- Viết bởi MS TS Lưu Hồng Khanh
- Chuyên mục: Lòng Tôi Nương Tựa Nơi Ngài
A. Chuẩn bị và khai nguyện:
- Tĩnh lặng – Tập trung – Ý thức
- Nhắc nhở lại khải tượng cuộc sống đức tin (x. Dẫn Nhập, 6-7).
B. Ðọc Kinh Thánh và Suy niệm:
- Ðọc Kinh Thánh: Thi Thiên 11 Phúc thay người chẳng nghe theo lời bọn ác nhân,
chẳng bước vào đường quân tội lỗi,
không nhập bọn với phường ngạo mạn kiêu căng,
2nhưng vui thú với lề luật Chúa,
nhẩm đi nhẩm lại suốt đêm ngày!
3 Người ấy tựa cây trồng bên dòng nước,
cứ đúng mùa là hoa quả trổ sinh,
cành lá chẳng khi nào tàn tạ.
Người như thế làm chi cũng sẽ thành.
4 Ác nhân đâu được vậy,
chúng khác nào vỏ trấu gió thổi bay.
5 Nên ngày xử án, bọn ác nhân làm sao đứng vững,
quân tội lỗi đâu được hợp đoàn với chúng nhân.
6 Vì Chúa hằng che chở nẻo đường người công chính,
còn đường lối ác nhân đưa tới chỗ diệt vong.
Dẫn giải: "Phúc thay..."
TT 1 mở đầu cho tập sách Thi Thiên chúng ta vừa đọc không phải là một bài cầu nguyện, nhưng là một tiếng cảm thán, một lời chúc phúc: "Phúc thay...". Ðể hiểu được tiếng cảm thán như biểu lộ một cảm xúc nội tâm, chúng ta cần tìm hiểu cái ngọn nguồn, cái lý do của tiếng cảm thán đó.
Tiếng cảm thán ở đây là một lời chúc phúc - "Phúc thay người chẳng nghe theo lời bọn ác nhân" -, lời chúc phúc nầy cũng tương tự như những lời chúc phúc về Nước Trời: "Phúc thay những người nghèo khó..., Phúc thay những người đói khát sự công chính" (x. Mt 5:1-12; Lc 6:20-23). Lời chúc phúc ấy cũng đồng vọng với điều phước hạnh của trinh nữ Maria: "Phúc cho bà là kẻ đã tin" (Lc 1:45), hoặc với điều phước hạnh được Chúa Giêsu loan báo cho "những kẻ nghe và giữ Lời Chúa" (Lc 11:28).
TT 1 chúng ta đang bàn ở đây đã là một tiếng cảm thán phát xuất từ sự linh hứng của Chúa Thánh Linh, tiếng cảm thán đó đồng thời biểu lộ một sự hiểu biết sâu xa về sinh mệnh con người: một tri thức nhân chủng về con người.
Ðó là một lời dạo đầu dẫn đưa vào toàn tập Thi Thiên, lời dạo đầu muốn chỉ cho ta thấy con người là gì và con người cầu nguyện là ra sao. Khi đọc TT nầy, chúng ta cần nêu lên câu hỏi: "Con người đích thực được diễn tả ra sao; Con người gọi là có phúc được biểu hiện như thế nào?" Và dĩ nhiên tiếp theo đó, ta còn có thể nêu lên câu hỏi: "Mẫu người gọi là có phúc như thế có thích hợp với quan niệm của con người thời đại hay không, con người thời đại chúng ta có thể chấp nhận mẫu người có phúc như thế chăng?"
Vậy ta hãy đi vào chiều sâu của những câu hỏi nêu ra trên đây, bằng cách đọc lại TT đang bàn đến. TT nầy tỏ ra rất đơn giản, nhưng cũng không kém phần khó khăn khi ta được biết TT đó là tổng hợp và kết tinh của truyền thống khôn ngoan dothái, tổng hợp và kết tinh của truyền thống đạo hạnh dothái quan niệm con người là gì trước mặt Ðức Chúa Trời và trước mặt lịch sử. Sau khi tìm hiểu nội dung của TT, ta sẽ nêu lên câu hỏi, TT nầy muốn nói gì với chúng ta ngày hôm nay.
Ai là người công chính?
TT được chia làm ba đoạn:
- Ðoạn thứ nhất nói về người công chính và cho ta biết: người công chính là ai (c.2), và cách riêng người công chính không phải là những ai (c.1), để cuối cùng ví người công chính với cây trồng bên dòng nước (c.3);
- Ðoạn hai ngược lại vẽ lên hình ảnh con người bất chính, con người được gọi là kẻ gian ác: người gian ác là ai, có thể được sánh ví như gì (c.4), và số phận của họ sẽ như thế nào (c.5);
- Ðoạn ba rút ra kết luận: Ðức Chúa Trời sẽ xét xử như thế nào đối với người công chính và đối với người bất chính (c.6).
Các bản dịch không nêu ra được cách diễn tả độc đáo của nguyên văn hibá khi nói về ba điều tiêu cực mà người công chính không làm, dựa theo ba thái độ căn bản của cơ thể: Ðó là đi, đứng và ngồi. Nếu theo đúng nguyên văn "chữ đen" hibá, thì ta phải nói (tuy nghe không được êm tai) về người công chính: không đi theo lời bọn ác nhân, không đứng vào đường quân tội lỗi, không ngồi cùng phường ngạo mạn kiêu căng.
Một điểm đáng lưu ý khác là ba thái độ nói trên không phải được diễn tả theo tính cách cá nhân, nhưng là theo tính cách tập thể trong xã hội. Bản văn không nói rằng: Phúc thay con người không đi theo đường tội, không đứng lại làm điều ác, không ngồi lại để nghĩ về sự ác; nhưng nói rằng: Phúc thay con người không đi theo lời bọn ác nhân, không đứng vào đường quân tội lỗi, không ngồi cùng phường ngạo mạn kiêu căng. Như thế có nghĩa, bản văn muốn mô tả một con người trong toàn cấu trúc cơ thể của mình cũng như trong toàn cơ chế xã hội của hiện hữu con người.
Và như thế, thái độ tiêu cực của một cá nhân con người được xem như là có liên hệ với một xã hội, một não trạng, một thế giới suy tư mà người ta cho là tiêu cực. Vậy, người công chính là con người không bị chi phối bởi suy tư, cảm nghĩ, não trạng, nếp sống, nhãn quan, phong tục của một nhóm người, một tập thể, một xã hội mang những khuynh hướng bất công, gian ác, tiêu cực.
Hai vế câu tiếp theo mô tả người công chính là như thế nào. Ở đây ta cũng lại gặp một bất ngờ trong cách diễn tả. Có thể người ta đang chờ đợi bản văn nói rằng, người công chính sẽ là con người thực hành sự công bình, làm điều lành cho kẻ khác, sốt sắng cầu nguyện với Ðức Chúa Trời... Trái lại, bản văn ở đây nói về người công chính với một thái độ căn bản hơn nhiều: người công chính đó được mô tả trong quan năng, thông qua khuynh hướng với điều người ấy ưa thích. Căn bản hơn, bởi chính từ quan năng và khuynh hướng mới phân xuất ra hành động.
Bản văn viết: người công chính "vui thú với lề luật Chúa", nghĩa là người ấy có chiều hướng ưa thích, mến chuộng lề luật Chúa, đặt lề luật Chúa lên ưu tiên hàng đầu, trọn vẹn cuộc đời của người ấy thuộc về lề luật Chúa.
Con người được mô tả trong tương quan với điều mình ưa thích, và còn hơn nữa bằng cách ngày đêm tưởng nhớ đến điều ưa thích đó: "nhẩm đi nhẩm lại suốt đêm ngày". Ðây quả là ngôn ngữ của tình yêu, là sự nóng bỏng của tâm hồn tràn ngập đến tận cả da thịt cơ thể, bởi theo nguyên văn hibá thì không những nói đến sự đêm ngày ngẫm nghĩ, mà còn họa ra hình ảnh môi miếng mấp máy "nhẩm đi nhẩm lại", như ta ngày nay vẫn còn thường thấy khi người dothái cầu nguyện trước bức tường "Ai Ca" thành Giêrusalem.
Và như thế, người công chính là con người đêm ngày nhấm gậm lề luật Chúa, thưởng thức lề luật Chúa, con người đêm ngày sống với lề luật Chúa. Trên đây là mô tả người công chính qua những điều người ấy không làm và qua những điều người ấy làm, hay đúng hơn qua điều người ấy ưa thích, mến chuộng, nâng niu, trân quý suốt đêm ngày: đó là lề luật của Ðức Chúa Trời.
Con người công chính đó được mô tả một lần nữa, lần nầy qua một hình ảnh: hình ảnh "cây được trồng bên dòng nước và cứ đúng mùa là hoa quả trổ sinh". Có thể hình ảnh nầy không nói lên gì đặc biệt cho chúng ta, nhưng ta biết rằng suối và sông ở Palestin rất hiếm, và cây cối mọc lên ở hai bên bờ suối và sông là một bảo vật, một hoàn cảnh hi hữu và đặc biệt. Cây mọc lên bên dòng nước như thế có thể đâm rễ sâu trong lòng đất thấm đầy nước, lá cành luôn sum sê xanh tươi "chẳng khi nào tàn tạ", rồi "theo nhịp tiết mùa trong năm mà trổ sinh hoa trái". TT nối tiếp hình ảnh mà nói: "Người như thế làm chi cũng sẽ thành". Nguyên văn Hibá nói rõ hơn: "Ðức Chúa Trời làm cho thành sự tất cả những việc người ấy làm".
Hẳn câu cuối cùng nầy không muốn nói về một kết quả nhất thời, nhưng trong nghĩa của câu kinh "Lạy Cha": "Nước Chúa được đến", Nước Chúa chắc chắn sẽ đến. Con người mà tất cả lòng dạ chỉ dành cho lề luật Chúa, nhất định sẽ không bị thất vọng. Tất cả những gì người ấy làm, chỉ nhắm một mục đích là thể hiện Nước Chúa, và người ấy sẽ không phải hối tiếc về điều mong cầu khát khao nầy. Ðó là những ý nghĩa của đoạn thứ nhất.
Câu đầu của đoạn thứ hai (c.3) ngược lại, nói đến người gian ác, con người không làm điều gì công chính, con người bất chính. Và như thế, "chúng khác nào vỏ trấu gió thổi bay": đó là hình ảnh một con người không xây cất được gì bền vững, mọi sự việc đều rơi rớt và luột khỏi bàn tay. Hình ảnh nầy còn có thể nhắc nhở đến rất xa trong lịch sử, khi mà nhân loại bị phân tán ra khắp nơi như gió thổi bay khắp bốn góc đất trời, vì họ đã muốn xây cất tháp Babel cao thấu trời để làm rạng danh cho mình (ST 11).
"Nên ngày xử án, bọn ác nhân làm sao đứng vững, quân tội lỗi đâu được hợp đoàn với chính nhân" (c.5); ngày xử án ở đây chắc hẳn muốn nói đến ngày phán xét sau cùng của lịch sử. Những ai thuộc bọn ác nhân và quân tội lỗi sẽ không xây cất được gì cho lịch sử, và như thế sự phán xét về lịch sử sẽ liệt họ vào hàng những kẻ hư hỏng thất bại.
TT kết thúc với một lời có tính nhận định và tuyên xưng: "Vì Chúa hằng che chở nẻo đường người công chính...". Nguyên văn Hibá nói: "Vì Chúa biết con đường người công chính". Quan niệm "biết" trong Cựu Ước muốn nói đến sự biết mang tính yêu thương như tình yêu thương giữa vợ chồng, một tình thương âu yếm và thâm thiết mà Ðức Chúa Trời theo dõi con đường người công chính. "Còn đường lối ác nhân đưa tới chỗ diệt vong": đường lối của ác nhân sẽ bị rơi vào thịnh nộ và án phạt của Ðức Chúa Trời, và tự nó được diễn tả như sẽ không thành công, sẽ bị thất bại, sẽ bị tiêu hủy và diệt vong.
Trên đây là những lời và những hình ảnh rất đơn giản của TT. Và Hội Thánh cổ thời cũng đã dùng những lời nói và những hình ảnh đó trong cuộc sống linh đạo của mình. Dòng nước mát được truyền thống giáo hội dùng để chỉ Thánh Linh Ðức Chúa Trời, còn cây bên dòng nước là tín nhân đâm rễ sâu trong dòng nước sống Thánh Linh.
Một tác giả thế kỷ thứ hai ví cây bên dòng nước nói trong TT nầy với cây thập tự giá, bởi cây thập tự giá đem lại cho con người hoa trái không những bốn mùa trong năm, mà còn mãi mãi muôn đời. Còn nước tốt tươi nói trong TT nầy lại được ví với nước thánh tẩy / baptem: tín nhân trầm mình trong nước thánh tẩy là con người mang lại được hoa trái của đời sống thiên thượng phát xuất từ Thánh Linh Chúa.
Thi Thiên thứ nhất nầy không cống hiến một tứ thơ trử tình lớn, đó là một TT thuộc "loại văn chương khôn ngoan": nhưng sự khôn ngoan của những lời nói và những hình ảnh ở đây được phát xuất từ một khải thị lớn về Lề Luật của Ðức Chúa Trời, về Ðường Lối, về sự Dẫn Dắt và về Nước Công Chính của Chúa đem lại hạnh phúc và sự giải thoát cho con người. - Suy niệm:
Sinh mệnh con người là sự quyết định:
Sau khi đã đọc, đã tìm hiểu toàn bộ và từng câu từng vế của TT, chúng ta bây giờ có thể nêu lên câu hỏi: Ai trong cụ thể được gọi là người công chính, và ai trong cụ thể được coi là người gian ác? Nhưng trước đó, ta còn có thể lưu ý đến quan niệm nhân chủng (anthropologique) về con người trong truyền thống Do-Thái.
Quan niệm nhân chủng về con người là một quan niệm nhìn đến yếu tính cơ bản của con người trong hiện hữu. Theo truyền thống dothái, quan niệm nhân chủng về yếu tính cơ bản của con người trong hiện hữu ở đây là sự lựa chọn và quyết định: hoặc điều tốt hoặc điều xấu, hoặc điều lành hoặc điều dữ, hoặc con đường nầy hoặc con đường kia. Luôn luôn con người đứng trước một lựa chọn, một quyết định, và quyết định nầy đưa đến những hậu quả (trong nghĩa trung tính: consequences) có tính nghiêm trọng cho mình, cho cuộc sống của bản thân, cho xã hội, cho cả nhân loại và thế giới. Cuộc sống của con người không phải chỉ là một sự biến chuyển lạc lõng từ biến sự nầy qua biến sự khác: nó là một cuộc mạo hiểm đi từ quyết định nầy đến quyết định khác, và mỗi quyết định như thế đều có ảnh hưởng dứt điểm cho tương lai. Trong TT của chúng ta đang bàn ở đây, cũng được diễn tả quan niệm về yếu tính cơ bản của hiện hữu con người, yếu tính đó là sự quyết định. Một sự quyết định mà con người có thể lầm lẫn, một quyết định với hậu quả dứt điểm cho chính bản thân, cho tương lai của mình, cho bản chất và chức vị làm người của mình. Phúc hay họa, được hay mất, cứu thoát hay trầm luân, những điều đó tùy thuộc vào sự quyết định của con người; con người đứng trước những lựa chọn và quyết định đưa lại cho chính bản thân và cho kẻ khác hoặc mất hoặc còn, hoặc thăng tiến hoặc hư hỏng; đó là nội dung của cuộc sống, đó là tấn bi kịch mà không một ai có thể tránh né.
Và đó là điểm ghi nhớ có tính nhân chủng về con người trong những TT nói đến tấn bi kịch quyết định giữa tốt và xấu, lành và dữ, thiện và ác, yêu và ghét, sáng và tối, sự thật và gian dối: giữa những điều đó, con người luôn phải dứt khoát lựa chọn và quyết định.
Sau khi nhắc lại chiều kích nghiêm trọng của quan niệm nhân chủng về con người làm nền tảng cho TT nầy, ta nay có thể đặt lại câu hỏi: ai trong cụ thể là người gian ác?
Ðặc điểm thứ nhất mang bản chất đạo lý: người công chính là kẻ làm điều lành, người gian ác (người bất chính) là kẻ làm điều dữ: trộm cắp, giết người, bạo hành, bóc lột, gieo rắc chia rẽ và hận thù; người công chính là kẻ giúp đỡ hầu hạ anh em, là kẻ tha thứ, yêu thương, cầu nguyện và tôn thờ Ðấng Cao Cả.
Nhưng như ta đã ghi nhận, điểm định hướng về giá trị con người nêu ra trong câu một và hai được đặt cao hơn bản chất đạo lý: con người được đánh giá không phải trong tương quan với các hành động luân lý, cho bằng trong tương quan với xu hướng yêu thương.
Và ai trong cụ thể là người công chính? Ðó là con người sống bằng lời Chúa, yêu chuộng lề luật Chúa, lề luật trong nguyên nghĩa "Thora", nghĩa là lời tuyên cáo Ðức Chúa Trời là ai đối với con người, và con người là gì trong tiếng Chúa gọi. Như thế, TT nầy mô tả sự phước hạnh của con người, kẻ đã nhìn nhận ra được rằng, sự thành toàn bản thân và hiện hữu mình không phải trước nhất hệ tại sự cố gắng trong đời sống luân lý, cho bằng là căn cứ vào lời kêu gọi, sự tỏ bày, điều khải thị của Ðức Chúa Trời, để rồi quy hướng đời mình vào lời Chúa, nuôi sống đời mình bằng lời Chúa và trầm mình trong lời Chúa như rễ cây đâm sâu xuống nước nuôi sống. Khi TT nói về niềm "vui thú" của con người, đó hẳn là muốn chỉ về khả năng nhấm gậm, gẫm suy, "nhẩm đi nhẩm lại suốt đêm ngày" lời của Ðức Chúa Trời được trở thành của ăn cho mình, và nhờ thế toàn cuộc sống của mình cũng được biến hoá vào trong lời của Ðức Chúa Trời, đến nỗi không còn một mảnh đời nào của mình lại còn xa cách hay xa lạ với lời của Chúa và sứ điệp lời Chúa.
Con người ở đây được ca ngợi như là "phước hạnh", như là "thành tựu" ("người như thế làm chi cũng sẽ thành")ø là con người, kẻ đã nhìn nhận ra được rằng, sự "phước hạnh" và "thành tựu" đó không phải là do công lao gì riêng của mình, không phải là do sáng kiến, kế hoạch hay tài năng quản trị gì của cá nhân đã làm cho mình cảm nghiệm được lẽ thật và điều công chính, nhưng là do sự đón nhận lời khôn ngoan, yêu thương và thành tín của Ðức Chúa Trời, Ðấng đã ban tất cả cho con người.
Lời của Ðức Chúa Trời ở đây bày tỏ cho tôi biết: tôi là ai, tôi được kêu gọi đi đâu, làm gì, tiếng Chúa kêu gọi cao trọng chừng nào, điều mong chờ hy vọng của tôi là gì, nhân loại và trần gian ước mong điều gì. Con người, kẻ đón nhận những lời đó vào đời sống mình, kẻ đó là người công chính, nghĩa là con người thực hiện một cuộc sống công chính. Sự nên công chính của một con người như thế tùy thuộc vào sự mở lòng đón nhận lời kêu gọi của Ðức Chúa Trời: lời tác tạo, tác thành và bày tỏ cho biết tự trong thâm sâu con người là gì.
Còn ai trong cụ thể là người bất chính?
Người bất chính là kẻ không đón nhận được lời kêu gọi, không bắt nắm được lời đòi hỏi của Ðức Chúa Trời, không lãnh hội được khải thị chân trời tương lai nào Chúa mở ra cho mình. Sự bất chính ở đây là sự từ chối lời của Ðức Chúa Trời.
Như chúng ta đã suy niệm ở một đoạn trên, sự công chính của con người không do công lao gì riêng của mình đưa lại, nhưng là do ơn ban cho của Ðức Chúa Trời. Sự công chính như thế không phải là sự "công chính do việc làm", nhưng là sự "công chính do ân điển" hay cũng gọi là sự "công chính của hoa trái Thánh Linh": Người công chính như thế là "cây trồng bên dòng nước, cứ đúng mùa là hoa trái trổ sinh". Người công chính đó không phải là kẻ bị bức bách thúc đẩy do từ bên trong hay bởi từ bên ngoài phải làm nên công nầy việc nọ, nhưng là kẻ tự trong mình đâm rễ xuống nước sâu nuôi sống, và từ đó trổ hoa sinh trái; đó là con người mà hành động được phát xuất từ sự hiểu biết và lòng yêu thương, là sự hài hòa phối hợp giữa bản thân mình với lời hằng sống của Ðức Chúa Trời.
Con người như thế quả thật là một con người đích thực, một xã hội như thế quả thật là một xã hội chân thực: một xã hội trổ hoa sinh trái, không phải chỉ là sản xuất hoa lợi, nhưng là tự bên trong mang lại đạo đức và linh hạnh.
Sự công chính của hoa trái Thánh Linh:
Ðó là sự công chính của con người đón nhận lời Chúa; đó là sự công chính mang lại hoa trái đúng mùa đúng buổi, nghĩa là đúng vào những thời kỳ trưởng thành của cuộc sống con người, theo tiết mùa nhịp điệu của tạo thành và của đời sống tâm linh.
Ðó là hình ảnh về con người và về sự công chính chúng ta đã thu hoạch được từ TT 1 mở màn cho toàn tập Thi Thiên.
Việc suy niệm của chúng ta phải đi đến tình trạng cụ thể để đưa tới sự trưởng thành của cuộc sống tâm linh, công việc nầy được thực hiện thông qua hai câu hỏi được đề nghị như sau:
- Câu hỏi thứ nhất: Tôi thật có sống bằng lời Ðức Chúa Trời không?
Nghĩa là lời Chúa có thân gần, có nuôi nấng lòng dạ tôi; hay lời Chúa thật vắng bóng trong đời tôi, hoặc đọc lên rất khô khan, rất xa lạ? Câu hỏi "tôi thật có sống bằng lời của Ðức Chúa Trời" đặt ra trên đây phải được trả lời không phải một cách đại khái chung chung, nhưng phải cụ thể và có chủ đích. Tỉ như: Tôi đọc, tôi suy, tôi ngẫm nghĩ lời Chúa vào những thời điểm nào, vào những hoàn cảnh nào trong cuộc sống hằng ngày của tôi?
Chúng ta hẳn còn nhớ TT nói rằng: Người công chính "vui thú với lề luật Chúa, nhẩm đi nhẩm lại suốt đêm ngày". Nếu tôi xem xét lại nhịp sống ngày và đêm của tôi, thì tôi đã dành bao nhiêu thì giờ và trong những hoàn cảnh nào cho việc đọc, nghe và gẫm suy lời Chúa? Và tôi đã hoang phí bao nhiêu thì giờ cho những việc không cần thiết, những việc tệ hại hư hỏng như "vỏ trấu gió thổi bay"?
Nghe, đọc, suy gẫm lời Chúa trong những giờ khắc riêng biệt: đó là một việc thiết yếu phải làm. Một công việc khác không kém phần quan hệ: đó là để cho lời Chúa soi sáng, theo dõi, thúc đẩy và hướng dẫn từng công việc của cuộc sống hằng ngày và nhất là của những công việc tinh thần và thuộc linh trong bản thân, gia đình và hội thánh. Lại còn cần phải dành nhiều thời giờ hơn nữa cho việc nghe, đọc, suy gẫm lời Chúa trong những thời kỳ đặc biệt trong năm, như trong những dịp lễ Giáng Sinh, Phục Sinh, Ngũ Tuần, những ngày tĩnh tâm, những buổi hội đồng bồi linh... - Câu hỏi thứ hai: Những hành động nào được phát xuất từ lời Chúa?
Câu hỏi được đặt ra cho từng cá nhân cũng như cho cả một tập thể, một hội đoàn, một hội thánh. Những hành động nào chúng ta làm quả thật là do lời Chúa tác động: hành động tha thứ nào, hành động nhịn nhục nào, hành động giúp đỡ nào, hành động ngăn giữ cơn giận nào... chúng ta làm vì tính tự nhiên, vì lễ phép, vì lịch thiệp, vì để giữ thể diện, vì để tỏ ra mình hào hoa... hay vì lời của Ðức Chúa Trời yêu cầu, đòi hỏi, nhắn nhủ? Nghĩa là tôi có thực đưa vào trong cuộc sống và con người tôi từ thể xác đến suy nghĩ và cảm xúc lời của Ðức Chúa Trời được trở nên của ăn cho tôi: Tôi có thực sống bằng lời Chúa? Mọi hành động của tôi có bắt nguồn từ lời Chúa?
- Câu hỏi thứ nhất: Tôi thật có sống bằng lời Ðức Chúa Trời không?
C. Kết thúc và kết nguyện:
- Ðiều thực hành:
Mỗi người chúng ta sẽ trầm lặng ra mắt trước mặt Ðức Chúa Trời, suy nghĩ và tìm ra cho mình một điều thực hành cần thiết và thích hợp diễn tả sự thể hiện con người công chính trong ta: người công chính vui thú với lề luật Chúa, ngày đêm gẫm suy lời Chúa, để cho lời Chúa tác động mọi hành động của cuộc sống, nhất là trong những hành động thực hiện sự công bình, nhịn nhục, yêu thương, xây dựng hội thánh... - Lời kết nguyện:
Tự mình đưa ra một lời cầu nguyện thích ứng với hoàn cảnh cá nhân và với điều thực hành. Cũng có thể lấy lại lời kết nguyện ở phần Dẫn Nhập, diễn tả sự trao gửi, phó thác và dâng hiến mình cho Ðức Chúa Trời (x.Dẫn Nhập, 7).
September 11, 2012
Bài 2: Lên Đường - Con Đường Người Công Chính
