- Viết bởi MS. TS. Lưu Hồng Khanh
- Chuyên mục: Lòng Tôi Nương Tựa Nơi Ngài
-
A. Chuẩn bị và khai nguyện:
- Tĩnh lặng – Tập trung – Ý thức
- Nhắc nhở lại khải tượng cuộc sống đức tin (x.Dẫn Nhập, 6-7).
B. Ðọc Kinh Thánh và Suy niệm:
1. Ðọc Kinh Thánh: Thi Thiên 131
1 Lòng con chẳng dám tự cao,
mắt con chẳng dám tự hào, Chúa ơi!
Ðường cao vọng, chẳng đời nào bước,
việc diệu kỳ vượt sức, chẳng cầu.
2 Hồn con, con vẫn trước sau
giữ cho thinh lặng, giữ sao thanh bình,
như trẻ thơ nép mình lòng mẹ,
trong con, hồn lặng lẽ an vui.
3 Cậy vào Chúa, Is-ra-en ơi,
từ nay đến mãi muôn đời muôn năm.
Dẫn giải Thi Thiên nầy được chọn làm tiêu biểu cho bước khởi đầu của hành trình con người tìm đến Chúa. TT nầy là một trong những TT ngắn nhất trong toàn tập TT, với vẻn vẹn ba câu. Có người có thể nghĩ rằng, TT nầy quá giản đơn đến nỗi chẳng cần phải giải thích nữa, bởi từng chữ từng lời đã quá rõ ràng rồi. Nhưng sự giản đơn nầy có thể đánh lầm, bởi ở phía sau có rất nhiều vấn đề được đặt ra. Chúng ta hãy tập trung tìm hiểu các ý nghĩa của các vấn đề, và nhất là hãy cầu xin Chúa mở trí mở lòng cho chúng ta được thấu hiểu tất cả những chiều sâu rộng của Lời Chúa dạy bảo:
"Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã cho chúng con tụ họp lại nhân danh Chúa, và được nghe Lời Chúa qua tiếng nói của ngôn sứ Chúa: xin cho chúng con biết kính cẩn, tỉnh thức và khiêm tốn đón nhận Lời Chúa, hiểu biết Lời Chúa, để rồi thực hiện Lời Chúa. Xin sai phái Thánh Linh Chúa đến làm cho chúng con thấu hiểu Lời Chúa và biến đổi cuộc sống chúng con theo Lời Chúa. Chúng con cầu xin ơn nầy, nhân danh Ðức Giêsu Christ Chúa chúng con"!
Như chúng ta thấy, TT nầy gồm có ba câu.
- Câu thứ nhất kể ra những điều con người không được phép làm: "Lòng con chẳng dám tự cao, mắt con chẳng dám tự hào, đường cao vọng chẳng đời nào bước, việc diệu kỳ vượt sức chẳng cầu". Như thế, câu thứ nhất nầy vạch ra những điều mà con người trước mặt Chúa không muốn làm và không được phép làm; mà nếu con người trong quá khứ đã có làm đi chăng nữa, thì bây giờ quyết tâm thay đổi và không còn muốn làm nữa.
- Câu thứ hai nói ra con người trước mặt Chúa là gì và trước mặt Chúa muốn là gì: "Hồn con trước sau giữ cho thinh lặng giữ sao thanh bình, như trẻ thơ nép mình lòng mẹ, trong con hồn lặng lẽ an vui". Và như thế, câu thứ hai nầy đưa ra một hình ảnh để so sánh, hình ảnh một trẻ thơ trong cánh tay của mẹ mình.
- Nhưng câu thứ ba lại dùng hình ảnh nói trên để áp dụng cho toàn thể dân Chúa: ý nghĩa an bình trên cánh tay bà mẹ không chỉ áp dụng cho một trẻ thơ, nhưng là cho tất cả tuyển dân Chúa: "Cậy vào Chúa, Is-ra-en ơi,/ từ nay đến mãi muôn đời muôn năm".
Ðó là những điều đơn giản của TT mà thoạt đọc lên ta có thể nhìn nhận được.
Nhưng càng đọc và càng gẫm suy, ta càng thấy TT nầy không giản đơn như ta nghĩ tưởng; trái lại, nó hàm chứa nhiều vấn đề và nhiều câu hỏi khá phức tạp. Sau đây ta hãy tìm hiểu thêm.
- Ta hãy lấy câu thứ nhất làm thí dụ: "Ðường cao vọng, chẳng đời nào bước,/ việc diệu kỳ vượt sức, chẳng cầu". Tại sao lại như thế? Nguyện vọng tự phát triển chính mình, nguyện ước đi tới đi lên đi xa trong cuộc sống, đó không phải là những đòi hỏi sâu xa và thiết yếu của con người sao?
- Và trong câu thứ hai với hình ảnh một trẻ thơ yên lành nép mình trong cánh tay của bà mẹ, chúng ta có thể tự hỏi: "Nhưng làm sao con người có thể yên lành ngủ say, khi mà cả thế giới đang sống trong cảnh tranh dành và hỗn loạn? Làm sao con người có thể lấy cảnh tượng yên ổn đó làm lý tưởng, khi mà chung quanh ta đầy dẫy những bất công và xáo trộn"?
- Và nếu ta nhìn ngay vào cuộc sống của bản thân, gia đình, hội thánh và xã hội nơi ta đang sinh sống, làm sao ta có thể nói lên được rằng: "Tôi yên lành, lặng lẽ, thanh bình và an vui như một bé thơ trong cánh tay mẹ mình"? Ta có được phép đọc TT nầy như thoạt tiên ý nghĩa nó gợi lên chăng? Hay TT nầy muốn nói gì khác hơn cho ta?
Và như thế, ta thấy TT nầy không giản đơn như thoạt đầu ta nghĩ tưởng. Vậy ta hãy thử đọc lại một lần nữa và cầu xin Thánh Linh Chúa soi sáng cho ta được thấu hiểu những ý nghĩa mà Ngài muốn tỏ bày cho ta.
- Ta hãy bắt đầu với điều đơn giản nhất, với hình ảnh bé thơ trên tay mẹ mình. Nguyên chỉ về phương diện ngôn ngữ, qua các bản dịch từ nguyên văn hibá, chúng ta cũng đã gặp phải những điều khó hiểu: bởi các bản dịch đều gợi lên cho ta hình ảnh một trẻ thơ mới sinh độ hai ba tháng, và bé đang kêu, đang khóc, đang đòi sữa bú. Rồi chỉ khi nào bé no bú, bé mới yên lặng ngủ say trên tay mẹ mình. Và như thế, hình ảnh xem ra thích hợp ở đây là: yên lành là bé thơ, khi bé được no bú.
Nhưng trong nguyên văn hibá, thì lại nói đến một trẻ thơ đã "thôi bú", một em bé đã qua khỏi chặng đường đời thứ nhất. Theo phong tục thời cổ đại, trong thế giới Cận Ðông cũng như trong xã hội dothái, thời điểm cai sữa được bắt đầu khá trễ, lối chừng ba bốn tuổi. Và như thế, em bé được nói đến ở đây không còn phải là bé nhỏ hai ba tháng đang vòi sữa bú, nhưng là em bé đã ba bốn tuổi, em bé đã bắt đầu bò, bắt đầu chững, bắt dầu đi, bắt đầu tìm đến mẹ mình như điểm tựa, như con người mà bé có thể hoàn toàn tin tưởng: như một "nhân vật quy chiếu" ("reference person").
Vậy đây là một em bé đã bắt đầu hướng ra ngoại giới với ý thức, bỗng giật mình bởi gặp phải những con người hay những sự vật hùng mạnh hơn chính mình, và do đó em bé đã bỏ chạy và tìm sự che chở trong cánh tay mẹ mình. Ở đây, em bé đã tìm được yên lặng và an bình; và từ nơi đây như "điểm quy chiếu" chắc chắn, em bé có thể vươn lên trong cuộc sống.
Một em bé như thế không thể dựa vào sức lực riêng mình, nhưng cần thiết được phát triển trong cuộc sống dựa vào một "điểm quy chiếu" tuyệt đối, nơi em không thể nghi ngại hay nghi ngờ, nơi em tìm được che chở và nương tựa,và từ nơi đây em có thể vươn lên và đi tới trong cuộc sống.
Ðó là ý nghĩa của câu thứ hai trong TT ta đang tìm hiểu, dựa trên nguyên văn hibá. Cũng trong cách thức tìm hiểu Kinh Thánh dựa trên nguyên văn và nguyên tự như thế, ta thử đọc lại câu thứ nhất và tìm hiểu những ý nghĩa sâu xa hơn là những ý nghĩa thoạt tiên đến với ta.
- Các bản dịch câu thứ nhất TT 131 nầy thường là: "Lòng con chẳng dám tự cao, mắt con chẳng dám tự hào", thì bản văn hibá nói rằng: "Lòng con không dương lên cao, mắt con không ngước lên trên".
Ta phải hiểu câu nói đó như thế nào? Thực ra, đó là những câu nói gợi lên ý nghĩ về những cao đàn cúng tế, về những lễ bái các tà thần trên các lưng đồi đỉnh núi, nơi mà con người ngước mắt nhìn lên khi gặp sự khốn khó, và muốn mình mau lẹ và chắc chắn được che chở an toàn.
Và như thế, ở đây không phải đơn giản muốn nói đến một con người chọn lựa cho mình một cuộc sống đơn giản khiêm hèn, một cuộc sống "tri túc" và "an bần", bởi một lý do đạo đức, triết lý hay thực tiễn nào đó mà câu TT thoạt đọc lên có thể gợi ra. Nhưng thiết yếu câu TT ở đây muốn nói đến một con người đi tìm sự phát triển của bản thân mình, nhưng sự phát triển đó không dựa vào uy lực của các tà thần, không chỉ do công lao khó nhọc của bàn tay con người, cũng như không xuất phát từ những ảo vọng và đam mê ,- tất cả dưới những hình hài thần thánh mà con người tùy thích tùy tiện tùy hứng xử dụng cho cao vọng và khoái lạc của mình. Ở đây muốn nói đến con người đã dứt khoát từ bỏ mọi việc thờ quấy và tuyên xưng không có gì lớn lao và cao cả hơn là một mình Ðức Chúa Trời.
"Lòng con chẳng dám tự cao, mắt con chẳng dám tự hào", câu ấy muốn nói về con người của Kinh Thánh rằng: "Chỉ một mình Ðức Chúa Trời là cao cả". Và như thế, ở đây ta nói đến một con người tuyên xưng sự cao cả vô biên của Ðức Chúa Trời là Ðộc Thần và là Chân Thần. Trước dung nhan vị Chân Thần và Ðộc Thần nầy, con người chỉ là khiêm hèn và nhỏ bé, nhưng sự nhỏ bé và khiêm hèn nầy lại chất chứa tràn đầy chân lý và an bình.
Trong câu thứ nhất trên đây, lại còn có một vế câu đáng cho ta lưu tâm: "Ðường cao vọng chẳng đời nào bước, việc diệu kỳ vượt sức chẳng cầu". Vế câu nầy trong nguyên văn hibá nói rằng: "Tôi không đưa chân bước lên", nghĩa là tôi không nhúc nhích, tôi không cử động, tôi không tự phô trương, tôi không tìm ấn tượng, tôi không tìm hào nhoáng bên ngoài..., tôi chỉ tìm điểm nương tựa và quy chiếu của đời tôi nơi sự thật tuyệt đối của Ðức Chúa Trời mà thôi.
Như chúng ta vừa thấy: trong nổ lực tìm hiểu TT 131, chúng ta đã đi xa hơn cách giải thích theo cảm tính bột phát bên ngoài – cảm tính chỉ nhìn thấy thái độ đơn sơ, tin cậy và khiêm hèn bằng cách khước từ những nguyện vọng chính đáng của con người – và chúng ta đã đi đến những ý nghĩa sâu xa và đích thực của TT: ý nghĩa về một con người tuyên xưng niềm tin của mình, rằng Ðức Chúa Trời là tất cả, chỉ một mình Ngài là độc nhất và cao cả, rằng con người có thể và phải đặt niềm tin của mình một cách vô điều kiện vào Ðức Chúa Trời, và như thế cả những gì chúng ta làm xem ra vô giá trị, nhưng lại mang đầy giá trị trong Ðức Chúa Trời bởi chúng ta đã đặt tất cả niềm tin vào Ngài.
Chúng ta đã tìm hiểu những ý nghĩa thâm sâu ở phía sau các từ ngữ của TT, bằng cách tìm đến những chiều kích tâm linh mà TT muốn nói lên. Ðó là chiều kích về sự tuyệt đối của Ðức Chúa Trời, chiều kích về sự yêu thương và thành tín của Ngài như một đồn lũy vô cùng kiên cố cho con người, về Ðức Chúa Trời như là một Thực Tại mà con người hoàn toàn có thể tin cậy, nơi Ngài con người không còn phải là hư không, nhưng trong Ngài thì tất cả đều có thể được. Không có gì vượt quá sức con người, khi con người làm mọi sự trong Chúa và thể theo sự thật của Ngài mà Ngài mỗi ngày mỗi bày tỏ cho chúng ta, khi mà con người không còn chạy theo những ước mơ của ảo vọng ích kỷ, nhưng tiến bước trong sự thật của Ðức Chúa Trời.
2. Suy nghĩ và cầu nguyện:
Ðó là những điều TT 131 muốn nói với chúng ta; và từ đó chúng ta có thể đặt ra một ít câu hỏi để suy nghĩ và cầu nguyện:
- TT nầy muốn nói gì với dân Chúa?
- TT nầy mang ý nghĩa gì cho bản thân tôi ở đây và bây giờ?
- Tôi thưa gì với Chúa qua TT nầy?
Chúng ta hãy tuần tự suy nghĩ về từng câu hỏi:
(1). TT nầy muốn nói gì với dân Chúa?
Chúng ta đã nhận định được rằng, TT nầy xem ra mang những tâm tình cá nhân của một con người, nhưng trong câu thứ ba lại trở nên một TT nói về toàn thể tuyển dân Chúa. Do đó, chúng ta phải nêu lên câu hỏi, TT nầy có ý nghĩa gì cho toàn dân?
Trong cái nhìn của Kinh Thánh cựu ước, TT nầy muốn nói lên rằng, một dân tộc biết đặt niềm tin và hy vọng của mình vào Ðức Chúa Trời cao cả và vô biên, thì không có gì phải lo sợ, lại còn có thể hy vọng được hết mọi điều: niềm hy vọng của dân tộc đó sẽ vô giới hạn, bởi nó dựa trên sự vô biên của Ðức Chúa Trời, dựa trên sự yêu thương vô biên của Ngài, dựa trên quyền năng vô biên của Ngài, dựa trên sự cao cả lớn lao và vô biên của Ngài.
Do đó, một dân tộc biết nhìn nhận và tuyên xưng sự cao cả của Ðức Chúa Trời, đó là một dân tộc thờ kính Ngài một cách chân thật, một dân tộc mà niềm hy vọng được thể hiện tràn đầy. Dĩ nhiên đó cũng là một dân tộc với một nền văn minh, văn hóa và một tương lai riêng biệt do chính mình phát huy sáng tạo ra, nhưng không thần thánh hóa hoặc tôn thờ nó bằng cách chỉ tin cậy vào công lao của bàn tay con người mình, và như thế con người sẽ phải đi từ thất vọng nầy đến thất vọng khác. Nhưng dân tộc đó biết đặt niềm tin và hy vọng không lay chuyển của mình vào công trình của chỉ một mình Ðức Chúa Trời là Ðấng không hề gây thất vọng.
TT nầy muốn nói gì bây giờ cho dân Chúa, mang ý nghĩa gì ngày hôm nay cho Hội Thánh Chúa? Tất cả chúng ta làm thành hội thánh Chúa, chúng ta có đặt tất cả niềm tin và hy vọng của hội thánh chúng ta trong tay một mình Ðức Chúa Trời? Hay ngược lại, chúng ta đã và đang đặt niềm tin và hy vọng của hội thánh chúng ta trong công lao, tính toán, uy quyền, thế lực, tiền tài, ảnh hưởng của con người, chứ không phải trong sức lực vô biên và đầy yêu thương của Ðức Chúa Trời đang soi sáng và xử dụng chúng ta như công cụ của Ngài? Chúng ta có hoàn toàn và trọn vẹn trao phó trọn cuộc sống của chúng ta cho Ðức Chúa Trời không?
(2). TT nầy mang ý nghĩa gì cho bản thân tôi ở đây và bây giờ?
Mỗi người chúng ta có thể tự đặt câu hỏi: Sự tin cậy của tôi đối với Ðức Chúa Trời như thế nào? Tôi có cảm nghiệm được sự thanh thản bởi đã tin cậy, yêu thương và phó thác bản thân và cuộc sống tôi cho Ðức Chúa Trời, hay tôi lại vẫn còn luôn áy náy, bồn chồn, lo sợ, bởi chưa trao gửi trọn vẹn niềm tin cậy và yêu thương của tôi cho Ngài? Ta có thể dùng một lời trong Phúc Âm để áp dụng TT nầy vào cuộc sống của chúng ta: "Nếu các ngươi không sám hối quay lại và trở nên như một trẻ em, thì các ngươi không thể vào được Nước Trời" (Mathiơ 18:3). Chúng ta nhất thiết phải trao phó trọn vẹn chính mình chúng ta cho Ðức Chúa Trời độc nhất và cao cả.
Chúng ta cũng có thể nương vào lời của thân mẫu Ðức Maria mà nói lên rằng: "Linh hồn tôi ngợi khen sự cao cả của Ðức Chúa Trời, vì Ngài đã nhìn đến phận nữ tỳ bé mọn của tôi" (Luca 1:46,48). Ðó là Thi Thiên của thân mẫu Ðức Giêsu, người đã nhìn nhận sự cao cả của việc Ðức Chúa Trời làm nơi thân phận nhỏ bé của mình, và như thế đã được khỏa lấp tràn đầy bởi sự giàu có vô biên của chính Ðức Chúa Trời.
(3). Tôi thưa gì với Ðức Chúa Trời qua TT nầy?
Tôi có thể đọc TT nầy lên như là bằng chứng tôi đã từ bỏ mọi ảo vọng kiêu kỳ, vị kỷ và bất lực của riêng bản thân tôi, và đồng thời như chứng từ của niềm tin tuyệt đối của tôi đặt để tất cả mọi hy vọng của đời tôi trong tay Ðức Chúa Trời, Ðấng trong từng giây phút là niềm tin và hy vọng của tôi?
Nguyện xin Ðức Chúa Trời ban cho ta một niềm tin vững chắc và trọn vẹn vào Ngài. Nguyện xin Chúa làm cho niềm tin nầy được trở thành nền tảng cho cuộc sống của chúng ta, và làm cho mọi hành động của chúng ta được trở nên những bằng chứng của niềm tin cậy vững chắc đó.
Trên con đường "hành trình tâm linh con người tìm về Ðức Chúa Trời", chúng ta đã lấy TT 131 làm điểm xuất phát, làm điểm khởi hành, bởi TT 131 nầy mở ra trước mắt ta một "khải tượng" lớn lao và vững chắc cho "hành trình tâm linh tìm Chúa" của chúng ta: Chỉ một mình Ðức Chúa Trời là độc nhất và cao cả! Chỉ một mình Ngài là điểm tựa và là điểm quy chiếu vững chắc nhất cho cuộc sống của con người, gia đình, xã hội và hội thánh.
C. Kết thúc và kết nguyện:
- Ðiều thực hành: Mỗi người chúng ta sẽ trầm lặng ra mắt trước mặt Ðức Chúa Trời, suy nghĩ và tìm ra cho mình một điều thực hành thích hợp, diễn tả thái độ đức tin của chúng ta đối với điểm quy chiếu tuyệt đối là Ðức Chúa Trời, Ðấng độc nhất cao cả và vô biên, Ðấng đầy yêu thương và thành tín, Ðấng có sẵn một chương trình xây dựng cuộc sống của chúng ta, và mời gọi chúng ta góp phần xây dựng chương trình yêu thương đó trong gia đình, xã hội, hội thánh nơi ta đang sinh sống.
Có thể chăng lấy điều thực hành sau đây:
Công việc xây dựng hội thánh là một chương trình lớn lao của Ðức Chúa Trời. Tôi sẽ tận lực góp phần xây dựng, bằng cách trong ngày hôm nay (và trong tuần nầy) chia sẻ Lời Chúa cho một người trong (hoặc ngoài) hội thánh, thăm viếng an ủi một người đau ốm hoặc bị giam cầm, tránh nói xấu về một người anh chị em, làm một cử chỉ giải hòa và yêu thương đối với một người mình không ưa thích...
Nguyện xin Thánh Linh Chúa ban cho ta linh lực yêu thương, sáng kiến và sức mạnh để thực hiện điều thực hành nầy.
- Lời kết nguyện: Tự mình đưa ra một lời cầu nguyện thích ứng với hoàn cảnh cá nhân và với điều thực hành. Cũng có thể lấy lại lời kết nguyện ở phần Dẫn Nhập, diễn tả sự trao gửi, phó thác và dâng hiến mình cho Ðức Chúa Trời (x.Dẫn Nhập, 7).