Ðọc Kinh Thánh: Thi Thiên 150
Bài ca Halleluja:
(phối hợp bản dịch của Martin Luther và của HTTLVN):
1 Hãy ngợi khen Ðức Chúa Trời trong nơi thánh Ngài,
Hãy ngợi khen Ngài trên bầu trời đầy quyền năng Ngài!
2 Hãy ngợi khen Ngài vì các việc lớn lao của Ngài,
Hãy ngợi khen Ngài vì sự oai nghi cả thể của Ngài!
3 Hãy ngợi khen Ngài với kèn thổi,
Hãy ngợi khen Ngài với đàn sắt đàn cầm!
4 Hãy ngợi khen Ngài với trống cơm và nhảy múa,
Hãy ngợi khen Ngài với đàn dây đàn thổi!
5 Hãy ngợi khen Ngài với xập xỏa vang thanh,
Hãy ngợi khen Ngài với mã la kêu rền!
6 Hỡi tất cả mọi loài sinh sống,
hãy ngợi khen Ðức Giêhôva!
Hallelu-ja
Ha-lê-lu-gia!
Bài ca Halleluja:
(bản dịch của NPDCGKPV, để tham chiếu):
1 Ca tụng Chúa đi, trong đền thánh Chúa,
ca tụng Người chốn cao thẳm uy linh.
2 Ca tụng Chúa vì công trình hùng vĩ,
ca tụng Người lẫm liệt uy phong.
3 Ca tụng Chúa đi, rập theo tiếng tù và,
ca tụng Người, họa tiếng cầm tiếng sắt.
4 Ca tụng Chúa, bằng vũ điệu trống đưa,
ca tụng Người, theo cung đàn nhịp sáo.
5 Ca tụng Chúa đi, với chũm chọe vang rền,
ca tụng Người cùng thanh la inh ỏi.
6 Hỡi toàn thể chúng sinh,
ca tụng Chúa đi nào!
Ha-lê-lui-a.
Diễn giải:
Tôn ca:
Như trong phần Dẫn Nhập đã trình bày, Thi Thiên là một tập sách tôn ca và cầu nguyện trong Kinh Thánh Cựu Ước, gồm 150 bài. Tập sách TT được chia nhỏ ra làm 5 quyển, mỗi quyển gồm từ 17 đến nhiều nhất là 40 hoặc 44 bài.
- Quyển 1 gồm các bài: 1 – 41;
- Quyển 2 gồm các bài: 41 – 72;
- Quyển 3 gồm các bài: 73 – 89;
- Quyển 4 gồm các bài: 90 – 106;
- Quyển 5 gồm các bài: 107 – 150.
Trong chủ đích giới thiệu "Con Đường Tâm Linh Tìm Chúa" thông qua một số Thi Thiên, chúng ta cho đến bây giờ đã học hỏi và suy niệm được một số TT: các TT 1, 6, 8 và 29 thuộc quyển thứ nhất, TT 73 thuộc quyển thứ ba, TT 131 và bây giờ TT 150 thuộc quyển thứ năm cuối cùng.
Một điều đặc sắc đáng được lưu ý: mỗi quyển trong cả 5 quyển TT đều được kết thúc bằng một câu tôn ca. Câu kết của TT 41 là: "Chúc tụng Ðức Giêhôva là Chúa của Israen, từ trước vô cùng cho đến đời đời! Amen! Amen!". Câu kết của TT 72 là: "Chúc tụng Ðức Giêhôva là Chúa của Israen, chỉ có Ngài làm nên những công trình kỳ diệu, muôn muôn đời xin chúc tụng danh Chúa hiển vinh, ước gì vinh quang Chúa chiếu tỏa khắp hoàn cầu! Amen! Amen!" Câu kết của TT 89: "Chúc tụng Ðức Giêhôva đến muôn đời! Amen! Amen!". Câu kết của TT 106: "Chúc tụng Ðức Giêhôva là Chúa của Israen, từ trước vô cùng cho đến đời đời! Toàn dân hãy hô lớn: Amen! Amen!".
Và lời tôn ca của TT cuối cùng của quyển thứ 5 không chỉ giới hạn vào một câu chót: "Hỡi tất cả mọi loài sinh sống, hãy ngợi khen Ðức Giêhôva!", nhưng còn được mở rộng đến toàn cả TT: Cả TT đều là tôn ca, đó là TT 150. Người ta có cảm tưởng soạn giả cuối cùng của tập TT đã muốn niêm ấn toàn tập thi ca nầy với một bài thơ tôn ca, diễn tả thái độ căn bản của con người cầu nguyện tin Chúa, và thái độ đó cũng là thái độ căn bản cho toàn tập TT.
Như chúng ta đã nhiều lần đề cập đến, tôn ca cùng với ca thán là hai thành tố cơ bản trong lời cầu nguyện của người dothái. Trong sốù 150 bài TT, thì đã có xấp xỉ một nửa là những TT tôn ca và cảm tạ, còn một nửa là những TT ca thán và cầu xin. Tôn ca và ca thán, cũng như cảm tạ và cầu xin, đó là hai tâm trạng cơ bản - song kết hoặc luân phiên - của người cầu nguyện với Chúa. Hai tâm trạng đó dường như là hai gương mặt bổ túc của hiện hữu con người, giống như ngày và đêm, sáng và tối.
Tôn ca phát xuất từ đáy sâu của trái tim con người và mang một ý nghĩa nhân chủng (anthropologique), nghĩa là nó biểu lộ cái nhìn về con người trước mặt Chúa, con người với khả năng biết kinh ngạc và ngưỡng mộ, biết nhìn nhận hiện hữu như một ơn ban cho và hoan hỉ vui mầng, biết hân hoan và trân quý mầu nhiệm sự sống và ngọn nguồn sự sống là Ðức Chúa Trời. Sau mấy lời ghi nhớ nầy, ta hãy đi sâu vào TT để tìm hiểu và suy niệm.
Hallelu-ja / Hal-lê-lu-gia:
Cấu trúc bài ca (có vẻ chi tiết phức tạp, nhưng hàm chứa rất nhiều ý nghĩa thâm sâu): TT 150 rất đơn giản, với chỉ có 10 tiếng kêu mời và 1 tiếng kêu kết thúc. Cả 10 tiếng kêu mời đều bắt đầu bằng cụm từ "hãy ngợi khen", gây nên nhịp điệu cho toàn bài ca. Cụm từ "hãy ngợi khen" theo tiếng hibá là "hallel", còn phân từ "ja / gia" là viết tắt và (phiên âm) từ hibá "YHWH" (đọc là Yahweh, Jahweh, Giavê; đọc trại ra là Giêhôva) là tên Chúa khải thị cho Môsê (XH 3:14).
Cả 10 tiếng kêu mời "hãy ngợi khen: hallel" đều dùng làm túc-từ không phải với tên "YHWH", nhưng với đại-danh-từ "Ngài" (Anh: him, Pháp: le, Ðức: ihn). Chỉ có tiếng kêu kết thúc cuối bài mới dùng tên "YHWH" làm túc-từ: "hãy ngợi khen Ðức Giavê/Giêhôva": hallelu-ja". Còn một chi tiết nữa: Tiếng kêu mời thứ nhất dùng túc-từ tiếng Hibá "El" (viết tắt của từ Elohim), nghĩa là "Ðức Chúa Trời", chứ không phải danh từ "YHWH" hay đại-danh-từ "Ngài".
Và như thế, ta có lời kêu mời thứ nhất "hãy ngợi khen Ðức Chúa Trời", tiếp đến là 9 lời kêu mời "hãy ngợi khen Ngài", để rồi chấm dứt với lời kêu kết thúc "hãy ngợi khen Ðức Giavê / Ðức Giêhôva". Vậy, Bài Ca TT 150 đã mở đầu lời ngợi khen đến Elohim là Ðức Chúa Trời của toàn thể thế giới từ thời cổ đại, Ðấng mà người dothái tôn kính như là Ðấng Tối Cao, Ðấng con người không dám đến gần, Ðấng vượt lên trên mọi suy tư và tưởng tượng của con người. Trong 10 lời kêu mời tiếp theo, TT cho thấy phải ngợi khen Chúa ở đâu, vì lý do gì và với những nhạc khí nào (Ba điều nầy: nơi chốn, lý do và nhạc cụ, còn sẽ được bàn đến trong những phân đoạn kế tiếp sau đây). Cuối cùng trong lời kêu kết thúc, tác giả TT đã diễn tả sự ước mong (văn phạm dùng ngữ-từ-pháp "ước nguyện"; Hibá: jussiv) kêu gọi không những tuyển dân Chúa, mà tất cả mọi vật biết thở, nghĩa là tất cả chúng sinh, là toàn thể tạo thành "hãy ngợi khen Ðức Giavê / Ðức Giêhôva", Chúa của tuyển dân, của lịch sử, của mạc khải, của cứu rỗi, của sự Chúa ở cùng con người.
Như thế, lời tôn ca được dâng lên Ðức Chúa Trời là Ðấng tạo thành thế giới, là Chúa tể vũ trụ, để rồi kết thúc với lời ngợi khen Ngài là Chúa của lịch sử, của mạc khải và của ơn cứu rỗi.
Một số vấn đề còn được đặt ra: Trong các lời kêu mời ngợi khen, TT đã kêu mời những ai, ngợi khen ở đâu, vì lý do gì và với những nhạc khí nào. Về nơi chốn, TT nói: "hãy ngợi khen Chúa trong nơi thánh Ngài, hãy ngợi khen Ngài trên bầu trời đầy quyền năng Ngài" (c.1). Về lý do, TT viết "hãy ngợi khen Ngài vì các việc lớn lao của Ngài, hãy ngợi khen Ngài vì sự oai nghi cả thể của Ngài" (c.2). Về các nhạc cụ, TT cho biết: kèn, đàn sắt và đàn cầm, trống cơm và nhảy múa, đàn dây và đàn thổi, xập xỏa và mã la (cc. 3-5).
Những người được mời và nơi chốn ngợi khen:
TT kêu mời những ai ngợi khen? Nếu ta biết được nơi chốn ngợi khen, thì ta cũng sẽ biết được những ai được mời ngợi khen. Câu thứ nhất nói: "Hãy ngợi khen Ðức Chúa Trời trong nơi thánh Ngài!" (c.1a); câu ấy tất nhiên cũng có nghĩa, lời mời được hướng đến những ai ở trong nơi thánh: các tư tế, phụ tế, dân chúng cầu nguyện, toàn thể dân Chúa tham dự lễ nghi tế tự trong đền thờ. Và như thế thì TT bây giờ cũng hướng đến cả chúng ta nữa: chúng ta là toàn thể dân Chúa tựu tập trong nơi thánh, và chúng ta bây giờ cũng được kêu mời ngợi khen Chúa khi kết thúc giờ phút suy gẫm và cầu nguyện nầy.
Một nơi chốn thứ hai lại cũng đưa ta đến một nhóm những kẻ được kêu mời ngợi khen nữa: "Hãy ngợi khen Ngài trên bầu trời đầy quyền năng Ngài!" (c.1b). Bầu trời đầy quyền năng Chúa là gì? Ðó là "trời" được xem như ngai tòa Chúa ngự và là đền thánh trên trời. Vậy những người được kêu mời ngợi khen Chúa không những chỉ là những con người trong đền thánh ở dưới đất, mà còn cả thế giới thần linh, cả các thiên sứ chầu chực chung quanh Chúa trong đền thánh trên trời.
Giống như các thiên sứ đã hát xướng ngày Chúa Giêsu giáng sinh: "Sáng danh Chúa trên tầng trời cao, bình an dưới thế cho người Chúa thương" (Lc 2:14), và như trong Kinh Lạy Cha: "Ý Cha được nên, dưới đất cũng như trên trời" (Mt 6:10), thì đây lời tôn ca cũng mang những chiều kích hoàn vũ; đó là lời tôn ca dưới đất, được xướng hợp với lời tôn ca trên trời.
TT nầy muốn nói lên rằng, lời tôn ca của chúng ta được vang dội khắp cùng trái đất, cũng được vang dội khắp cả trời cao, được vang dội trong nơi mà tất cả mọi sự đều tốt lành và hoàn hảo. Lời tôn ca của chúng ta xem ra nhỏ bé và mong manh, nhưng đích thực thì lại được nâng cao nên tốt lành và bền vững trong sự vững bền và tốt lành của Chúa.
Và cuối cùng, những kẻ được kêu mời ngợi khen, ngoài dân Chúa trong đền thánh và các thiên sứ trên trời cao, còn là tất cả mọi loài sinh sống: "phàm vật chi thở" (bản dịch của HTTLVN), "tất cả mọi vật có sinh khí", theo nguyên văn Hibá. Hết thảy nơi đâu và khi nào có "hơi khí" sự sống, trong toàn cả tạo thành, hãy ngợi khen Ðức Giavê!
Những lý do ngợi khen:
"Hãy ngợi khen Ngài vì các việc lớn lao của Ngài, hãy ngợi khen Ngài vì sự oai nghi cả thể của Ngài" (c.2). Nguyên văn hibá: "Hãy ngợi khen Ngài vì các việc do quyền phép của Ngài".
Những việc lớn lao, những việc do quyền phép của Chúa là gì? Ðối với người dothái cầu nguyện với TT nầy, những việc lớn lao của Chúa làm đó rất rõ: đó là thoát ra khỏi Êdíptô, vượt qua Biển Ðỏ, hành cước trong sa mạc và vào Ðất Hứa, thành lập tuyển Dân, Lề Luật ban tại núi Sinai. Ðó là những việc lớn lao và lạ lùng Chúa đã làm cho con người lịch sử cụ thể, cho Israen và cho mỗi một con người. Ðó là những việc lớn lao mà nhiều bài TT đã nói tới.
Tỉ như trong TT 106: "Ai sẽ tường thuật những vĩ công Chúa làm?... Người ngăm đe Biển Ðỏ, Biển liền cạn khô... Chúa ban dư đầy những điều họ xin... " (cc.1, 9, 15).
TT 136: "Hãy tạ ơn Chúa, vì Chúa nhân từ, Chỉ có Người làm nên những kỳ công vĩ đại... Tầng trời cao, Chúa tạo dựng tài tình, Trải mặt đất này trên làn nước bao la... Nước Biển Ðỏ Chúa phân làm hai khối, Ðưa Israen lối giữa băng qua... Chúa dẫn đưa dân Người qua sa mạc... Chúa đã nhớ đến ta giữa cảnh nhục nhằn, Gỡ ta thoát khỏi tay thù địch..." (cc. 1-6, 11-14, 16, 23-24).
Ðó là những việc lớn lao Chúa làm, mà TT 150 đã ngụ ý nói đến. Ta có thể nói, TT 150 là bản tổng hợp các TT tôn ca. Tất cả mọi lý do thiên nhiên và lịch sử mà Israen đã kinh nghiệm được và đã hát lên ngợi khen Chúa, thì đã được kết tinh trong lời kêu mời tôn ca trong TT 150 nầy: "Hãy ngợi khen Chúa vì các việc lớn lao của Ngài, Hãy ngợi khen Ngài vì sự oai nghi cả thể của Ngài!" (c.2).
Từ việc chiêm ngắm sự lớn lao của công việc Chúa làm, lời tôn ca đó đã đi đến việc chiêm ngắm sự lớn lao của chính Chúa. Giống như trong TT 104: "Lạy Chúa là Chúa con thờ, Chúa thật muôn trùng cao cả!... Công trình Ngài quả thiên hình vạn trạng!... Này đại dương bát ngát mênh mông, nơi muôn vật to nhỏ vẫy vùng, nơi tàu bè cỡi sóng và thủy quái tung tăng... " (cc.1, 14-26). Chúa thật muôn trùng cao cả, bởi cao cả là những công việc Chúa làm!
Ðó cũng là điệp khúc và tứ thơ trong bài ca "Ngợi Khen" của Maria thân mẫu Chúa Giêsu: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, Tâm thần tôi mừng rỡ trong Ðức Chúa Trời là Cứu Chúa tôi! Vì Ngài đã đoái đến sự hèn hạ của tôi tớ Ngài... Bởi Ðấng Toàn Năng đã làm các việc lớn cho tôi..." (Lc 1:46tt).
Những nhạc khí ngợi khen:
Tiếp theo những nơi thánh và những lý do ngợi khen, TT kể ra những nhạc cụ được dùng để ca ngợi: kèn (có bản dịch: tù và, bởi đây là sừng cừu), đàn sắt và đàn cầm, trống cơm và nhảy múa, đàn dây và đàn thổi, xập xỏa và mã la. Ðó là danh sách những nhạc khí mà Israen hồi bấy giờ có để ca xướng.
Kèn hoặc tù và (làm bằng sừng cừu) đã được dùng tỉ như trong trường hợp chiếm thành Giêricô (Giôsuê 5:13 – 6:27), đó là nhạc cụ của các tư tế; đàn sắt và đàn cầm là nhạc khí của các thầy phụ tế (Lêvi); còn những nhạc cụ khác còn lại và các điệu múa là của toàn thể dân chúng được dùng trong những lễ nghi phụng tế trong đền thờ: trống cơm và nhảy múa, đàn dây và đàn thổi (đàn gió), xập xỏa và mã la.
Các nhạc khí như thế cũng cho biết về những người cử hành ngợi khen trong đền thờ: tư tế, phụ tế (Lêvi), toàn thể dân chúng. Mỗi người đều có dự phần. Không phải một việc tôn ca, trong đó có người hát xướng, có người lại im lặng ngồi nghe, nhưng tất cả đều tích cực tham gia và sáng tạo. Việc kể ra những nhạc khí như đàn dây, đàn thổi và trống đánh là một cách nói lên những khả năng mà con người hồi bấy giờ có, nghĩa là con người với tất cả cơ thể, tay chân, quan năng và vật dụng của mình đều được xử dụng để tôn ca Ðức Chúa Trời Ðấng Tối Cao.
Ta có thể tìm hiểu thêm một chi tiết: Những cụm từ "xập xỏa vang thanh" và "mã la kêu rền" - nguyên văn hibá: "thanh la vang rền" - có hàm chứa ý nghĩa gì? Tiếng "vang rền" là một thuật ngữ nguyên lai muốn nói về "tiếng kêu tác chiến", "tiếng kêu hiển dương". Và như thế, các cụm từ nói trên hàm chứa ý nghĩa "hiển dương" Ðức Chúa Trời là Vua, là Chúa, là Ðấng Mêsi, là Ðấng Giải Cứu. Những thuật ngữ "hiển dương" tương tự như thế cũng thường được dùng trong các ngày lễ hội, trong các cuộc rước xách kiệu hành, hoặc như trong các cuộc "míttinh" ngày nay với những tiếng kêu "hoan hô", tất cả với dụng ý diễn tả sự tán thành hoặc tán thưởng vào cao điểm của một buổi tập họp lớn.
Ðiều nầy đưa lại cho ta một chút ánh sáng về hai câu trong Phúc Âm Giăng: "Vào ngày cuối cùng của ngày đại lễ, Chúa Giêsu đứng lên mà kêu lớn tiếng rằng: Ai khát thì hãy đến cùng Ta và hãy uống..." (Gi 7:37). "Kêu lớn tiếng" ở đây không phải chỉ vì phải nói thật to tiếng cho mọi người nghe được; nhưng đây là cao điểm của một tuần "đại lễ nhà lều" (lễ lớn nhất) tôn vinh và cảm tạ Chúa đã làm những việc vô cùng trọng đại cho tuyển dân Ngài (Lêviký 23:33-43). Chúa Giêsu đã "đứng lên" (chứ không phải cứ ngồi yên như bình thường các thầy thông luật) và "kêu lớn tiếng" (hilạp: ekraxen; latinh: clamabat ) diễn tả sự phấn khởi, điều quan trọng, sự hiển dương những công việc vĩ đại Ðức Giêhôva đã làm trong lịch sử, và nay còn làm qua việc ban nước sống và giải cứu nơi Ðức Giêsu.
Một câu khác trong cao điểm của tuần lễ Vượt Qua (Pascha): "Chúa Giêsu đã hô lớn tiếng và nói: Kẻ tin vào Ta, không phải là tin vào Ta, mà là vào Ðấng đã sai Ta" (Gi 12:44). Chúa Giêsu đã hòa mình vào bầu khí vui mầng và phấn khởi cao độ của toàn dân ở cuối mùa lễ trong đền thờ, để loan báo sự giải cứu của Ðức Chúa Trời nay được tỏ hiện và được thực hiện trong Ðức Giêsu là Ðấng độc nhất được Cha sai đến.
Ðể kết thúc việc phân tích văn bản nầy, ta có thể nói: qua ngôn ngữ, cấu trúc và quan điểm trình bày, TT 150 đã niêm ấn tập sách Thi Thiên bằng một bài tôn ca mang tính phụng tế và với một chiều kích hoàn vũ, và qua đó đã diễn tả thái độ căn bản của con người trước mặt Ðức Chúa Trời: thái độ ngưỡng mộ, tôn kính, ngợi ca và tri ân cảm tạ.