Đức tin đến bởi sự người ta nghe, mà người ta nghe, là khi lời của Đấng Christ được rao giảng.

September 18, 2012

Dẫn Vào Thần Học - Chương III

Chương III

DẪN VÀO TÌM HIỂU TÂN ƯỚC
Jeffrey S. Siker
Các bản văn Tân Ước diễn tả sự dấn thân trong đức tin của các cộng đoàn Kitôhữu sơ khai. Các bản văn ấy kể cho chúng ta nhiều điều về cách thế và lý do các cộng đoàn Kitô giáo được hình thành, về những thăng trầm được kinh nghiệm bởi vài thế hệ Kitôhữu đầu tiên, về đặc điểm của đức tin và của những thực hành nơi các Kitôhữu sơ khai. Điểm thống nhất nhất của các bản văn này là ở chỗ các tác giả khác nhau đã cố gắng diễn tả niềm tin của họ rằng Đức Giêsu Nadarét là Đấng Kitô, là Mêsia, là Con Thiên Chúa, là Đấng mà Thiên Chúa sai đến để đem ơn cứu độ cho dân của Ngài. Các bản văn Tân Ước khác nhau đều xoay quanh kinh nghiệm này, đức tin này và sự nhận hiểu này về Đức Giêsu như chóp đỉnh và kiểu thức của hiện sinh con người trong bối cảnh Do Thái giáo vào thế kỷ đầu tiên.


Mặc dù nói chung những bản văn này chia sẻ một nhãn giới chung về địa vị trung tâm và ý nghĩa của Đức Giêsu, chúng cũng có những cái nhìn khác nhau về căn tính của Đức Giêsu và về ý nghĩa của đức tin Kitô giáo. Xét như một toàn thể, Tân Ước có thể được xem như một bức ảnh ghép nghệ thuật, với những hình ảnh trùng khớp nhau nhưng cũng phân biệt nhau. Vì thế, cũng như các Sách Thánh Do Thái, Tân Ước được hiểu tốt nhất như một sưu tập các “sách” khác nhau hơn là như một quyển sách độc nhất, ngay cả dù các bản văn này đều có cùng mối quan tâm đến ý nghĩa của niềm tin vào Đức Giêsu là Đấng Kitô, là Con Thiên Chúa. Nói tóm, thật quan trọng cần phải nhớ rằng các Sách Tân Ước đã được viết bởi những con người khác nhau vào những thời gian khác nhau trong những hoàn cảnh rất đa dạng của đời sống Giáo Hội sơ khai.
CÁC SÁCH CỦA TÂN ƯỚC
Chúng ta có thể bắt đầu với một cái nhìn toàn cục về Tân Ước xét như một toàn thể. Trước khi đọc tiếp những trang này, xin bạn lấy quyển Thánh Kinh của bạn ra và lật tới chỗ bắt đầu phần Tân Ước. Nếu bạn chưa quen thuộc lắm với các sách khác nhau của Tân Ước, và ngay cả dù bạn có quen thuộc rồi, tôi vẫn tin rằng thật là hữu ích việc bạn lần lượt lật tới những bản văn khác nhau mà chúng ta sẽ đề cập đến cách vắn tắt ở đây. Tân Ước bao gồm 27 quyển sách. Nói chung, những bản văn Tân Ước thuộc hoặc phạm trù này hoặc phạm trù kia trong ba phạm trù sau đây:
Các Sách Phúc Âm
Có 4 sách Phúc Âm: Matthêu , Máccô, Luca, và Gioan. Ba quyển Phúc Âm đầu tiên (Matthêu , Máccô, Luca) thường được gọi là các “Phúc Âm nhất lãm”. Từ “nhất lãm” (synoptic) có gốc ở tiếng Hi Lạp, nghĩa là “cùng nhìn sự vật theo một kiểu”. Và ba quyển Phúc Âm này rất giống nhau trong nhiều phương diện. Chúng có rất nhiều yếu tố trùng hợp, chúng chứa nhiều lời nói giống nhau của Đức Giêsu và kể nhiều câu chuyện giống nhau về Đức Giêsu, thường giống nhau về cả từ ngữ. Như chúng ta sẽ thấy, những nét tương đồng đầy ấn tượng ấy giữa ba quyển Phúc Âm này biểu lộ một mối tương quan chặt chẽ với nhau về văn chương.
Phúc Âm Gioan là quyển Phúc Âm thứ tư; nó hoàn toàn khác với các Phúc Âm nhất lãm. Phúc Âm Gioan có rất ít lời nói và câu chuyện mà chúng ta gặp thấy trong các Phúc Âm nhất lãm. Thật vậy, trong Phúc Âm Gioan, chúng ta có một hình ảnh hoàn toàn khác về Đức Giêsu.
Các Thư
Có 21 Thư trong Tân Ước, trong đó một số đọc nghe giống “thư” hơn một số khác. Các Thư có thể được chia thành hai nhóm chính: (1) các Thư của Phaolô, và (2) các Thư khác, thường được gọi là “các thư chung” – ngoại trừ Thư Do Thái.
Các Thư Phaolô
Có 13 Thư được gán cho Phaolô. Tuy nhiên, đa số các học giả đồng ý rằng thật sự Phaolô đã không viết tất cả các Thư này, và một số trong các Thư này đã được viết nhân danh Phaolô vào thời gian Phaolô đã qua đời. Như vậy, có một số Thư “không còn gây tranh cãi” (hầu như mọi người đều đồng ý rằng Phaolô đã viết), và một số Thư khác vẫn “còn gây tranh cãi” (nhiều học giả đồng ý rằng Phaolô đã không viết chúng).
Có 7 Thư “không còn gây tranh cãi”, đó là: Rôma, 1 và 2 Côrinthô, Galát, Philipphê, 1 Thêsalônica, và Philêmôn (xin tham khảo bản đồ số 3 ở cuối sách). Đây là những Thư chủ yếu được dùng để tìm hiểu đời sống và các nhãn quan thần học của Phaolô.
Có 6 Thư gây tranh cãi: Eâphêsô và Côlôsê (thường được xem xét cùng với nhau), 1 và 2 Timôthê và Titô (3 Thư này được gọi là các Thư Mục Vụ), và 2 Thêsalônica. Các lý do chính yếu của sự tranh cãi về vai trò tác giả của Phaolô đối với những Thư này là từ ngữ, phong cách rõ ràng khác biệt của chúng, và nhất là các nhãn quan thần học của chúng khi đối chiếu với các Thư không gây tranh cãi của Phaolô. Đa số các học giả có khuynh hướng sử dụng những Thư này để nhận hiểu những sự phát triển nơi Kitô giáo sơ khai sau khi Phaolô qua đời. Việc tranh cãi về vai trò tác giả của Phaolô đối với những Thư này không nhất thiết có nghĩa là tranh cãi về thẩm quyền của những Thư này trong Tân Ước.
Thư Do Thái
Đầu tiên, nhiều Kitôhữu sơ khai gán Thư này cho Phaolô, một phần bởi vì mục đích mà Thư này nhắm đến. Nhưng rồi chẳng mấy chốc người ta nhận thấy rõ rằng Phaolô đã không viết Thư Do Thái, bởi vì Thư này rất khác so với bất cứ đặc điểm nào mà chúng ta ghi nhận được nơi Phaolô. Thư Do Thái cũng không hoàn toàn là một lá thư (dù nó có mục đích của một lá thư), nhưng nó có vẻ thuộc loại một bài giảng được viết ra hơn nhằm khích lệ một số Kitôhữu đang trở nên chán nản trong đức tin của họ.
Các Thư Chung
Thuật ngữ “chung” ở đây có nghĩa là “phổ quát”. So sánh với các Thư khác trong Tân Ước, các Thư Chung tương đối ngắn hơn. Có 7 Thư Chung: Giacôbê, 1 và 2 Phê-rô, 1, 2 và 3 Gioan, và Giuđa. Chúng ta biết tương đối ít về tác giả, thời gian và nơi biên soạn của các Thư này. Đa số các học giả cho rằng các Thư Giacôbê, 1 Phê-rô, 1 Gioan là những Thư quan trọng nhất trong các Thư Chung.
Các Tác Phẩm Khác
Ngoài ra, còn hai văn liệu không thể xếp vào loại Phúc Âm hay Thư. Đó là Sách Công Vụ Tông Đồ và Sách Khải Huyền. Công Vụ Tông Đồ thường được xem là sử liệu đầu tiên của Giáo Hội được viết ra, vì nó nói về câu chuyện của Giáo Hội sơ khai sau cuộc Phục Sinh và lên trời của Đức Giêsu. Thật vậy, không kề ngẫu nhiên việc Giáo Hội sơ khai đặt quyển Công Vụ Tông Đồ ngay sau các sách Phúc Aâm. Công Vụ Tông Đồ được viết bởi cùng tác giả đã viết Phúc Âm Luca. Nếu bạn so sánh phần mở đầu của Phúc Âm Luca với phần mở đầu của Công Vụ Tông Đồ, bạn sẽ thấy rằng cả hai đều được viết cho một người có tên là “Thêôphilô”, và rằng Công Vụ Tông Đồ gọi Phúc Âm Luca là “quyển sách thứ nhất”. Cái tựa “Công Vụ các Tông Đồ” có thể gây hiểu nhầm, bởi vì sách này nói nhiều đến các lời nói hơn là các hoạt động, và nó tập chú hầu như đặc biệt đến Phê-rô và nhất là Phaolô hơn so với các Tông Đồ khác. Phê-rô được mô tả là người mang sứ điệp Tin Mừng đến cho người Do Thái trong Sách Công Vụ Tông Đồ từ chương 1-5, và là người đã khởi đầu công cuộc truyền giáo cho các dân ngoại ở chương 10-11. Phao-lô, có thể được xem như nhân vật chính của Luca trong sách Công Vụ Tông Đồ, được trao sứ mạng, ở chương 9, để rao giảng cho các dân ngoại; bấy giờ Luca đi theo các hành trình truyền giáo của Phao-lô trong các chương 13-28.
Cuối cùng, sách Khải Huyền được xếp vào loại “khải huyền” hơn là Phúc Âm hay Thư. Một bản văn khải huyền là một loại văn viết về một mạc khải các mầu nhiệm thiêng liêng của Thiên Chúa, thường dưới dạng những thị kiến ly kỳ kèm với những nhân vật lạ lùng trên trời hay dưới địa ngục. Văn chương khải huyền thường phát triển vào các thời kỳ bách hại gay gắt, những giai đoạn mà người tín hữu băn khoăn không biết bằng cách nào mình có thể kiên vững cho đến khi Thiên Chúa khải thắng. Văn chương khải huyền cố gắng khích lệ các tín hữu bằng những thị kiến siêu phàm hứa hẹn với họ về chiến thắng cuối cùng của Thiên Chúa trên các quyền lực của sự dữ, và bảo đảm với các tín hữu rằng chiến thắng này sẽ xảy ra sớm. Mặc dù sách Khải Huyền là văn liệu duy nhất của Tân Ước thuộc văn chương khải huyền, nhiều bản văn khác của Tân Ước cũng có những sắc thái khải huyền, chẳng hạn Mc 13 và 1 Tx 4.
SỰ HÌNH THÀNH QUI ĐIỂN TÂN ƯỚC
Sau khi đã có một ý niệm nào đó về nội dung của Tân Ước, chúng ta có thể tự hỏi tại sao Tân Ước mang dáng dấp như thế. Tại sao lại 4 Sách Phúc Âm? Tại sao lại 13 Thư được gán cho Phao-lô? Tại sao lại là Sách Công Vụ Tông Đồ, Sách Khải Huyền, và các Thư khác? Bộ sưu tập này đã được hình thành như thế nào? Dù có muốn đơn giản hóa vấn đề đến mấy, chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng việc hình thành qui điển Tân Ước đã diễn ra qua 4 giai đoạn chính.
Đầu tiên, một tác giả viết một văn liệu và một nhóm người (không đông lắm) đọc văn liệu ấy. Chẳng hạn, Phao-lô đã viết lá thư mà chúng ta gọi là Thư 1 Thêsalônica cho các Kitôhữu ở thành Thêsalônica; những người này đọc lá thư của Phao-lô và gìn giữ nó. Thật vậy, trong 1Tx 5,27, Phao-lô viết: “Nhân danh Chúa, tôi yêu cầu đọc thư này cho tất cả các anh em”.
Giai đoạn thứ hai, văn liệu sẽ được sao chép và lưu hành. Bởi vì thời đó chưa có máy photocopy hay máy in, nên tiến trình này có thể đòi một số thời gian. Như vậy, chúng ta có thể hình dung rằng một số người nào đó ở Thêsalônica đã sao chép lá thư của Phao-lô, có lẽ sau khi Phao-lô đã qua đời, và đem đến cho một số Kitôhữu ở Côrinthô, nhằm mục đích chia sẻ với họ những gì mà Phao-lô đã viết cho mình. Về phần mình, một số Kitôhữu ở Côrinthô rất có thể cũng chia sẻ những bản sao các Thư mà Phao-lô đã viết cho họ. Tiến trình tương tự cũng đã diễn ra với các sách Phúc Âm và các tác phẩm khác của Tân Ước.
Giai đoạn thứ ba, các cá nhân và các cộng đoàn Kitôhữu khác nhau bắt đầu sưu tập và tuyển lựa giữa nhiều văn liệu Kitô giáo đã được sao chép và lưu hành. Dường như vào khoảng giữa năm 150 và 200, tức 100 năm sau khi phần lớn các văn liệu Tân Ước được viết ra, một sưu tập 4 Sách Phúc Âm đã xuất hiện, và phần lớn các Thư của Phao-lô lúc ấy đã được tập hợp vào một tuyển tập các Thư.  Những văn liệu có nhiều ảnh hưởng khác cũng thường được gộp theo các tác phẩm nói trên. Chẳng hạn, các thư Barnaba và 1 Clement được phổ biến rất đáng kể vào thế kỷ thứ 2, cùng với nhiều văn liệu khác nữa.
Vậy thì làm sao quyết định văn liệu nào là có thẩm quyền đối với đức tin và thực hành Kitô giáo? Có được một sưu tập các văn liệu chung mà mọi Kitôhữu đều có thể dùng, đó là một nhu cầu được cảm thấy. Làm sao để tuyển chọn? Ít ra chúng ta cũng có thể nêu một số tiêu chuẩn được vận dụng vào công việc lựa chọn này. Tiêu chuẩn thứ nhất là “tính tông đồ”, nghĩa là phải chăng văn liệu đã được viết bởi một trong các tông đồ, một người đã tham gia vào hoạt động Kitô giáo ngay từ thuở ban sơ nhất? Như vậy, Phúc Âm Matthêu – chẳng hạn – được xem là có thẩm quyền bởi vì truyền thống cho rằng Matthêu  là một trong nhóm 12 môn đệ, tức một trong các tông đồ. Phúc Âm Máccô là văn liệu có thẩm quyền vì truyền thống cho rằng Máccô là thư ký của Phê-rô, Máccô đã viết những gì Phê-rô yêu cầu ông viết.
Dù Phao-lô không phải là một trong 12 môn đệ và có lẽ đã không bao giờ gặp Đức Giêsu, ông cũng được xem là một tông đồ dựa vào tường thuật rằng ông đã có một thị kiến về Đức Giêsu Phục Sinh. Một tiêu chuẩn khác, có tính thực tiễn hơn, để tuyển chọn giữa nhiều văn liệu khác nhau – đó là việc sử dụng: Văn liệu đó có được sử dụng rộng rãi hay không? Một tiêu chuẩn khác nữa, đòi thẩm định tế nhị hơn, đó là một văn liệu có củng cố và thăng tiến cộng đoàn đức tin hay không, nó có diễn tả đích thực đức tin của cộng đoàn hay không. Mặc dù những yếu tố khác nữa cũng đóng góp vào quá trình tuyển chọn, song những tiêu chuẩn vừa kể trên là quan trọng nhất.
Giai đoạn thứ tư và cuối cùng, đó là các sưu tập khác nhau của các văn liệu Tân Ước nhận được sự chuẩn nhận chính thức của các vị lãnh đạo Giáo Hội và của các Công Đồng thời Giáo Hội sơ khai. Nghe có vẻ hơi lạ, nhưng lần đầu tiên chúng ta tìm thấy một danh mục chính thức những văn liệu thuộc về Tân Ước đúng y như bộ Tân Ước của chúng ta hôm nay là mãi cho đến năm 367, khi một giám mục quan trọng của thế kỷ thứ 4 có tên là Athanasiô, trong một lá thư gửi cho các giáo đoàn của ngài, đã qui định rằng chỉ những văn liệu này mới có thẩm quyền để được coi là Sách Thánh. Ngay cả sau thời này, vẫn tiếp tục có những bất đồng tại các miền khác nhau về vấn đề một số văn liệu nào đó có thuộc về Tân Ước hay không, nhất là về Sách Khải Huyền, Thư Do Thái, 2 Phê-rô, 2 và 3 Gioan, và Giuđa. Như vậy, mặc dù các văn liệu Tân Ước đã được viết trong một thời gian tương đối ngắn, cũng đã mất vài thế kỷ để có thể đi đến sự đồng ý rộng rãi về vấn đề một cách chính xác những văn liệu nào thuộc về Tân Ước.
LỊCH SỬ CỦA TRUYỀN THỐNG
Một phần của công việc nghiên cứu Tân Ước chính là việc tìm hiểu cách chung mỗi bản văn đã được hình thành như thế nào. Có phải Matthêu chỉ đơn giản ngồi xuống và viết sách Phúc Âm của mình ra? Hay ông có tham khảo các nguồn? Tại sao trong Phúc Âm Máccô, Đức Giêsu nói: “Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình” (Mc 10,11), còn trong Phúc Âm Matthêu thì Đức Giêsu nói: “Ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình” (Mt 19,9)? Thật sự câu nói nào là của Đức Giêsu? Hay là Người đã nói cả hai câu đó? Hay Matthêu đã thêm mấy chữ “ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp”? Và nếu Matthêu đã thêm như vậy, thì tại sao?
Có được một nhận hiểu về các giai đoạn khác nhau và các tầng khác nhau trong quá trình chuyển tiếp các truyền thống Kitô giáo sơ khai, điều đó có thể giúp ích rất nhiều cho việc trả lời nhiều câu hỏi về Tân Ước, nhất là về các Sách Phúc Âm. Có 7 giai đoạn chủ yếu trong lịch sử của truyền thống, và nhiều công cụ phân tích khác nhau đã được phát triển để làm việc với mỗi trong các giai đoạn đó. Xét một cách toàn bộ, những công cụ này thường được gọi là phương pháp luận “phê bình lịch sử”, bởi vì những công cụ này tập chú đến lịch sử của các truyền thống trong Tân Ước. Chúng ta sẽ xem xét mỗi giai đoạn và mỗi công cụ phê bình tương ứng.
Biến Cố Lịch Sử và Khoa Phê Bình Lịch Sử
Điều đầu tiên xảy ra là một biến cố. Đức Giêsu, Phao-lô, một người nào đó,… nói gì đó hay làm gì đó. Mặc dù thuật ngữ “phê bình lịch sử” được dùng để mô tả các công cụ phân tích nói chung, nó cũng mô tả một trong những công cụ chuyên biệt. Nói nôm na, theo ý nghĩa chuyên biệt của nó, phê bình lịch sử là việc các học giả cố gắng xác định chính xác hết sức có thể điều gì đã xảy ra. Chẳng hạn, trong Phúc Âm Gioan, việc “thanh tẩy Đền Thờ” (trong đó Đức Giêsu xua đuổi những người buôn bán ở sân Đền Thờ) là một trong những việc đầu tiên mà Đức Giêsu đã làm trong sứ vụ công khai của Người (Ga 2,13-17). Nhưng trong các Phúc Âm nhất lãm, việc thanh tẩy Đền Thờ là một trong những biến cố cuối cùng của sứ vụ công khai của Đức Giêsu (Mt 21,10-17; Mc 11,15-17; Lc 19,45-46). Đàng nào đúng? Như vậy, mục đích của phê bình lịch sử là đạt được một bức tranh rõ nhất có thể về các biến cố.
Một trong những vấn đề được tranh cãi nhiều nhất là vấn đề con người Giêsu lịch sử thật sự như thế nào. Nếu chúng ta có một băng video ghi lại cuộc đời của Đức Giêsu, thì cuốn phim ấy sẽ như thế nào? Trong mức độ nào các Sách Phúc Âm kể cho chúng ta về Đức Giêsu của lịch sử, nhất là vì các Sách Phúc Âm đã được viết ra để rao giảng niềm tin rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa và Người đã chết và đã được phục sinh từ cõi chết? Một sử gia có thể hiểu các trình thuật trong sách Phúc Âm theo giá trị bề ngoài của nó hay không? Các Sách Phúc Âm chuyên chở những thông tin lịch sử nào và người ta phải đánh giá tính xác thực của chúng như thế nào? Một điều mà đa số các học giả đồng ý, đó là việc công bố về vương quốc của Thiên Chúa là trọng tâm sứ vụ của Đức Giêsu lịch sử (và của Đức Giêsu được khắc họa trong các Sách Phúc Âm; chẳng hạn, Mt 4,17; 13,24-33; Mc 1,14-15), mặc dù người ta tranh cãi không ít về chuyện Đức Giêsu muốn nói gì khi nói vương quốc Thiên Chúa. Như vậy, các học giả sử dụng phương pháp phê bình lịch sử để cố gắng tái lập lại các biến cố lịch sử, nhất là những biến cố liên quan tới đời sống của Đức Giêsu.
Phương pháp phê bình lịch sử cũng đặc biệt chú ý tới các bối cảnh lịch sử, xã hội và tôn giáo trong đó các văn liệu khác nhau của Tân Ước đã được viết ra. Chúng ta thử nhìn thoáng qua một số bối cảnh như thế. Hầu như tất cả các văn liệu Tân Ước đã được viết vào thế kỷ thứ 1 sau công nguyên, thời gian mà đế quốc Rôma tiến gần tới đỉnh cao quyền lực của nó. Đây cũng là một thời gian căng thẳng trầm trọng giữa người Do Thái ở Palestine và người Rôma – là những người vừa mới chinh phục vùng đất này và cai trị một cách khắt khe. Những căng thẳng này đã làm phát sinh một cuộc nổi dậy của người Do Thái chống lại Rôma vào năm 66 sau công nguyên, leo tới đỉnh điểm là năm 70, với việc người Rôma thôn tính Giê-ru-sa-lem và tàn phá Đền Thờ, biểu tượng chính yếu của căn tính Do Thái. Vì các Kitôhữu sơ khai tự xem mình – cũng như được nhìn bởi những người khác – chủ yếu là một nhóm nhỏ (có người gọi là một giáo phái) của Do Thái giáo, nên các biến cố trong lịch sử Do Thái vào thế kỷ thứ 1 cũng có một tác động quan trọng đối với sự phát triển của Kitô giáo. Tất cả các Kitôhữu đầu tiên đều là người Do Thái. Thật vậy, chúng ta không được phép quên rằng Đức Giêsu là một người Do Thái giáo, chứ không phải là một người Kitôgiáo gì cả! 
Có hai yếu tố chính yếu góp phần tách biệt Kitô giáo ra khỏi Do Thái giáo. Thứ nhất, người Kitôhữu tuyên nhận rằng Đức Giêsu là Đấng Mêsia, là Đấng Kitô, và điều này là cớ vấp phạm cho nhiều người Do Thái. Mối kỳ vọng của Do Thái giáo là Đấng Kitô sẽ giải phóng dân Do Thái khỏi sự thống trị của người Rôma, và mở ra vương quốc của Thiên Chúa. Nhưng Đức Giêsu đã không đáp ứng những kỳ vọng này. Người không chỉ đã không quật ngã người Rôma, mà trái lại người Rôma đã xử tử Người! Và Người không chỉ đã chết, mà đó còn là một cái chết đầy sỉ nhục trên thập giá! Làm sao người ta có thể tin vào một Đấng Mêsia bị đóng đinh thập giá? Và rồi các Kitôhữu đầu tiên đã nói rằng Thiên Chúa đã phục sinh vị Mêsia thất bại này từ cõi chết, và rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng đã chết cho mọi người. Nhìn từ một nhãn quan Do Thái thì đây là những khẳng định hết sức kỳ cục và phạm thượng.
Thứ hai, ngay từ khá sớm, làn sóng Kitô giáo đã lan tràn tới các dân ngoại, tức những người không phải là Do Thái. Một câu hỏi sừng sững được đặt ra, gây nên một sự rạn nứt lớn trong Kitô giáo sơ khai, đó là phải chăng các Kitôhữu dân ngoại cần phải tuân giữ luật Do Thái mà Thiên Chúa đã mạc khải trong các sách thánh Do Thái giáo, gồm cả những qui định nghiêm ngặt về kiêng khem, việc tuân giữ ngày Sabát, và nhất là việc cắt bì. Nói nôm na, người ta có phải trở thành một người Do Thái để có thể trở thành một Kitôhữu hay không? Bạn có thể gặp thấy một số tranh cãi quyết liệt về vấn đề này trong Cv 15 và trong Gl 1-2. Mặc dù nhiều Kitôhữu vẫn tiếp tục giữ các thực hành theo nghi lễ Do Thái, sự quyết định cuối cùng vẫn là những người gốc dân ngọai không cần phải cắt bì để trở nên Kitôhữu – đây là vấn đề tranh cãi nẩy lửa nhất (x. ghi nhận của Phao-lô trong Gl 5,11-12).
Quyết định này đã dàn xếp các căng thẳng giữa người Do Thái và các Kitôhữu, nhất là với sự tàn phá Đền Thờ Do Thái. Nhưng khi các Kitôhữu quay lưng lại không giữ luật Do Thái nữa, thì đó là lúc người Do Thái đang nhấn mạnh hơn đến việc tuân giữ Lề Luật nhằm cố gắng tái lập căn tính Do Thái sau biến cố Đền Thờ bị hủy diệt. Những căng thẳng gay gắt giữa Kitô giáo và Do Thái giáo thời ấy có thể được ghi nhận rải rác trong toàn bộ Tân Ước, nhất là trong các bản văn của Phao-lô và trong các Phúc Âm Matthêu và Gioan. Chúng ta đã thấy những gì mà khoa phê bình lịch sử giúp chúng ta nhận thấy. Như vậy, khoa phê bình lịch sử quan tâm tới những biến cố lịch sử và tầm quan trọng của chúng trong việc giúp chúng ta nhận hiểu các bản văn Tân Ước.
Truyền Thống Truyền Khẩu Và Khoa Phê Bình Văn Loại
Sau khi biến cố xảy ra, người ta nói về biến cố. Chẳng hạn, người ta đề cập đến những gì Đức Giêsu đã nói và đã làm khi Người thanh tẩy Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Những trình thuật này được lặp đi lặp lại. Nhưng chúng không chỉ được lặp đi lặp lại, mà các câu chuyện còn được gắn kết vào với các câu chuyện khác nữa, các truyền thống được hình thành và mặc lấy nhiều thể loại khác nhau. Như thế, cũng như chúng ta có nhiều thể loại chuyện truyền khẩu khác nhau – chuyện trào phúng, thơ vè, … thì cũng vậy trong Kitô giáo sơ khai, các lời nói của Đức Giêsu và các câu chuyện về Người được lặp đi lặp lại và được tổng hợp trong nhiều thể loại khác nhau: những dụ ngôn, những lời nói được nhớ lại, những câu chuyện phép lạ, vv… Công cụ phê bình được lập ra để khám phá và phân tích những truyền thống truyền khẩu khác nhau này chính là phương pháp phê bình văn loại. Mục đích của khoa phê bình văn loại là dò tìm đàng sau các văn liệu được ghi chép mà ta có trong tay để khảo sát cách mà truyền thống truyền khẩu đã được hình thành và được chuyển trao.
Cách riêng, phương pháp phê bình văn loại nhằm tìm cách xác định những hoàn cảnh lịch sử đặc thù trong đó các truyền thống truyền khẩu được phổ biến, để khám phá xem các cộng đoàn Kitôhữu sơ khai đã sử dụng chúng như thế nào. Một ví dụ rất rõ ràng về truyền thống truyền khẩu có thể được tìm thấy trong một lá thư được viết bởi Phao-lô, đó là bản văn 1Cr 15,3-5. Ở đây, để mô tả sứ điệp cốt lõi của Tin Mừng, Phao-lô viết: “Tôi đã truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh, rồi người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã chỗi dậy, đúng như lời Kinh Thánh. Người đã hiện ra với ông Kêpha, rồi với Nhóm Muời Hai...” Hãy ghi nhận công thức giới thiệu của Phao-lô: “Tôi đã truyền lại…. điều mà tôi đã lãnh nhận”, qui chiếu đến một truyền thống truyền khẩu về sứ điệp Tin Mừng.
Truyền Thống Ghi Chép Và Khoa Phê Bình Nguồn Văn
Sau khi người ta truyền miệng cho nhau về các biến cố, các câu chuyện được viết ra. Những lời nói của Đức Giêsu trong Bài Giảng Trên Núi (Mt 5-7) xem ra là những truyền thống truyền khẩu riêng rẽ được viết lại cùng với nhau. Không chỉ một mình Matthêu biết về những lời nói được ghi chép này; cả Luca cũng biết, chứng cứ là cùng những chất liệu ấy được ghi lại phần nào trong Lc 6 và những chỗ khác trong Phúc Âm của Luca. Nhưng Phúc Âm Máccô không cho thấy chứng cứ gì về những truyền thống được ghi chép này. Vì thế, câu hỏi được đặt ra: Bằng cách nào Matthêu và Luca có trong tay cùng những tư liệu về các lời nói như thế? Các sách Phúc Âm ấy đã dùng những nguồn ghi chép nào? Mấy dòng mở đầu của Phúc Âm Luca cho thấy rõ ràng rằng Luca đã sử dụng nhiều nguồn tư liệu khác nhau: “Có nhiều người đã ra công biên soạn bản tường thuật những điều đã được thực hiện giữa chúng ta… Tôi cũng vậy … nên tuần tự viết ra” (Lc 1,1-3). Luca biết về những nguồn tư liệu ghi chép khác nhau, và ông vận dụng những nguồn này bằng cách kết hợp chúng với nhau thành bản trình thuật Phúc Âm của riêng mình. Chúng ta có lý để giả đoán rằng Matthêu cũng đã viết một cách tương tự. (Thật vậy, tất cả các văn sĩ Tân Ước đều sử dụng các Sách Thánh Do Thái như một nguồn tư liệu ghi chép, và chúng ta gặp thấy nhiều trích dẫn từ các Sách Thánh Do Thái trong Tân Ước.)
Vậy chúng ta có thể đẩy câu hỏi trên xa thêm chút nữa. Phải chăng tác giả Gioan đã sử dụng các nguồn tư liệu khác? Phải chăng Phao-lô đã sử dụng các truyền thống ghi chép khi ông viết các Thư của mình?  Đây là những câu hỏi được nêu ra bởi khoa phê bình nguồn văn. Các học giả dùng phương pháp phê bình nguồn văn để xác định vấn đề một tác giả có sử dụng các truyền thống tư liệu ghi chép hay không, và nếu có, thì có thể mô tả thế nào về các nguồn tư liệu ghi chép ấy.
Một vấn đề đặc biệt đặt ra cho khoa phê bình nguồn văn một câu hỏi, đó là vấn đề về mối quan hệ văn chương giữa các Phúc Âm nhất lãm. Tại sao ba quyển Phúc Âm này giống nhau đến thế nhưng đồng thời cũng khác nhau đến thế? Ngày nay đại đa số các học giả đã đi đến chỗ nhất trí rằng Phúc Âm Máccô là quyển Phúc Âm đầu tiên được viết ra, và rằng Phúc Âm Máccô được hai tác giả Matthêu và Luca sử dụng một cách độc lập như một nguồn tư liệu ghi chép. Matthêu và Luca cũng sử dụng một “nguồn các lời nói” gọi là nguồn “Q” (do từ “Quelle” trong tiếng Đức, có nghĩa là “nguồn” – ta ghi nhận rằng nhiều học giả nghiên cứu Tân Ước vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 là những người Đức). Sự nhất trí này được gọi là “giả thuyết hai nguồn”. Như vậy, mối quan hệ văn chương giữa các Phúc Âm nhất lãm có thể được minh họa như sau:    

Cả Matthêu và Luca đều độc lập sử dụng nguồn Máccô và nguồn “Q” để biên soạn sách Phúc Âm của mình.
Việc Hiệu Chỉnh Các Truyền Thống Và Khoa Phê Bình Biên Soạn
Sau khi các truyền thống truyền khẩu và ghi chép đã được sưu tập, một tiến trình biên tập diễn ra trong đó một tác giả kết hợp các mảng truyền thống khác nhau (cả truyền khẩu lẫn ghi chép) để hình thành một toàn thể gắn kết thống nhất, một trình thuật được giãn rộng ra. Tác giả đang làm công việc định hình cho các truyền thống. Thật đáng ghi nhận, mỗi tác giả định hình các truyền thống nhằm để nói với một nhóm người cụ thể với những mối quan tâm cụ thể và vào thời gian và nơi chốn cụ thể. Như vậy, các mối quan tâm và các khuynh hướng thần học của mỗi tác giả có thể được nhận ra qua cách mà họ hiệu chỉnh các nguồn.
Phương pháp phê bình biên soạn tìm cách biện phân cách thức mà mỗi tác giả đã hiệu chỉnh các truyền thống mà họ sử dụng, nhất là các truyền thống tư liệu ghi chép. Các học giả không chỉ sử dụng khoa phê bình biên soạn để tìm hiểu những điểm nhấn mạnh đặc biệt trong quá trình hiệu chỉnh, mà họ còn sử dụng phương pháp này để khám phá hoàn cảnh cuộc sống riêng của tác giả và điểm quan tâm ưu tiên của tác giả về mặt thần học. Nhưng luôn cần nhớ: khoa phê bình biên soạn phục vụ tốt nhất khi chúng ta biết các nguồn mà một tác giả đã sử dụng. Chẳng hạn, các học giả chuyên về phân tích quá trình biên soạn của các Phúc Âm nhất lãm nói chung giả định giá trị của “giả thuyết hai nguồn”. Điều này có nghĩa rằng việc phân tích quá trình biên soạn của Matthêu và Luca tựa trên nền tảng tương đối chắc chắn, vì phần đông các học giả đều đồng ý rằng Matthêu và Luca đã sử dụng nguồn Máccô và nguồn “Q”. Nhưng phương pháp phê bình biên soạn sẽ trở nên rắc rối hơn khi phân tích Sách Phúc Âm của Máccô và Gioan, vì người ta vẫn còn tranh luận nhiều về vấn đề chính xác đâu là các nguồn tư liệu ghi chép mà hai tác giả này đã sử dụng.
Một ví dụ tốt minh họa cách làm việc của khoa phê bình biên soạn có thể được gặp thấy nơi câu chuyện Đức Giêsu khải hoàn vào Giê-ru-sa-lem, được tường thuật ở Mt 21,1-9; Mc 11,1-10, và Lc 19,28-40. Ba bản văn được in song song như sau:

Khi chúng ta so sánh bản văn của Matthêu với bản văn Máccô, có thể thấy rõ một số nét. Trước hết, hãy chú ý rằng trong Mc 11,2, Đức Giêsu bảo các môn đệ rằng họ sẽ gặp thấy « một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ, đang cột sẵn đó. Các anh cởi dây ra và đem nó về đây. » Trái lại, trong Mt 21,2, Đức Giêsu bảo các môn đệ rằng họ sẽ gặp thấy « một con lừa mẹ đang cột sẵn đó, có con lừa con bên cạnh. Các anh cởi dây ra và dắt về cho Thầy. » Trong khi Máccô nhắc đến một con vật, thì Matthêu nhắc đến hai con. Hãy đọc tiếp Mc 11,7: « Hai ông đem con lừa về cho Đức Giê-su, lấy áo choàng của mình trải lên lưng nó, và Đức Giê-su cỡi lên. »  Hãy so sánh câu này với Mt 21,7: « Các ông dắt lừa mẹ và lừa con về, trải áo choàng của mình trên lưng chúng, và Đức Giê-su cỡi lên. » Đức Giêsu cỡi mấy con lừa trong Máccô? Một con. Còn trong Matthêu ? Hai con! Chúng ta hãy hình dung xem tại sao có chuyện lạ này!
Giả định rằng thuyết hai nguồn là đúng, vấn đề đặt ra là tại sao Matthêu đã đổi câu của Máccô và thêm vào một con vật nữa cho Đức Giêsu cỡi lên? Câu trả lời có thể được tìm thấy nơi một sự khác biệt đáng ghi nhận nữa giữa Matthêu và Máccô. Hãy ghi nhận rằng Mt 21,4-5 không có yếu tố song song trong các bản văn của Máccô và Luca. Matthêu đã thêm vào bản văn của mình những lời nói trích từ Sách Thánh Do Thái, một cách chính xác là trích từ Isaia và Dacaria. Hãy đọc kỹ câu trích dẫn ở Mt 21,5: « Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ. » Theo nhãn quan của Matthêu, việc Đức Giêsu vào Giê-ru-sa-lem làm ứng nghiệm lời ngôn sứ trong Sách Thánh Do Thái nói về sự xuất hiện của một vị vua. Đối với Matthêu, Đức Giêsu chính là vị vua ấy, và Matthêu thêm trích dẫn này từ Sách Thánh Do Thái để nêu bật điều mình nhận định. Hơn thế nữa, Matthêu thay đổi câu chuyện mà ông mượn từ Máccô để cho Đức Giêsu cỡi trên hai con lừa chứ không phải chỉ một con, để cho sự ứng nghiệm chính xác lời Sách Thánh càng ấân tượng hơn. Tuy nhiên, Matthêu sử dụng bản dịch Hi Lạp của Sách Thánh Do Thái (gọi là Bản Bảy Muơi), bản dịch này – ở đây – bỏ nhỡ kỹ thuật song đối vốn rất phổ biến trong tiếng Do Thái. Trong kỹ thuật song đối này, một câu thường được diễn lại bằng một cách diễn đạt hơi khác – nghĩa là trong bản văn tiếng Do Thái, rõ ràng ở đây chỉ nói đến có một con vật mà thôi.
Như vậy, khoa phê bình biên soạn cho thấy mối quan tâm thần học của Matthêu là nhằm trình bày sự kiện Đức Giêsu hoàn thành một cách rõ rệt những điều Sách Thánh Do Thái đã nói trước. Chúng ta cũng có thể nhận thấy qua câu chuyện này sự nhấn mạnh của Matthêu về các gốc rễ Do Thái của Đức Giêsu, như sự bổ sung ở Mt 21,9 giúp làm sáng tỏ: « Hoan hô con Vua Đa-vít! » – trong khi Mc 11,9 chỉ nói: « Hoan hô! » mà thôi. Khoa phê bình biên soạn đôi khi có thể đòi hỏi đầu tư nhiều công phu, nhưng đây là công cụ rất có giá trị để làm lộ rõ những quan tâm thần học và hoàn cảnh lịch sử của các tác giả và của các cộng đoàn ẩn chứa đàng sau các bản văn Tân Ước.
Hình Thức Văn Chương Cuối Cùng Và Khoa Phê Bình Văn Chương
Sau khi kết thúc tiến trình hiệu chỉnh thì văn liệu đã đạt đến hình thức văn chương cuối cùng của nó. Mục đích của khoa phê bình văn chương là nhận hiểu hình thức văn chương cuối cùng của văn liệu. Để hiểu các đặc điểm riêng của mỗi bản văn, rất cần phải chú ý đến cách kết cấu của mỗi văn liệu. Bản văn được viết như thế nào? Nó dồn dập ở đâu và chậm rãi ở đâu? Cái cốt của bản văn làm việc như thế nào? Có những nhân vật nào và các nhân vật đó được phác họa như thế nào? Có một đỉnh điểm không – nếu có, thì tác giả trình bày cái đỉnh điểm ấy như thế nào? Các mảng khác nhau của văn liệu liên hệ với nhau như thế nào? Đâu là bối cảnh trực tiếp và đâu là bối cảnh văn chương rộng lớn hơn của mỗi phần trong cái toàn thể? Nói một cách đơn giản, khoa phê bình văn chương đặt ra những câu hỏi về văn chương để tìm hiểu mỗi bản văn. Nó tùy thuộc vào một số kết quả của các khoa phê bình lịch sử, văn loại, nguồn văn, và biên soạn, nhưng tiêu điểm thật sự của nó là hình thức văn chương cuối cùng của mỗi văn liệu. Một ví dụ từ Lc 4,16-30 sẽ minh họa cách mà phương pháp này làm việc. Chúng ta hãy bắt đầu bằng việc đọc chính bản văn.
Như bạn có thể nhận thấy, Lc 4,16-30 giới thiệu Đức Giêsu ở đầu sứ vụ công khai của Người. Đây quả là sự xuất hiện công khai lần đầu tiên của Đức Giêsu trong sứ vụ của Người, vì thế nó có một tầm quan trọng đặc biệt. Trước hết hãy xem cách mà Luca dựng cảnh. Đức Giêsu ở quê nhà Nadarét, tại hội đường vào ngày Sabát. Rồi Đức Giêsu đứng lên đọc Sách Ngôn sứ Isaia. Hãy ghi nhận cách mà Luca khoan thai mô tả hành động ở đây. Người đứng lên để đọc sách, Người nhận sách, người mở sách và đọc. Rồi Người gấp sách, trao lại quyển sách, rồi Người ngồi xuống. Luca đã kỹ lưỡng tạo ra một cấu trúc song song ở đây nhằm giúp nhấn mạnh bài đọc (= bài đọc Isaia). Có thể minh họa như sau:
Người đứng lên để đọc sách ——
      Người nhận sách ————
              Người mở sách ra ———–
                             Bài đọc Isaia
              Người gấp sách ———
      Người trao sách lại cho người giúp việc hội đường -
Người ngồi xuống ———–
Bài đọc Isaia đứng ở vị trí trung tâm của song đối này. Ở cuối câu 4,20, Luca tạm ngừng một lần nữa để bảo với chúng ta rằng « Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người ». Lời bình này tạo ra một cảm giác hồi hộp nôn nao chờ đón một cái gì đó. Đức Giêsu sẽ nói gì? Rồi, bây giờ mới đến những tiếng khá quen thuộc: « Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quí vị vừa nghe! » Rồi chúng ta được cho biết đám đông thính giả hết sức tán thành và thán phục (c.22). Nhưng câu chuyện lại có một lắt léo ngay sau đó. Trong câu 23 và 24, Đức Giêsu nói với họ: « Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình ». (Rõ ràng ở đây Luca coi Đức Giêsu là một ngôn sứ, một chủ đề thường được đề cập đến trong Sách Phúc Âm Luca.) Rồi sau đó, trong các câu 25-27, Đức Giêsu nhắc đến hai câu chuyện xưa trong các sách ngôn sứ để giải thích bài đọc Isaia về việc loan báo Tin Mừng cho người nghèo và giải phóng các tù nhân.
Cả hai câu chuyện đều qui chiếu đến các ngôn sứ Do Thái đã từng đem lại sự chữa lành cho những người không phải là Do Thái: Ngôn sứ Elia đối với bà góa ở Sarépta (vị ngôn sứ đã chữa lành cho con trai bà), và Elisa đối với Naaman người Syri (người được chữa lành khỏi bệnh phong cùi). Như vậy, điều được nhấn mạnh ở đây là Tin Mừng không đến với It-ra-en, nhưng là đến với dân ngoại; Tin Mừng không đến với đồng bào ở quê nhà, nhưng là đến với những người xa lạ. Bấy giờ, phản ứng của đám đông thay đổi cách đột ngột, từ thái độ tán thành và thán phục ở 4,22 sang thái độ tức giận và tìm cách ném Đức Giêsu xuống vực sâu! Chúng ta hãy chú ý đến sự mỉa mai ở đây. Ở đây Đức Giêsu mở đầu sứ vụ của Người trong một khung cảnh Do Thái: thị trấn Nadarét quê nhà của Người là một thị trấn của người Do Thái, trong một hội đường Do Thái, vào ngày Sabát của Do Thái, đọc Sách Thánh Do Thái. Và Luca khắc họa Đức Giêsu trong khung cảnh như  thế để làm gì? Ở đây, chính xác trong khung cảnh Do Thái này, Luca giới thiệu Đức Giêsu công bố sự bao gồm cả những người bị ruồng bỏ và những người ngoại giáo, một chủ đề thường xuyên được nhắc đến trong suốt Phúc Âm Luca và Sách Công Vụ Tông Đồ.
Như vậy, từ một nhãn giới văn chương, chúng ta có thể thấy cách mà Luca sử dụng bối cảnh, sự kết cấu và giòng chảy của câu chuyện  để thông đạt một cái gì đó về sự nhận thức của mình đối với Đức Giêsu.
Những Bản Sao Thuộc Hình Thức Văn Chương Cuối Cùng
Và Khoa Phê Bình Văn Tự
Cuối cùng, sau khi một văn liệu đã đạt được hình thức văn chương cuối cùng của nó, nó sẽ được sao đi chép lại. Ngoài việc sản xuất ra hàng trăm bản sao, quá trình này cũng sản xuất ra cả những sự khác biệt lớn nhỏ giữa các bản sao nữa. Thật vậy, trong tất cả những bản sao Tân Ước mà chúng ta có được, cả những bản đầy đủ lẫn những bản không đầy đủ, không hề có hai bản sao nào hoàn toàn giống y nhau. Khi chúng ta nói về văn bản Tân Ước, thì vấn đề đầu tiên phải đặt ra: đó là văn bản nào?
Phương pháp phê bình văn bản nhằm cố gắng thiết định bản văn nguyên thủy nhất và đáng tin cậy nhất của mỗi văn liệu. Bao lâu chưa có thể đạt được sự đồng ý về những gì mà bản văn thật sự nói, thì thật khó thảo luận về hình thức văn chương cuối cùng, về quá trình biên soạn, về các nguồn, các thể văn, và về các biến cố được nhấn mạnh. Vì thế, khoa phê bình văn bản là một phương pháp hơi thiên về kỹ thuật trong đó các học giả so sánh hàng ngàn bản sao viết tay khác nhau của các văn liệu Tân Ước, và cố gắng đi đến một bản văn được nhất trí chung. Một điều bạn cần biết: những bản văn Tân Ước mà chúng ta dùng ngày nay là những bản văn tổng hợp. Nghĩa là các học giả rút ra từ nhiều bản chép tay, tổng hợp thành một bản văn khả dĩ chấp nhận được và không hoàn toàn giống bất cứ bản thảo chép tay nào có sẵn. Quả thật, đó là một bản văn tổng hợp.
Hai ví dụ sau đây cho thấy cách mà khoa phê bình văn bản làm việc. Ví dụ thứ nhất là chương 22 của Phúc Âm Luca. Trong bản New Revised Standard Version của Tân Ước, Lc 22, 43-44 xuất hiện trong dấu ngoặc, ở cuối trang người ta tìm thấy một ghi chú cho biết: « những tài liệu cổ xưa khác thiếu hai câu 43 và 44 ». Ghi chú này cho chúng ta biết rằng nhiều bản thảo cổ xưa không có những câu này, và rằng có một sự tranh cãi nào đó về việc có nên bao gồm hai câu này vào Tân Ước hay không. Ví dụ thứ hai có ý nghĩa nhiều hơn, đó là chương 16 Phúc Âm Mác cô. Sau Mc 16,8 đa số các sách Tân Ước đều có một ghi chú về những phần kết khác nhau của Phúc Âm Máccô. Một số bản thảo chép tay tốt nhất và cổ xưa nhất của Phúc Âm Máccô chấm hết ngay tại 16,8 – với những người phụ nữ bỏ chạy khỏi mồ trống. Những bản thảo khác mở thêm một chút trước khi kết thúc, với bản tường thuật rằng các phụ nữ kể với Phê-rô những gì mà họ đã kinh nghiệm được và rằng « Chính Đức Giêsu sai họ ra đi, từ đông sang tây, rao giảng về ơn cứu độ đời đời » (NRSV). Nhiều bảo thảo khác có một đoạn kết thậm chí dài hơn, đó là 16,9-20 – kết thúc bằng những cuộc hiện ra của Chúa Giêsu Phục Sinh (không có trong những bản kết thúc chỗ 16,8). Đa số các học giả đồng ý rằng Phúc Âm Máccô nguyên thủy kết thúc chỗ 16,8 – với sự kiện mồ trống và không có tường thuật nào về những cuộc hiện ra của Chúa Giêsu Phục Sinh. Tùy theo kiểu kết thúc nào trong những kiểu trên, Phúc Âm Máccô sẽ có những khả năng hơi khác nhau. Như vậy, khoa phê bình văn bản là một công cụ quan trọng thiết định nên văn bản mà chúng ta sử dụng.
Để tóm tắt những gì vừa trình bày về lịch sử truyền thống, chúng ta có thể dùng minh họa sau đây. Biểu đồ này cho thấy những giai đoạn khác nhau của truyền thống mà chúng ta đã lược qua với những công cụ mà các học giả dùng để khảo sát mỗi tầng.
các bản sao của văn bản     ——     phê bình văn bản
hình thức cuối cùng của bản văn –  phê bình văn chương
hiệu chỉnh các truyền thống      —   phê bình biên soạn
các truyền thống ghi chép    —–      phê bình nguồn văn
các truyền thống truyền khẩu     —-  phê bình văn loại
biến cố     ———————–  phê bình lịch sử
Mỗi văn liệu Tân Ước đều có những tầng như trên của truyền thống và của việc chuyển trao, mặc dù khoa phê bình biên soạn và phê bình nguồn văn thường áp dụng cho các sách Phúc Âm nhiều hơn so với các Thư. Giờ đây chúng ta hãy có một khảo sát về các Sách Phúc Âm và các Thư của Phao-lô.
CÁC SÁCH PHÚC ÂM VÀ CÁC TÁC PHẨM CỦA PHAO-LÔ:
NHỮNG PHƯƠNG DIỆN KHÁC BIỆT
Các Sách Phúc Âm
Các Phúc Âm Nhất Lãm
Dù các Phúc Âm nhất lãm rất giống nhau, cũng có một số khác biệt quan trọng giữa chúng. Sau đây là một toát lược về một số đặc điểm của mỗi Sách Phúc Âm nhất lãm.
Phúc Âm Máccô
Chúng ta hãy bắt đầu bằng việc đọc các chương 1-3 và 11-16 trong Phúc Âm Máccô. Như chúng ta đã ghi nhận trên kia khi nói về truyền thống ghi chép và khoa phê bình nguồn văn, đa số các học giả đồng ý rằng Phúc Âm Máccô là Sách Phúc Âm nhất lãm cổ xưa nhất, có lẽ được viết vào khoảng cuối thập niên 60 hay đầu thập niên 70 của thế kỷ thứ nhất. Điểm nổi bật nơi việc Máccô phác họa Đức Giêsu là sự nhấn mạnh hai mặt: sức mạnh và đau khổ. Sức mạnh và quyền bính của Đức Giêsu có thể được nhận thấy trong 3 chương đầu. Ở đây Đức Giêsu thực hiện một số việc chữa trị: một người bị thần ô uế ám (1,1-28), nhạc mẫu của Phê-rô (1,29-31), một người phung cùi (1,40-45), một người bại liệt (2,1-12), một người đàn ông bại tay (3,1-6), và một người bị quỉ ám (3,20-27). Máccô không chỉ khắc họa Đức Giêsu như Đấng có quyền lực trên bệnh tật, mà Người cũng có quyền lực trên tội lỗi (2,10) và trên luật về ngày Sabát (2,28). Thêm vào đó, Người giảng dạy với uy quyền và bẻ gãy các lập luận của những người Pharisêu và các kinh sư (2,1-12.23-28).
Nhưng Máccô còn nhấn mạnh hơn nữa về Đức Giêsu trong tư cách người tôi tớ đau khổ của Thiên Chúa. Điều này có thể được nhận thấy rõ ràng trong các chương 8-10. Điểm quặt Phúc Âm Máccô là 8,27-33. Trong 8,27-30 Đức Giêsu hỏi các môn đệ xem các ông nghĩ Người là ai, Phê-rô trả lời: « Thầy là Đấng Kitô ». Dường như Phê-rô hiểu căn tính của Đức Giêsu. Nhưng ngay lập tức sau lời tuyên tín của Phê-rô, Máccô giới thiệu « lời báo trước cuộc khổ nạn » lần thứ nhất (tất cả gồm ba lần) – đồng thời Đức Giêsu dạy các môn đệ rằng « Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị khước từ bởi các kỳ lão, các thượng tế và các kinh sư, sẽ bị giết, và sau ba ngày Người sẽ sống lại » (8, 31). Mặc dù Phê-rô dường như hiểu căn tính của Đức Giêsu, ông đã quở trách Người, và điều này làm cho Đức Giêsu khiển trách ông: « Satan! Hãy lui lại đàng sau Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, nhưng là của người phàm » (8,33). Phần này (8,27-33) rất quan trọng, bởi vì ở đây Máccô cho thấy rằng sức mạnh đích thực của Đức Giêsu được thể hiện tuyệt đỉnh nhất nơi cái chết đau khổ của Người.
Máccô còn cho thấy Đức Giêsu báo trước cuộc khổ nạn của Người thêm hai lần nữa, trong 9,30-32 và 10,32-34 – mỗi lần đều trong bối cảnh các môn đệ tỏ ra tối dạ không hiểu. Chóp đỉnh xảy ra với cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu, mà tột điểm là lời tuyên xưng của viên đại đội trưởng dưới chân thập giá (15,39): « Quả thật người này là Con Thiên Chúa! ». Hãy chú ý tính mai mỉa ở đây. Một đại đội trưởng, tượng trưng cho quyền lực Rôma, lại nhìn nhận rằng con người Giêsu bị đóng đinh thập giá này (còn có tình cảnh nào bất lực hơn!) chính là Con Thiên Chúa. Như vậy, Máccô nhấn mạnh rằng sức mạnh đích thực được diễn tả nơi việc đảm nhận đau khổ của con người, như Đức Giêsu đảm nhận trên thập giá, và rằng làm môn đệ của Đức Giêsu có nghĩa là đồng hóa với Người trong sứ vụ diễn tả sức mạnh và tình yêu của Thiên Chúa bằng cách đảm nhận lấy đau khổ của con người.
Phúc Âm Matthêu 
Chúng ta hãy bắt đầu với Mt 5-7. Trong khi Matthêu vận dụng rất nhiều chất liệu của Máccô và cũng nêu bật ý nghĩa của sự đau khổ của Đức Giêsu, thì đồng thời Phúc Âm Matthêu cũng đặc biệt nhấn mạnh về Đức Giêsu như Môsê mới, như thầy dạy của luật mới, Đấng quan tâm đến thái độ bên trong của cá nhân người ta hơn là những hành động bên ngoài. Mối quan tâm này có thể được nhận thấy rõ ràng trong Bài Giảng Trên Núi (5 -7). Đây là « bài giảng » đầu tiên của Đức Giêsu theo Phúc Âm Matthêu , và vì thế nó chiếm một chỗ nổi bật trong sách Phúc Âm này. Chúng ta hãy ghi nhận sự nhấn mạnh đối với động cơ bên trong của mỗi cá nhân, sự nhấn mạnh đối với thái độ của người ta: « Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó » (5,3), « Phúc cho ai khát khao nên người công chính » (5,6). Hay ta có thể gặp lại ở 5,21-22: « Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng : Chớ giết người ; ai giết người, thì đáng bị đưa ra toà.   Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết : Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà...»; và một lần nữa ở 5,27-28: « Anh em đã nghe Luật dạy rằng : Chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết : ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi. » Lời lẽ thật mạnh mẽ. Đối với Đức Giêsu của Matthêu, Thiên Chúa phán xét không chỉ những hành động của người ta, mà Ngài còn phán xét cả các thái độ và tâm hồn của người ta nữa.
Việc tập chú vào Đức Giêsu như một thầy dạy cũng có thể được gặp thấy nơi những mảng giáo huấn khá rộng lớn khác trong Matthêu : chương 10 (về sứ mạng), chương 13 (các dụ ngôn về Nước Trời), chương 18 (về Giáo Hội), và các chương 24-25 (về hồi tận thời và cuộc phán xét cuối cùng đang đến).
Một nét khác nữa của Phúc Âm Matthêu là đặc tính Do Thái rất rõ của sách Phúc Âm này. Đặc tính này có thể được ghi nhận ngay ở chương đầu, với bản gia phả của Đức Giêsu (1,1-17). Matthêu nhấn mạnh rằng Đức Giêsu thuộc dòng dõi Đavít (vua của It-ra-en) và Abraham (nhân vật nền tảng của Do Thái giáo, qua ông Thiên Chúa đã thiết lập giao ước, đã đóng ấn với dấu cắt bì). Lề Luật Do Thái giáo vẫn rất quan trọng đối với Matthêu , như có thể thấy rõ ràng trong 5,17-18: « Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. » Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành.”
Phúc Âm Luca
Chúng ta hãy bắt đầu với Lc 4-7. Phúc Âm Luca là Sách Phúc Âm nhất lãm cuối cùng. Luca cũng vận dụng rất nhiều chất liệu từ Máccô, dù không nhiều bằng so với Matthêu. Thật vậy, trong các Phúc Âm nhất lãm thì  Phúc Âm Luca có nhiều chất liệu riêng nhất, đáng kể là những câu chuyện không thấy có trong các Sách Phúc Âm khác, chẳng hạn dụ ngôn về Người Samari Nhân Hậu (10,25-37) và Người Con Hoang Đàng (15,11-32). Phúc Âm Luca, cùng với sách Công Vụ Tông Đồ, nhấn mạnh việc Thiên Chúa đón nhận những người bị loại bỏ. Đức Giêsu của Luca có một sứ vụ đặc biệt đối với những người thu thuế – là những người được xem như rất xấu xa ở Palestine vào thế kỷ thứ nhất (3,12; 5,27-30; 7,29; 18,9-14; 19,1-10), đối với các phụ nữ (7,11-17. 36-50; 8,2-3; 10,38-42; 13,10-17; 15,8-10; 18,1-8; 23,27-31), và đối với những người nghèo túng về vật chất (4,18; 6,20; 7,22; 14,13; 16,16-31; 18,22). Luca cũng có một phê bình về của cải một cách đặc biệt hơn hẳn so với các Phúc Âm khác (6,24-25; 12,16-21; 16,16-31). Và, như chúng ta đã ghi nhận trước đây, Phúc Âm Luca cố gắng cho thấy rằng nơi Đức Giêsu các dân ngoại cũng được bao hàm vào các lời hứa giao ước của Thiên Chúa (2,32; 4,16-30; 24,27).
Luca có khuynh hướng không nhấn mạnh đến sự đau khổ và sự chết của Đức Giêsu, đồng thời chú ý nhiều hơn đến sự Phục Sinh và những lần hiện ra của Chúa Giêsu Phục Sinh. Chẳng hạn, trong trình thuật về cuộc khổ nạn, Luca trình bày một Giêsu điềm tĩnh. Trong vườn Ghétsêmani, Đức Giêsu cầu nguyện chỉ một lần xin Thiên Chúa cất chén đắng khỏi Người (22,39-46), chứ không phải đến ba lần như trong Phúc Âm Máccô (14,32-42) và Matthêu (26,36-46). Chỉ trong Phúc Âm Luca Đức Giêsu mới hứa với người tử tội bị đóng đinh bên cạnh Người rằng anh ta sẽ được vào Thiên Đàng ngay hôm ấy (23,43). Chỉ trong Phúc Âm Luca Đức Giêsu mới cầu nguyện xin Thiên Chúa tha thứ cho đám đông, « vì họ không biết điều họ làm » (23,34). Chỉ Luca mới loại bỏ cái mão gai. Chỉ trong Phúc Âm Luca Đức Giêsu mới không kêu lên lời than trách tại sao Thiên Chúa đã bỏ Người – một sự kiện được ghi nhận nơi Phúc Âm Máccô (15,34) và Matthêu (27,46). Và chỉ trong Luca chúng ta mới gặp thấy sự kiện Đức Giêsu hiện ra với hai môn đệ trên đường đi Emmau (24,13-35). Đối với Luca, Đức Giêsu là một vị tuẫn đạo công chính và vô tội, một ngôn sứ đến để đem Tin Mừng cho những kẻ bị loại trừ.
Phúc Âm Gioan
Chúng ta hãy bắt đầu với các chương 1-3 và chương 9 của Phúc Âm Gioan. Câu hỏi đầu tiên khi bước sang Phúc Âm Gioan, đó là Phúc Âm này có quan hệ thế nào với các Phúc Âm nhất lãm. Đa số các học giả đồng ý rằng có lẽ Gioan đã không biết đến các Phúc Âm nhất lãm trong dạng văn bản ghi chép, nhưng có lẽ Gioan khá quen thuộc với các truyền thống truyền khẩu về Đức Giêsu, nhất là các tư liệu về  cuộc khổ nạn của Người – các truyền thống này vốn là tiền thân của các Phúc Âm nhất lãm. Điều này giải thích phần nào lý do tại sao Phúc Âm Gioan rất khác biệt so với các Phúc Âm nhất lãm.
Phúc Âm Gioan có lẽ dựa vào một nguồn ghi chép chứa nhiều yếu tố mà Gioan gọi là các « dấu chỉ » của Đức Giêsu (2,11; 4,54; 12,37; 20,30-31). Những dấu chỉ này nhằm đem lại một niềm tin sơ khởi vào căn tính của Đức Giêsu trong tư cách là Đấng được Thiên Chúa sai đến (cf. 2,11; 4,54). Nhưng căn tính của Đức Giêsu đã được khai triển bởi Phúc Âm Gioan để Người không chỉ là Đấng Kitô và là Con Thiên Chúa, mà Người còn tham dự vào thiên tính của Thiên Chúa và thậm chí vào công cuộc sáng tạo vũ trụ trong tư cách là logos của Thiên Chúa, là Ngôi Lời, là nguyên lý thần linh của trật tự (1,1-5). Căn tính đặc biệt của Đức Giêsu được nêu rõ ngay trong chương đầu của Phúc Âm Gioan. Trong suốt quyển Phúc Âm này, Đức Giêsu còn tiếp tục bộc lộ thần tính của Người bằng cách sử dụng những câu tuyên bố theo công thức « Ta là » (ego eimi). Những tuyên bố « Ta là » này đặc biệt có ý nghĩa bởi vì thành ngữ « Ta là » là tên mà Thiên Chúa đã dùng để qui chiếu đến chính bản thân Thiên Chúa trong câu chuyện về Môsê và bụi gai bốc cháy ở chương 3 sách Xuất Hành. Thính giả của Gioan, có lẽ là những Kitôhữu gốc Do Thái cuối thế kỷ thứ nhất, rất ý thức về mối nối kết nói trên.
« Ta là Bánh hằng sống » (6,35.48.51), « Ta là ánh sáng thế gian » (8,12), « Ta là mục tử tốt lành » (10,11.14), « Ta là sự sống lại và là sự sống » (11,25; 14,6), « Ta là cây nho thật » (15,1)! Qua những câu nói như vậy, Đức Giêsu được Gioan trình bày như là Đấng tự nhìn nhận mình là chính nguồn sự sống. Và trong 8,58 Đức Giêsu nói: « Trước khi có Abraham, đã có Ta » – câu nói này rõ ràng cho thấy sự tiền hữu (pre-existence) của Đức Giêsu. Như vậy, trong Phúc Âm Gioan, Đức Giêsu là chính sự hiện diện của Thiên Chúa: « Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy » (14,6); « Ai thấy Thầy là thấy Cha » (14,9).
Trong Phúc Âm Gioan, Đức Giêsu được giới thiệu như một nhân vật từ trời xuống để đem lại cho người ta sự sống mới qua cái chết và sự Phục Sinh của Người. Phúc Âm Gioan trải qua nhiều sự hiệu chỉnh khác nhau bởi một cộng đoàn Kitôhữu gốc Do Thái đang tranh cãi sôi nổi với giới lãnh đạo Do Thái giáo (cf. 8,44; 9,22; 16,2).
Các Thư Của Phao-lô
Cuối cùng, chúng ta hãy nhìn qua các Thư của Phao-lô, đặc biệt chú ý đến những Thư không gây tranh cãi. Hãy bắt đầu với 1 Thêsalônica, Philêmôn, 1 Corinthô 4-7, và Rôma 1-4; 9-11.
Phao-lô là vị tông đồ thừa sai đã thiết lập các giáo đoàn khác nhau khắp thế giới Hy La, nhất là ở Hi Lạp (Côrinthô, Philipphê, Thêsalônica) và Tiểu Á (Ephêsô, Galát, hầu như chính là vùng đất Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay). Phao-lô nói với chúng ta rất ít về chính ngài. Nhưng từ những gì ngài viết trong Gl 1-2, có thể thấy rõ rằng Phao-lô vốn là một kẻ cuồng nhiệt bắt bớ các Kitôhữu trước khi chính ngài trở thành Kitôhữu. Phao-lô vốn là một thành viên thuộc nhóm Pharisêu (cf. Pl 3,5) và ngài cho biết rằng ngài đã nhận được một mạc khải của Đức Giêsu (Gl 1,12; cf. Cv 9). Phao-lô hầu như không liên hệ gì đến sứ vụ công khai của Đức Giêsu. Đúng hơn, ngài tập trung vào ý nghĩa của cái chết và sự Phục Sinh của Đức Giêsu, là chính trọng tâm thần học của ngài (cf. Rm 3,6; 1Cr 15). Với mạc khải nhận được ấy, Phao-lô cảm thấy mình được mời gọi rao giảng Tin Mừng. Hoạt động truyền giáo của Phao-lô được định hướng đặc biệt nhắm đến dân ngoại (cf. Gl 2,9), và ngài đã gặt hái nhiều thành công trong việc thiết lập các giáo đoàn, mặc dù không thiếu những cam go thử thách phải đương đầu. Trong các Thư của Phao-lô, chúng ta nghe một phía của cuộc đối thoại, tức phía của ngài. Chúng ta phải cố gắng phục chế những hoàn cảnh đã làm nên động cơ cho các Thư của Phao-lô và xác định điều gì đã xảy ra tại các cộng đoàn mà ngài viết cho. Các Thư của Phao-lô đề cập đến những vấn đề có tính thời sự tại những cộng đoàn khác nhau, đặc biệt tại Côrinthô và Galát.
Để có thể nắm hiểu được các Thư của Phao-lô, rất cần biết về sự kết cấu một lá thư. Thư 1 Thêsalônica là một minh họa rất tốt về thế nào là bố cục một lá thư. Mỗi lá thư bắt đầu bằng lời chào thăm của người gửi nói với người nhận: « Chúng tôi là Phao-lô, Silvanô và Timôthy, kính gửi Hội Thánh Thêsalônica… » (1Tx 1,1). Phần này bao gồm một lời chào : « Chúc anh em được ân sủng và bình an » (1Tx 1,1). Sau đó là « phần cám ơn » của lá thư, trong đó tác giả tạ ơn Thiên Chúa cho những người nhận thư (1Tx 1,2-10). Phần cám ơn thường có thể cung cấp những ám chỉ về các vấn đề sẽ được đề cập trong lá thư. Sau đó sẽ đến phần chính của thư (1Tx 2,1-5,11), ở phần này những mối quan tâm chính yếu của lá thư sẽ được nêu ra. Phần này thường được tiếp theo sau bởi một « phần khuyến thiện », trong đó tác giả trao cho người nhận những chỉ bảo về đạo đức mà bức thư nhắm đến: hãy làm điều này, đừng làm điều kia… 1Tx 5,12-22 là một minh họa tốt cho phần khuyến thiện này. Cuối cùng, mỗi thư có một phần kết thúc (cf. 1Tx 5,23-28).
Mỗi bức thư nhắm đến những hoàn cảnh khác nhau với những vấn đề quan tâm khác nhau. Phao-lô cố gắng bàn luận về những hoàn cảnh phức tạp và đa dạng này từ một nhận thức chắc chắn của ngài đối với sứ điệp Tin Mừng. Thư 1Côrinthô cho chúng ta thấy rõ những vấn đề mà Phao-lô gặp phải khi làm việc với một cộng đoàn Kitôhữu gốc dân ngoại. Ngài yêu cầu các tín hữu ở Côrinthô (những người đang kinh nghiệm những vấn đề chia rẽ và vô luân) hãy hiệp nhất trong Đức Kitô (1Cr 1-4) và hãy cư xử trong ánh sáng của đức tin vào Chúa Kitô, không phải bằng cách dung dưỡng những kẻ kiện cáo nhau ở tòa đời hay lui tới với gái điếm (1Cr 5,6). Phao-lô cũng giải đáp các câu hỏi khác nhau mà họ đã viết cho ngài (1Cr 7,1) – những câu hỏi về các mối liên hệ hôn nhân (1Cr 7), về việc ăn thịt cúng (1Cr 8,10), về các ân huệ của Thánh Thần (1Cr 12-14), và về sự đóng góp tài chánh mà Phao-lô đang vận động (1Cr 16).
Thư Phao-lô gửi các tín hữu Rôma cũng đặc biệt hữu ích để minh họa ở đây, vì nó trao cho chúng ta nhận thức đầy đủ nhất về các xác tín thần học của Phao-lô. Thư Rôma được viết cho cộng đoàn Kitôhữu ở Rôma, nơi mà Phao-lô chưa bao giờ đặt chân đến nhưng rất mong muốn ghé thăm (cf. Rm 15,14-33). Phao-lô biết rằng các Kitôhữu ở Rôma (những người có gốc là các Kitôhữu Do Thái) đã nghe về ngài, và những điều mà họ nghe không phải tất cả đều tốt đẹp. Vì thế Phao-lô cố gắng giải tỏa trước những khả năng họ có thể chống đối ngài trước khi ngài đến, và do đó ngài liên hệ tới nhận thức của ngài đối với Tin Mừng. Một cách thiết yếu, Phao-lô cố gắng cho thấy rằng mọi người – cả người Do Thái và dân ngoại - đều phạm tội chống lại Thiên Chúa. Mặc dù Thiên Chúa có lý khi lên án con người, Thiên Chúa vẫn sai Con của Ngài đến để đem lại ơn cứu độ cho loài người. Phao-lô tổng lược nhận thức này về Đức Giêsu trong một bản văn tương đối hàm súc ở Rm 3,21-26.
Đối với Phao-lô, Đức Giêsu là một diễn tả về sự trung thành của Thiên Chúa đối với những lời Ngài đã hứa với It-ra-en xưa. Một phần trong giao ước của Thiên Chúa bao gồm việc mở rộng ân phúc của Thiên Chúa ra cho các dân ngoại mà Thiên Chúa đã thâu họp qua Đức Giêsu. Vấn đề nằm ở chỗ đa số người Do Thái không tin. Phải chăng điều đó có nghĩa rằng người Do Thái bị loại ra? Phao-lô tuyên bố trong Rm 11,1 và 11: « Không phải thế! » Người Do Thái không tin nhưng các dân ngoại thì tin – Phao-lô giải thích như thế nào về cái nghịch lý đó? « Tôi không muốn anh em chẳng hay biết mầu nhiệm này, đó là một phần dân It-ra-en đã ra cứng lòng, cho đến khi các dân ngoại gia nhập đông đủ » (Rm 11,25). Đối với Phao-lô, điều đó phần nào có tính mầu nhiệm. Nhưng Phao-lô tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ mở lượng từ bi của Ngài cho mọi người, như ngài nói với các Kitôhữu dân ngoại ở Rôma (Rm 11,30-32): « Thật vậy, trước kia anh em đã không vâng phục Thiên Chúa, nhưng nay anh em đã được thương xót, vì họ không vâng phục; họ cũng thế, nay họ không vâng phục Thiên Chúa, vì Người thương xót anh em, nhưng đó là để chính họ cũng được thương xót. Quả thế, Thiên Chúa đã giam hãm mọi người trong tội không vâng phục, để thương xót mọi người! ». Trong Rm 11,33-36 Phao-lô trở lại với chủ đề mầu nhiệm Thiên Chúa. Tuy nhiên, điều nổi bật trong những bàn luận của ngài là một nhận định rất cảm kích. Mặc dù dân ngoại và dân Do Thái vốn là kẻ thù của nhau (Rm 11,28), mỗi bên đều được Thiên Chúa cứu độ nhờ bên kia. Thật bất ngờ! Thiên Chúa đã làm cho người ta gặp thấy ơn cứu độ qua kẻ thù của họ: dân ngoại qua sự cứng cỏi không tin của người Do Thái, và dân Do Thái qua thái độ đón nhận đức tin của dân ngoại. Những lời hứa trong giao ước của Thiên Chúa nhằm phục vụ thiện ích cho hết mọi người.
KẾT LUẬN
Tới đây chúng ta đã rảo qua nhiều bản văn Tân Ước. Chúng ta có thể thấy rằng có tồn tại rất nhiều những khác biệt và ngay cả những căng thẳng được diễn tả trong cái toàn thể thống nhất của những văn liệu này khi các tác giả cố gắng phối kết kinh nghiệm và nhận thức của mình về Đức Giêsu và về mối liên hệ giữa những kinh nghiệm và nhận thức ấy với các giáo đoàn mà các ngài viết cho. Chúng ta đã nhấn mạnh đến đặc điểm riêng của các văn liệu khác nhau, và cùng với nhau chúng diễn tả những sắc dạng khác nhau của khuôn mặt Đức Giêsu – là chính nhân tố đã làm nên đức tin và thực hành của các Kitôhữu sơ khai.
CÂU HỎI GIÚP TÌM HIỂU
1.Bạn hãy phác họa tiến trình dẫn đến sự phát triển của qui điển Tân Ước.
2.Bạn hãy cho biết lịch sử của các truyền thống làm nên Tân Ước, và cho biết những công cụ được sử dụng để khảo sát những tầng khác nhau của truyền thống.
3.Hãy nêu hai đặc điểm riêng của mỗi Sách Phúc Âm.
4.Đâu là những khía cạnh chủ yếu trong nhận thức của Phao-lô về Tin Mừng?
Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...