địa ngục, không có niết bàn (chơn không diệu hữu). Sự  quán tưởng nầy trái với  những quan niệm sống thực tế, do  đó  thiền  giả khó tránh khỏi  những mâu thuẫn nội  tại  đưa  đến tình  trạng tự dối  lòng,  bất cần, giả  hình, loạn  trí,  nửa điên  nửa khùng, nửa mê nửa tỉnh  mà ngôn ngữ thiền  gọi    tẩu hỏa nhập ma (bị lửa ma quỷ làm tán loạn tâm trí). Nếu một người ngồi  thiền hời hợt cho vui thì  khó bị  tầu hoả nhập ma, nhưng ngồi  thiền như thế  cũng chẳng  khác gì  không ngồi  thiền. Các vị thiền sư không bị  tẩu hoả nhập ma, vì thực tế họ không có  thời  gian ngồi  thiền. Họ là thiền  sư chứ không  phải  thiền  giả.  Họ  nắm vững lý  thuyết để dạy thiền  sinh,  để viết  sách, để điều  khiển    sở, tài  chánh, để ban pháp thoại,  đi  đây đó  lãnh  đạo công việc  thiền  môn. Từ  xưa và đặc biệt là  ngày nay, các thiền sư nổi  tiếng  còn làm  cố  vấn cho các vua quan và các chế độ  chính trị nữa.

Trái lại, người cầu nguyện tin  Chúa là  Đấng Hằng Hữu, biết  chắc mình đang hiện  hữu trước mặt Ngài. Người  cầu nguyện tiếp xúc với  Ngài, chiêm ngưỡng, thờ phượng Ngài và được  tâm giao  với  Ngài,  mở cả cõi  lòng  mình  cho Ngài.  Đây là  những giây  phút cao quý nhất mà tâm linh con người thật sự bước  vào thế giới  thiêng  liêng  với  Đức  Chúa Trời.  Sự  hiện  hữu của người cầu nguyện với  Đấng hằng hữu vô lượng thật là mầu nhiệm, chân thật và sâu nhiệm.

Phật Giáo cũng có  nghi  thức cầu nguyện, nhưng  giáo lý  đạo Phật cho rằng Đức  Phật không phải    Đấng ban  phước hay  giáng họa; người tu hành  phải  tự mình thắp đuốc lên  mà đi, vì thế, sự cầu nguyện của người Phật  Giáo là  một nghi  lễ  được  tổ chức thêm như một  phương tiện. Nghi lễ nầy hoàn toàn không xuất phát từ niềm tin chắc chắn mà chỉ là để đáp ứng nhu cầu tâm lý tín ngưỡng. Tâm trạng người Phật Tử lạy lục trước các ả nh tượng Phật, đồng thời họ cũng nhận biết  rằng các ảnh tượng ấy do  thợ đục đẽo ra từ đất, đá, xi -măng,  đồng, chì, gang, thiếc  và họ mua về. Ngược  lại,  người cầu nguyện với  Chúa hoàn toàn cảm nhận rằng Chúa là Đấng vô  hình, Ngài là Thần Linh và người cầu n guyện tương giao với  Ngài bằng tâm thần thiêng liêng, được  Đức  Thánh Linh vùa giúp. 

Thông thường,  những  người có  tôn giáo  bề ngoài  nhưng  không có  đức tin bề trong thì  đành phải  mượn hình tượng vô  tri, hình thức nghi lễ để tượng trưng, hoặc làm vật trung gi an. Trái lại,  người có  đức tin  chắc chắn vào sự hiện  diện  thiêng  liêng  của Đức  Chúa Trời  như Kinh Thánh soi  dẫn, thì không thể chấp nhận bất cứ  một dụng cụ vật chất nào bên ngoài  để thay thế, hay để đại  diện  sự thiêng liêng  bề trong được.  Vì sao? Vì trong lòng  người cầu nguyện với  đức tin  luôn luôn    Đức  Thánh  Linh  thêm sức, soi  sáng, giục  giã  người cầu nguyện nói lên  điều  đáng nói;  không phải  chỉ nói  với  Chúa một chiều  mà còn tha thiết lắng  nghe thánh ý  của Ngài nữa.  Khi người cầu nguyện không thể nói  hết điều cần nói, Đức  Thánh Linh  giúp sức  than  thở  thay  cho  người cầu nguyện như kinh  nghiệm  cuộc sống đức tin  của Sứ   Đồ Phao-lô (Rô-ma 8:26-27). Để được  Đức  Thánh Linh hiện diện trong  một người tin Chúa, anh ta phải  xa lìa các hình  tượng. Vì con người mang  hình  ảnh thiêng liêng của Chúa nên không thể quỳ lạy  trước các hình  tượng vô  tri  do  tay mình  làm  ra (Thi-thiên 115:4-8; Ê-sai 44:9- 20; Giê-rê-mi 10:3-5).

Tóm lại,  người tu  thiền  cố  gắng hết sức mình  để đạt đến sự đại  định,  nhưng  càng cố  gắng họ càng khó thành  công.  Trong khi đó, tín  hữu Cơ-đốc đem lòng  mình  đến chuyện trò với Chúa để tâm hồn được  an tịnh,  yên nghỉ,  hưởng  phước;  và tâm  linh được  nếm trải  mùi  vị thiên đàng, là thiên đàng của Chúa chứ không phải loại bình an tự kỷ  ám thị  như người ngồi thiền thường gọi  là “nhất thiết duy tâm tạo” nghĩa là thay thảy do  tâm mình tạo ra. 

V. Lòng tin, niềm tin khác hẳn với Đức Tin:
Lòng tin, niềm tin hoàn toàn khác với  Đức  Tin. Lòng tin hay niềm tin phát xuất từ con người. Con  người thường  tin  điều    mình  thích,  mình  muốn, hay mình  hình  dung được.  Lòng  tin hay niềm tin con người lệ thuộc vào tình cảm, lý trí, ý muốn, tri thức và cả truyền thống văn hóa, tôn giáo  cũng  như trình  độ  giáo  dục. Mức  độ  và đối  tượng của lòng  tin hay niềm  tin cũng thay đổi  không ngừng theo tình  cảm, lý  trí,  ý  muốn và tri  thức. Lòng  tin hay niềm  tin luôn  bị    trí,  tri  thức và ý  muốn gạn lọc,  kiểm  soát một cách ý  thức và vô  thức. Không  ai không có  lòng  tin  hay niềm  tin, kể cả người vô  thần cũng là  người có  lòng  tin hay niềm  tin. Người    thần tin rằng “không có  thần linh" nào cả.

Nhìn khách  quan,  tâm  con người không    hạn, lòng  tin  hay niềm  tin  trong tâm con người cũng không vô  hạn. Lòng  tin  hay niềm  tin  chủ  quan  của  con  người không  ảnh  hưởng  đến chân lý  hay thực tế khách quan; ngược lại, nó bóp méo, vo  tròn tô mầu một cách chủ quan đối  với  chân lý  khách quan. Từ  ngữ Hán Nho  của Phật Giáo gọi  lòng  tin là  tín  tâm, niềm  tin là  tín  niệm  và đặc biệt    tự tín.  Từ  ngữ “đức tin“ không có  trong  ngôn ngữ Phật Giáo Việt Nam, nhưng dần dần về sau nầy, một số luận sư Phật học dùng từ ngữ “đức tin“ theo  nghĩa tương tự như “niềm  tin,  lòng  tin“.  Hoà Thượng Trí Quang  trong  tập  Đại Thừa Khởi Tín Luận cho rằng “khởi tín đưa ta lên tột đỉnh của sự tự tín, xác quyết rằng chủ tể của ta chính là ta đây.“ (3)  Phật  Giáo không  tin    Đấng Tạo Hóa   toàn năng, nhưng  tin  rằng khả năng con người là  toàn năng và vô  tận, con người có  thể đạt thành chánh quả để nhìn  biết vạn sự từ trước vô  cùng đến sau vô  tận. Cụm Hán từ “nhất thiết duy tâm tạo“ trong kinh  điễn  nhà Phật tiêu  biểu  cho niềm  tin  chủ quan nầy. Đức  Thích Ca dạy rằng  đừng vội  tin  những gì  do truyền thống, sách vở,  giáo  lý,  hoặc bài  giảng  của bất cứ  ai,  dù người đó    bậc đáng kính trọng, nhưng  hãy tin  những gì  mà chính  mình  thấy đúng, thấy thật, thấy ích lợi  cho mình, cho tha nhân, cho hiện  tại  và tương lai (kinh  Kalama).  Ai nghiên  cứu Phật  Giáo một  cách khách quan, khi đọc Kinh Kalama cũng dùng lời  dạy của kinh nầy để đánh giá lại giáo  pháp của Đức  Phật có  đúng hay không rồi  mới tin.  Nếu giáo lý  của Phật là chân lý  tu yệt đối, làm sao  khả  năng  hạn  hẹp  của  con  người đánh  giá  đúng? Phật dạy rằng giáo    Phật  chỉ là phương  tiện chứ không phải    chân lý;  ai  đã thành Phật rồi   thì  đương  nhiên    vứt bỏ phương  tiện ấy đi.  Khả  năng hiểu  biết  của  nhân  loại từ xưa đến  nay  vẫn  kh ông tuyệt đối trọn vẹn thì làm sao mà đánh giá đúng mức để đạt đến sự tự tin tuyệt đối  và tự cho mình là chúa tể tối  cao của mình như Khởi Tín Luận và Hoà  Thượng Trí Quang?  Thực tế là con người chịu  lệ  thuộc rất nhiều  vào sự sống khách quan vốn đã được dựng  nên; còn tệ hơn nữa là con người không  đủ khả năng  làm  điều lành  một  cách  trọn  vẹn như chính  mình  muốn. (Rô - ma 7:19). Vì thế con người cần Đấng tuyệt đối  trọn vẹn và đặt đức tin Đức  Tin của Ngài.

Khác  với  giáo    Phật  Giáo vốn chỉ là  phương  tiện,  Kinh Th ánh là  chân lý,    sự mặc khải thành  văn để chỉ dẫn Đức  Tin của Đức  Chúa Trời  cho nhân loại, vì Đức  Chúa Trời  biết rõ  khả năng hiểu biết của loài người còn quá ít so với  chân lý tuyệt đối    biên. Đức  Chúa Trời  mặc khải  Đức  Tin của Ngài qua thiên  nhiên,  qua Thánh  Kinh, Luật  Pháp và cuối  cùng là sự giáng thế của Đấng Christ. Dù lương tâm  và trí tuệ  của con người không đủ để hiểu hết, nhưng đủ để tin. Thánh  Kinh dạy  rằng  chỉ có  Một Đức  Chúa Trời    Đấng sáng tạo vũ trụ vạn vật, là Đấng Toàn Năng, Toàn Tri,  Toàn Tại. (Sáng  Thế Ký 1, 2; Thi-thiên 139:1-18; Ê-sai 43, 44, 45). Chỉ có  một Đấng Trung Bảo giữa  Đức  Chúa Trời  và nhân loại, là  Đức  Chúa Jesus Christ (1 Ti-mô-thê 2:5). Chỉ có  một Đức  Thánh  Linh  ban vào lòng  người tin  Chúa Jesus để cáo trách tội  lỗi,  để soi  sáng, để tha thứ, chữa lành,  thánh hóa, dắt dẫn, thêm sức, trang bị thuộc  linh theo  ý  muốn tốt lành    trọn  vẹn  của  Một Đức  Chúa Trời  Ba Ngôi   (1 Cô -rin-tô 12:4-11). Lời Chúa xác nhận ý tưởng của Ngài là vô  lượng cao siêu mà loài người không thể hiểu thấu được  (Ê-sai 55:8-9), vì thế Ngài ban Đức  Tin để mỗi  người có  thể nhờ Đức  Tin mà giao  thông với  Ngài một cách thiêng  liêng  và kín nhiệm.  Đức  Tin là  sự ban cho, là  món quà Đức  Chúa Trời  tặng riêng  cho nhân loại.  Nhưng nhân  loại có  tự do  tuyệt đối  để tiếp  nh ận hay khước từ Đức  Tin của Chúa. Dĩ nhiên nhân loại cũng đã được  Ngài ban cho lý  trí, lương tâm để ý thức trách nhiệm về thái độ  tự do  chọn lựa của mình.

Đức  Tin của Chúa được  mặc khải  trong Thánh  Kinh,    thế bất cứ  lòng  tin hay niềm  tin  nào không đúng với  Thánh Kinh thì  dứt khoát không phải là đức tin của Chúa. Khi tiếp nhận Đức Tin của Chúa, tín  hữu tin  theo Lời Chúa và sự dắt dẫn của Đức  Thánh  Linh  ứng hiệp  với  Lời Chúa, chứ không thể tin  theo ý  tưởng chủ quan của mình. Kinh Thánh là  sự mặc khải  thành văn của Đức  Chúa Trời, là ngọn đèn soi  đường cho đời  sống của người có  Đức  Tin (Thi -thiên 119:9, 105). 

VI. Sự khác nhau rất nền tảng giữa giáo lý Phật Giáo và Thánh Kinh:
Đức  Thích Ca dạy rằng  tất  cả giáo  pháp của Ngài chỉ là  ngón tay  chỉ mặt  trăng  chứ k hông phải  mặt trăng. Nghĩa là tất cả giáo lý Phật Giáo chỉ là phương tiện tu chứng chứ không phải là chân lý. Ai đã đạt đạo rồi  thì  vứt bỏ  nó đi,  như người đã qua sông  thì phải  vứt bỏ  thuyền. Pháp môn thiền  định  được  xem là  pháp môn tu cao nhất của Phật Gi áo. Thiền định  được  áp dụng nhiều  cách khác nhau trong hầu hết các tông phái  Phật Giáo.  Nhưng tất  cả các  môn phái  thiền  đều có  một điểm  giống  nhau, ấy là  mỗi  người tự thắp  đuốc lên  mà đi,  mỗi  người tu chứng cho riêng  mình,  không tu dùm cho ai  khác. Mục tiêu  rốt ráo của thiền  định    để đạt đến sự giác  ngộ vô  ngã, tức là  người tu  thiền  không còn thấy mình  hiện  diện  nữa, bởi đó, cũng không còn ai  ngoài  mình  để đối  đãi  nữa: “vô  năng vô  sở” nghĩa    không chủ thể, không đối  tượng (tuyệt đối  không). 

Trong lịch sử Phật Giáo,  từ lý  thuyết đến thực tế, chưa    một  người nào đạt thành chánh quả  như Đức  Thích Ca. Bởi  thế, chưa  ai  vứt bỏ  được  giáo    Phật Giáo,  và không ai    thể hiểu được  sự thành Phật của Đức  Thích Ca là như thế  nào,  vì chỉ có  bậc tu đã thành  Phật rồi mới thông  hiểu  Phật. Một chúng sanh chưa  thành Phật thì  không thể có  đại  trí,  đại  thần thông vi  diệu  như Phật  để  hiểu  Phật.  Theo giáo    đạo Phật thì  tất cả chúng sanh (người cũng như hết  thảy  mọi  sinh  vật trong sáu  loài luân  hồi  như ngạ quỷ, súc sanh) đều có  khả năng thành Phật. "Phật là chúng sanh đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành," đó    câu kinh nền tảng để hiểu giáo lý nầy.

Ngược  lại,  Kinh Thánh  dạy rằng Đức  Chúa Trời    Đấng Tự  Hữu Hằng Hữu, là Đấng sáng tạo vũ trụ vạn vật; nhân loại là loài thọ tạo duy nhất  được  mang ảnh tượng của Đức  Chúa Trời và có  sự sống thiêng liêng vĩnh cửu. Sau khi bị  Sa-tan cám dỗ  để sa vào tội  lỗi  (Sáng thế ký 1:1-13),  con  người bại  hoại  (Sáng thế ký  6:5,11-12).  Con người kiêu  ngạo (Sáng thế ký 11:3-4).  Lòng  người gian  ác xấu xa hơn mọi  vật (Giê-rê-mi 17:9). Con  người vốn biển lận, bội  nghịch  (Giê-rê-mi 3:20). Lòng  người là  ngu dại,  suy đồi  (Thi -thiên  14:1. 53:1). Tội  lỗi trong  loài người càng  ngày  càng  gia  tăng (Ma-thi-ơ  24:12). Nhưng con người là  loài thiêng liêng,  được   dựng nên giống  ảnh tượng của Đức  Chúa Trời  và được   Ngài ban  cho sự khôn ngoan để quản trị  tất  cả các loài khác (Sáng  thế    2:26-27).  Đức  Chúa trời  hứa ban Chúa Cứu Thế xuống  trần  để cứu chuộc loài người ra khỏi  tội lỗi (Ê-sai 9:5-6).  Khi con người đem lòng ăn năn trở về tin nhận Chúa Cứu Thế Jesus Christ thì  nhận được  ơn tha tội, được  trở lại địa  vị  làm  con Đức  Chúa Trời,  được  tái  sanh trong Đức  Thánh  Linh  (Giăng  1:12 -13),  được cứu ra khỏi  sự hư mất  đời  đời  (Giăng  3:16), được  ra khỏi  sự đoán phạt (Rô -ma 14:1), được nên thánh, được  đổi  mới và mặc lấy người mới (1Cô-rin-tô 5:17; Ê-phê-sô 4:24), được  dùng thân thể mình  để làm  đền thờ Đức  Chúa Trời  (1 Cô-rin-tô 3:16; 6:19), được  sống với  Chúa vĩnh viễn trên thiên đàng sau khi qua đời  (Khải-huyền 22:1-5).

Sự  cầu nguyện  không chỉ thực hiện  khi người tin  Chúa cần biệt  riêng  cầu nguyện với  Ngài, nhưng  còn có  thể thực hiện  một cách tự nhiên  trong cuộc sống qua mọi hoàn cảnh. Khi ăn, ngủ, chuyện trò, đi lại, làm việc, lái xe, ở cơ  quan, ở nhà, trong rừng, trên biển  cả, lúc thanh bình hay giữa vòng chiến cuộc, v.v. người tin Chúa biết rằng Chúa đang ở với  mình và mình có  thể nói  với  Chúa bất cứ  điều    mà tâm hồn mình  muốn nói. Đây là mối  giao thông tuyệt vời  trong cuộc sống đức tin  của Cơ  Đốc  Nhân với  Đức  Chúa  Trời thiêng  liêng.  Bất cứ  ai  có Đức  Tin,    lòng  yêu kính Chúa, có  Lời Chúa, có  kinh nghiệm  hồng ân cứu rỗi  của Chúa đều có  thể sống trong sự hiện  diện  của Ngài ở  bất cứ  hoàn cảnh nào, ở  bất cứ  lúc nào trừ khi người ấy biết  mình  đang cố  tình  phạm tội.  Dù cố  tình  hay vô  tình  phạm tội,  người ấy cũng không trốn đi  đâu xa mắt Chúa được.  Cho nên một tấm lòng  yêu kính Chúa được  Lời Chúa ghi  tạc vào, thì  tấm lòng  ấy sở đắc mối  tương thân với  Chúa để tâm hồn được  an vui hoan lạc như tình Cha con khắng khít mà thiền định  không thể có  được. Khi hữu sự, chúng ta kêu Trời  ơi  và lập  tức cầu nguyện, chứ không ai  kêu Phật ơi, và khi ấy thì  không ai    thể ngồi thiền. 

VII. Chức vụ cầu thay:
Như  đã đề cập phần trước, người phật  tử    nghi  lễ  cầu nguyện cho mình  và cho người khác, nhưng rất chung chung, không phát xuất từ niềm tin tuyệt đối. Trái lại, người tin Chúa xem sự cầu nguyện là đỉnh cao nhất của đời  sống làm con Đức  Chúa Trời. Chẳng nh ững cầu nguyện cho mình  mà còn nghĩa  vụ thiêng  liêng  cầu nguyện cho người khác. Đó    chức vụ cầu thay, như Môi-se cầu xin Chúa tha  tội cho dân Y-sơ-ra-ên  trong đồng vắng (Xuất Ê-díp- tô ký 5:22-23; 32:30-33),  như Chúa Jesus Christ  ngồi  bên hữu Đức  Chúa Trời  cầu thay cho con dân Ngài đang ở giữa thế gian (Rô-ma 8:34). 

Sự  cầu thay đòi  hỏi người cầu nguyện quên mình và đặt mình vào vị trí, vào cảnh huống của người mà mình đang cầu thay. Ví dụ cầu nguyện cho một người mắc bịnh nan y, cầu nguyện cho một  người đang  lâm  vào hoàn cảnh tội  lỗi, lạc  lầm,  cầu nguyện cho dân tộc, cho đồng hương, v.v. đều phải xem những nan đề của họ, vị thế của họ, bịnh tật của họ, đau khổ của họ  như là  của chính  mình.  Tâm  thần  người cầu nguyện mang những nan đề ấy mà trình dâng cho Chúa, chứ không chỉ nói  suông bằng lời. Đây là sự cầu nguyện cao nhất. Ví dụ cầu thay  cho một  người đang  sa  vào cạm  bẫy  tội  lỗi;  người cầu nguyện xem tội  lỗi  của anh ta đang  phạm  như là tội lỗi của chính mình và khao khát một tấm lòng ăn năn từ bỏ  tội lỗi  mộ t cách thiết  tha đến nỗi  sự ăn năn tha thiết nầy cảm động đến Đức  Thánh  Linh, vì chỉ có  Đức Thánh Linh cảm động thì người phạm  tội ấy mới thật sự ăn năn từ bỏ  để thoát khỏi vũng lầy tội lỗi. Nếu không có  năng lực  Đức  Thánh Linh với  tâm tình Chúa Jesus Chri st thì không ai có thể thực hiện  sự cầu thay đúng nghĩa  được.  Vì thế Chúa Jesus Christ  dạy: “Ngoài ta ra các ngươi không làm chi được“ (Giăng  15:5-11).  Còn  Sứ  Đồ  Phao-lô nói “Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi“ (Phi-líp 4:13).

Tôi đang ở Đông Berlin, nơi mà con dân nước Việt đang sa vào nhiều thứ tội lỗi khủng khiếp, nhưng trong cảnh trạng nầy có  một số người ăn năn  trở về tin nhận Chúa. Sau khi gặp được tình yêu kỳ  diệu  của Chúa, họ nhớ đến người thân  ở quê nhà. Thay vì  tiếp tục phạm tội  để kiếm tiền gởi  về nuôi  thân nhân, họ đã cầu nguyện cho thân nhân của họ. Họ  xin Chúa cảm động người thân  của họ ở quê nhà đặt lòng  ưu tiên  tìm  biết Chúa trước và tìm vật chất sau như Lời  Chúa  dạy  trong  Ma-thơ-ơ 6:31-34.  Chúa đã nhậm lời  cầu nguyện của họ. Những thân  nhân  của họ gặp người Tin Lành  đến làm  chứng và kêu gọi  họ tuyên xưng đức tin  của Chúa Jesus Christ tại quê nhà.

Chức vụ cầu thay là  rất  quan  trọng    rất  phước hạnh.  Bản thân  tôi  sau  khi rời  khỏi  quê hương  vì sự bắt bớ  đức tin.  Phải  xa người cha trên  80 tuổi  mới tiếp  nhận  Đúc Tin của Chúa, tôi  chỉ biết cầu nguyện cho ba tôi  ở quê nhà. Những ngày cuối  cùng của tuổi  già,  ba tôi yếu và lẫn.  Ba tôi  đau khổ bởi  những đứa con không tin  Chúa đã bắt bớ  đức tin  của chúng tôi. Họ  đánh đập và làm nhục tôi  trước mặt ba tôi  để dằn mặt ông cụ. Họ  tách rời  ba tôi  khỏi  sự chăm sóc của tôi  để ba tôi  bỏ  Chúa. Nhưng khi ba tôi  bị lẫn, miệng luôn luôn nhắc đến Chúa và hỏi  thăm về tôi.    khi ba tôi  vui mừng nghĩ  rằng tôi  sẽ về thăm  ông cụ. Trong sự vui mừng nầy, ba tôi  đã trút hơi thở cuối cùng rất bình an. Khi phải  rời bỏ  quê hương và xa cách cha già,  tôi chỉ biết cầu nguyện với  Chúa. Ngài đã làm cho ba tôi  cảm thấy gần tôi,  đứa con cùng có  Đức  Tin trong  Chúa  như ông, và khiến  ông vui mừng nhắc  nhở về tôi  cho đến k hi nhắm mắt.  Tất cả anh chị em ruột thịt của tôi đều phải công nhận rằng hoàn cảnh họ gây ra đã bắt buộc tôi  xa ba tôi,  nhưng  Chúa không để cho ba tôi  xa tôi  cho đến khi thân  thể  ông cụ trút  hơi thở cuối cùng để linh hồn được  về với  Chúa. Tôi  còn nhiều  bằn g  chứng của kết quả cầu thay, nhưng bài viết nầy đã quá dài!

Nếu không có  Đức  Chúa Trời  thật, thì  chắc  chắn  người tin  Ngài không  thể  được   tái  sinh, không thể được  đổi  mới,  và sự cầu nguyện của người Cơ-đốc chỉ là    nghĩa.  Riêng quyền lực  Sa-tan  thì  chỉ làm  hại  con người và đem  con người vào sự cám  dỗ  với  tội  lỗi.  Các bậc vĩ nhân  như Đức   Thích Ca, Khổng  tử, Lão  Tử, Mohamet,  Suzuki,  Nhất Hạnh, Thanh  Hải  Vô Thượng Sư,  v.v. đều là  người thọ  tạo,  được  sanh ra với  máu cha thịt  mẹ  như chúng  ta. Họ lớn  lên, già, bịnh và chết  như chúng  ta, họ cũng có  tội  như chúng  ta. Họ  không thể hiểu hết tất cả những mầu nhiệm,  huyền vi  của vạn vật vì  thế họ không phải    “những đấng“ siêu nhiên như Đức  Chúa Trời. Lời Chúa cho nhân loại biết rằng mọi sự bí  mật thuộc về Đức  Chúa Trời,  nhưng  những sự bày tỏ thì  Ngài ban  cho chúng  ta và con cháu  chúng  ta  đời  đời,  để chúng ta làm theo Lời Ngài đã phán dạy (Phục truyền  29:29). Ai thật lòng tiếp nhận Đức  Tin của Ngài trong Đức  Chúa Jesus Christ, thì mới nhận được  sự bày tỏ của Đức  Thánh  Linh.

Đức  Chúa Trời    Đấng Tự  Hữu Hằng Hữu. Ngài dựng nên con người. Dù con người khước từ Ngài,  hoặc tự nhận rằng mình  đã tu thành Phật, thì  con người vốn cũng  đã  được  Đức  Chúa Trời  dựng nên trong máu cha thịt  mẹ giống  như mọi  người.  Kinh Thánh dạy rằn g  con người chỉ thờ  phượng  Đức   Chúa Trời    Đấng dựng nên vạn vật và tổ tiên  nhân loại.  Giữa con người với  nhau là  bình  đẳng, không nhất thiết  phải  thờ phượng  nhau, nhưng  trên hết và trước hết là tìm kiếm nước Đức  Chúa Trời  và sự công bình của Ngài, nhiên  hậu sẽ được  Ngài băn thêm cho chúng ta mọi  điều khác nữa như lời Chúa Jesus Chris t phán được  ghi lại trong sách Tin Lành Ma-thi-ơ chương 6 câu 33. 

Joshua Huệ Nhật Nguyễn

Berlin lập thu 2007
 

Ghi chú: 

(1) Diễn dàn Báo Làng, Sacramento, tháng 11, năm 2001

(2) Living Buddha, Living Christ – Thích Nhất Hạnh, Paris 1999 (3)  Khởi Tín Luận, trang 9, nxb tp Hồ Chí Minh-1994

(4) The Discovery of Genesis – How the Truth of Genesis were found Hidden in the ChineseLanguage,  tác giả  C.H  Kang  và Ethel  R.  Nelson,  nhà xuất bản CONCORDIA/SAINT LOUIS
Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...