TRIẾT
LÝ VIỆT TRONG NỀN VĂN HÓA ẨM THỰC
Viet-Philosophy in the Culture of Eating
Trần
Văn Đoàn
TRIẾT LÝ VIỆT TRONG VĂN HÓA ẨM THỰC
VIET-PHILOSOPHY IN
THE CULTURE OF EATING
Hội Thảo Thường Niên của Viện Triết Đạo
The Annual Conference of The Vietnamese Institute of Philosophy and
Religion
Los Angeles, 08-10 July 2005 và Washington, D.C., 15-17 July 2005
Trần Văn Đoàn ☆
1. Dẫn Nhập

Như tác gỉa từng khẳng định trong những luận văn trước đây, triết lý Việt
không chỉ có thấy trong những tác phẩm của giới trí thức, đặc biệt giới
nho sĩ hay tăng sĩ, mà thôi. Nó còn sâu đậm hơn trong chính những nền văn hóa
dân gian như nền văn học bình dân, nền nghệ thuật nông thôn, và nhất là qua
cách ăn, cách nói, cách sống, cách cư xử của người Việt. Chính cuộc sống Việt
mới là cội nguồn của nền văn hóa Việt.[3][3]
Từ một lối nhìn như vậy bài viết này chủ trương, để xây dựng một nền Việt Triết,
ta có thể bắt đầu với việc suy tư, phân tích cũng như khai quật nguyên lý của
những sinh hoạt chung trong cộng đồng người Việt. Nơi đây, bài tham luận nhắm
khai quật cái đạo và cái lý (tức nguyên lý và lý do) trong những
cách thế ăn uống, phép tắc ăn uống, tổ chức ăn uống như tiệc tùng, giỗ, mừng,
khao vọng, cúng tế, đãi, bố thí, vân vân.[4][4]
Chúng tôi muốn biết họ nghĩ như thế nào về ăn uống. Tại sao người Việt bắt đầu
với từ ăn, và gắn liền ăn với mọi sinh hoạt khác như ở, uống, nằm, chơi, ỉa. Luận
văn cũng muốn tìm hiểu họ theo phương cách nào để ăn uống, họ diễn đạt mình như
thế nào qua cách thế ăn uống, qua chính những thực phẩm và lối nấu nướng. Nói
cách chung, cái đạo lý ăn uống (tức đạo ăn) của họ có phản ánh được đạo
sống[5][5]
của họ hay không.
Như các bài viết khác, luận
văn bắt đầu với công việc phân tích và xếp loại những cách thế suy tư về lối ăn
uống, cũng như về phong tục, quy luật ăn uống như thấy trong ca dao, tục ngữ.[6][6]
Trong phần thứ hai, người viết đi xa hơn, đào sâu vào những nguyên lý
đàng sau những thói quen, phong tục, quy luật này. Nói cách khác, để hiểu lý
do tại sao người Việt lại chọn một loại thực phẩm nào đó cho những buổi lễ
lạy cố định, tại sao họ phải tuân theo cách thế ăn uống vào những dịp hay những
nơi công cộng như đình, chùa, tại sao họ lại nấu nướng, chế biến thức ăn như vậy.
Nói gọn lại, luận văn đi tìm nguyên lý về sự tương quan giữa ăn uống với lối sống
Việt.
Là một người quan tâm tới
công việc xây dựng một nền thần học Việt mà Viện Triết Đạo đương đeo đuổi,
phần kết luận chỉ là những gợi ý về khả thể của một lối hiểu Việt về nhiệm
tích Thánh Thể, nhằm đóng góp vào những thảo luận đương thời về ý nghĩa của nhiệm
tích này.
2. Đạo Sống và Đạo Ăn
2.1. Ăn Uống Như Là Một Đạo Sống
Như ai cũng biết, câu nói
“có thực mới vực được đạo” không chỉ là một câu nói vui đùa; y hệt như câu thơ
“Ông nghè ông khóa cũng nằm co” không chỉ mang tích chất trào phúng, tự ngạo
mình của giới nho mạt.[7][7]
Chúng phản ánh lối suy tư rất ư thực tiễn của dân Việt: “Dĩ thực vi tiên.” Không
những vậy, ăn uống đã biến thành cái đạo sống, đạo cư xử, hay nói rõ
hơn, đạo làm người Việt. Người Việt lấy “miếng trầu làm đầu câu truyện.”
Họ nhận ra trong ăn uống tính chất linh thiêng (sacred): “Trời đánh còn tránh
miếng ăn.” Họ coi việc mời ăn, mời uống, tặng qùa cáp (thực phẩm) như là thước
đo lòng người: “có đi có lại mới toại lòng nhau.” Dĩ nhiên, đó cũng là một lẽ tất
yếu trong cuộc giao tiếp: “hòn đất ném đi hòn chì ném lại.” Và họ diễn tả cái đạo
làm người, lòng tôn kính tổ tiên qua “đạo ăn”: “Ăn qủa nhớ kẻ trồng cây,” hay
qua “đạo uống”: “uống nước nhớ nguồn.” Thế nên, họ chán ghét những kẻ “ăn cháo
đá bát,” “qua cầu rút ván,” hay “vắt chanh bỏ vỏ.” Họ chê bai bọn “ăn quỵt,”
“ăn bẩn,” “ăn bớt, ăn xén.” Họ không thích những kẻ “ăn bậy, ăn bạ,” hay “ăn
trên ngồi chốc.” Họ khinh bỉ “bọn” “ăn không ngồi rồi,” “mồm lê mách lẻo,” “ăn
chực, ăn rình.” Nói cách chung, chỉ có bọn tiểu nhân không xứng đáng cái danh
hiệu trai Việt gái Nam, mới có cái lối “ăn bậy uống bạ,” “ăn ở vô phép vô tắc,”
“ăn gian nói dối,” “ăn bám,” “ăn nợ” như vậy. Vậy nên, ta có thể nói, những câu
nói tương tự phản ánh được bản chất của người Việt. Và qua chính những câu nói
như vậy, ta có thể thấy được cách sống, tầm quan trọng cũng như đạo
lý sống của họ. Một đạo lý mà theo người Việt, ngay cả ông Trời cũng công
nhận và tuân thủ: “Trời đánh còn tránh bữa ăn.”
Trong giới nho gia, Nguyễn
Khuyến không phải là thi sĩ duy nhất bị ăn uống “ám nhập.” Giới văn, thi sĩ như
Tản Đà, Trần Tế Xương, rồi Vũ Trọng Phụng, Thạch Lam, và gần đây hơn, Nguyễn
Tuân, Vũ Bằng…đều bị ăn uống “ám ảnh” cả. Thế nhưng, ai dám cáo tội họ là bọn
phàm phu tục tử. Thật ra, họ chẳng phàm chẳng tục. Đúng hơn, họ can đảm viết ra
những ý nghĩ trung thực của người Việt: có thực mới vực được đạo và dĩ thực vi
tiên.
2.2. Ăn Uống và Phép Tắc Xã Hội
Con người Việt, cách chung,
đều suy tư chung quanh lối ăn uống. Xác định nền văn hóa cao, thấp, họ nhìn
cách thế ăn uống. “Ăn lông ở lỗ” chỉ nền văn hóa thô sơ, trong khi “ăn sang,”
“ăn chơi”… chỉ một nền văn hóa hưởng thụ. Để định địa vị, người ta đặt mâm, đặt
đũa, đặt bát, xem món ăn, đo thức uống: “mâm phải cao, đĩa phải đầy.” Vinh dự,
vinh quang, vinh hiển cũng gắn liền với nơi ăn chỗ uống “một miếng giữa làng bằng
xàng xó bếp,” và món ăn “sơn hào hải vị” cũng như cách thế ăn “yến tiệc linh
đình.” Để nói lên tầm quan trọng xã hội, họ chỉ định món ăn, thức uống: thủ lợn
cho người quyền cao chức vọng, cho bậc tiên chỉ; trong khi đuôi, chân, hay những
phần không ngon cho giới lê dân. Sơn hào hải vị, yến xào là những món chỉ có những
bậc quan to chức lớn mới được vua thưởng, trong khi thứ dân thì “vui” với hũ
tương bầm, nồi gạo hẩm, niêu cá rô kho, đĩa rau muống luộc. Mà đúng như vậy,
mâm cao là biểu hiệu của quyền cao chức trọng. Chiếu hoa giữa đình nói lên địa
vị bậc trưởng thượng. Bát hoa, đũa ngà, cốc pha lê, mâm son thếp vàng tự chúng
đã làm nở mày nở mặt người xử dụng. Về đồ uống cũng thế. Rượu ngon chỉ dành cho
những người qúy trọng, cho bạn hiền, vân vân. Những chén rượu cầu kỳ gốc tự Tầu,
tự Tây đã từng là báu vật mà người dân đen chỉ mong được ngắm, chứ đừng nói đến
được sờ vào. Đối với bọn dân “ngu cu đen” thì một bát rượu nhạt, một cốc rượu
“quốc lủi” bên vệ đường hay trong xó bếp cũng đã gọi là qúy. Nhưng đối với họ,
chưa chắc ly rượu sâm banh có ý nghĩa hơn là bát rượu đế, vì không có Bá Nha
thì làm sao Tử Kỳ có thể nhâm nhi nhắm rượu một mình được: rượu ngon phải có bạn
hiền mới thật là ngon.
Để được chấp nhận, công
nhận, ta cần phải khao, phải đãi, phải vọng. Đình đám, tiệc tùng thực ra là
những bữa khao, bữa vọng, bữa đãi, bữa hoan (nghênh), bữa tống (biệt), bữa từ
(khỏi tai nạn), bữa sầu (khổ), vân vân. Danh chính ngôn thuận luôn đi đôi với
khao với đãi: khao làng, khao xóm, đãi quan, đãi họ hàng, đãi bạn bè, và đãi cả
những người giúp việc. Cưới hỏi phải khao phải đãi là lẽ tất nhiên. Nhưng, đậu
đạt, làm ăn phát đạt, thậm chí mua nhà tậu đất, sinh con đẻ cái, nhất nhất ta
cũng phải khao đãi hàng xóm láng diềng. Khao đãi đã thành một cái luật bất
thành văn mà “phép vua cũng phải thua lệ làng.” Nhưng khao đãi không chỉ là một
tục lệ thông thường. Và nơi khao đãi không được tùy tiện. Khao đãi phản ánh cái
thú vui, cái lối diễn tả tâm tình, cái lối giao tiếp, cái đạo sống, cái địa vị
của người đãi, người được đãi, cũng như tầm quan trọng của bữa ăn.[8][8]
Khao vọng chỉ dành cho những vị cao tuổi, hoặc có địa vị. Tiệc chỉ tầm quan trọng;
mà tiệc tùng không chỉ quan trọng mà còn long trọng. Tiệc ở đình mang một tầm
quan trọng đặc biệt, trong khi tiệc ở căn giữa nhà dĩ nhiên là qúy trọng hơn bữa
cơm trong nhà bếp. Nói cho cùng, ăn uống luôn có lý do phản ánh tầm quan trọng
xã hội của người mời cũng như người dự. Hoan nghênh, ta ăn. Tiễn đưa, ta uống.
Vui thì “nhậu nhoẹt.” Buồn thì nhâm nhi. Gặp tri kỷ, ta “chén tạc chén thù.” Thất
bại, ta cùng nhau “rượu vơi sầu khổ.” Lẽ dĩ nhiên, ta cũng thấy những bữa tiệc
tương tự, với những lý do tương tự trong các nền văn hóa khác.[9][9]
Nhưng có lẽ hơn họ, người Việt chúng ta chủ trương, đã ăn thì phải ăn cho đã,
đã uống thì phải uống cho say. “Nhậu chết bỏ,” “say chết luôn,” là những câu nói
thường thấy trên môi trên miệng người Việt. Vay tiền để ăn, mượn tiền để uống
không phải chỉ là kiểu sống của người Nam bộ dễ dãi, mà là cách sống chung của
người Việt. Bởi lẽ, say túy lúy, no kềnh bụng nói lên cái tình quyến luyến của
họ: ”rượu say phải có bạn nồng.” Cái tâm tình này dành cả cho những người qúa cố.
Ma chay thì phải có đám, mà giỗ thì phải là lễ. Đám thì có ăn, có uống, và giỗ
thì còn long trọng hơn. Người Việt ta trở về để giỗ chứ không phải để mừng sinh
nhật. Càng thân thiết thì càng không thể quên ngày giỗ: “Ai ơi ngày giỗ nhớ về.”
Thành thử lễ giỗ thường long trọng và quan trọng hơn. Phần dành cho người qúa cố
không chỉ y hệt dành cho kẻ còn lại, mà nhiều khi lại có phần hơn. Ở cái thế giới
bên kia, họ cũng cần ăn, cần uống, và cần cả tiền bạc để mua đồ ăn thức uống nữa.
Nói tóm lại ngày giỗ mang một ý nghĩa quan trọng, và đám giỗ nói lên tầm quan
trọng này. Ăn uống biểu tả tình thân mật thiết, là một sự “thông công” mà cả
người sống lẫn kẻ đã qua đời đều phải tham dự. Nói cách chung, vui ta ăn, buồn
ta cũng ăn. Gặp may ta ăn, gặp tai nạn, đau khổ ta cũng nhậu để “xả sui,” để bớt
sầu. Ta có mọi cớ để ăn.
Về cách ăn, món ăn, ngưòi giầu
thì phừa phứa, mâm cao đĩa đầy; còn người nghèo thì vài món thanh đạm, một cút
rượu quốc lủi, một gói lạc rang, dăm chiếc bánh đa cũng gọi tạm đủ. Nhưng dù
cho nghèo “rớt mùng tơi,” ngày giỗ, ngày lễ cũng không thể để bếp tro lạnh lẽo.
Lòng thành được biết qua những món ăn. Không có một quy định rõ ràng phải bao
nhiêu món, nhưng ai cũng biết là, càng sang càng trọng càng nhiều,
càng yêu càng qúy càng đắt. Thế nên nhìn vào mâm cỗ, ta biết được
mối quan hệ của người dự tiệc, tình thân nồng thắm vôi trầu hay nhạt như nước ốc
giữa chủ và khách, tầm quan trọng của bữa tiệc, vân vân. Tương tự, nhìn vào món
ăn, ta cũng dễ dàng nhận ra được sự tương quan giữa chủ và khách. Nói tóm lại,
ta có thể biết được tâm tình, mối tương quan, địa vị, tầm quan trọng, mối liên
hệ của người ăn qua chính những bữa ăn, món ăn, chỗ ăn: chức nào phần nấy;
phẩm nào món nấy; trật nào chỗ nấy và tước nào rượu nấy.
Nói như vậy không có nghĩa
là con người Việt chỉ biết có ăn uống, đầu óc chỉ nhét đầy rượu thịt, và cách sống,
phép tắc chỉ toàn là những khao, đãi, mời mọc.[10][10]
Người liêm sỉ vẫn biết “miếng ăn là miếng nhục.” Người trí thức vẫn còn nhớ câu
thơ của nhà thi sĩ họ Nguyễn “ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch, người quân tử
ăn chẳng cầu no.” Người bình dân ai mà chẳng biết “ăn lấy thơm tho, chứ không
ai ăn lấy no, lấy béo.” Người Việt không phải là hạng người “lấy bụng làm
Chúa,” một hạng người từng thấy nơi mọi xã hội mà thánh Bảo Lộc (Phao Lô) từng
chê trách. Họ ăn nhưng không tham, họ uống nhưng không phải là đệ tử của Lưu
Linh,[11][11]
và họ luôn có cái đạo lý chính đáng sau những bữa tiệc đình đám.[12][12]
Nhưng nếu người Việt qủa thật
như thế, thì làm sao ta giải thích được hiện tượng qúa chú trọng vào ăn uống, gần
như bị ám ảnh, của họ? Làm sao ta hiểu được ăn uống gần như đồng nghĩa với sinh
sống? Đó không phải là một nghịch lý hay sao? Sự thực là người Việt, đặc biệt
giới nông thôn nghèo túng, gạo không đủ, thịt không có, y như bất cứ giống người
nào khác, luôn bị cái đói đeo đuổi. Nhưng cho dù bị cái nghèo đói ám ảnh, họ vẫn
không đánh mất liêm sỉ, vẫn chưa đem cái bụng lên làm Chúa, bởi vì ai cũng biết
“miếng ăn là miếng nhục,” và “miếng ăn để đời.” Vào những năm khốn khổ bi đát ở
vùng châu thổ Bắc hà (1945-6), khi mà hàng triệu người chết đói, thì nạn cướp
bóc, đĩ điếm, tuy có, nhưng vẫn còn thua xa các dân tộc khác.[13][13]
Họ tuy cho con đi ở đợ (để con khỏi đói), nhưng không có đem bán chúng như món
hàng hóa. Họ có thể làm lẽ (trường hợp Kiều), nhưng họ vẫn biết, đó là nỗi nhục
họ chịu đựng để cứu gia đình họ.[14][14]
Họ tuy đi ăn xin, nhưng họ vẫn biết đó không phải là một nghề, kiểu nghề “khất
thực” của “cái bang.”[15][15]
Họ tuy phải “bán thân”nhưng họ biết đó là nỗi khổ, nỗi nhục, nỗi đau, và có lẽ
không hề dám nghĩ đến việc hợp pháp hóa, công khai như kỹ nghệ “bán hoa” tại
các nước Âu Mỹ.
Đây không phải là trọng tâm
của bài viết, nên xin không bàn tới. Điều mà chúng tôi chú ý, đó là, đối với
ngưòi Việt, ăn uống là những cách thế, hình thức, và cả phép tắc biểu tả xã hội
Việt, diễn đạt con người Việt, nền luân lý, cách xử thế của họ. Cách thế hay,
hình thức tốt, phép tắc hợp lý tạo ra một xã hội có tôn ti, có trật tự, nói lên
cái chính danh, đạo nghĩa con người; cha ra cha, con ra con; thầy ra thầy trò
ra trò, quan ra quan, dân ra dân. Nguợc lại, vô lễ vô tắc, kém đạo thiếu tình
nói lên một xã hội kiểu “ăn lông ở lỗ.” Nếu qủa như vậy, thì ăn uống cũng có thể
biểu tả được xã hội: ăn uống có phép có tắc nói lên một xã hội tôn ti trật tự;
ngược lại, nhậu nhoẹt sô bồ chỉ phản ánh được lối sống “thiên nhiên” của con
người “tiền sử”: “ăn lỗ miệng, tháo lỗ trôn” hay “ăn lắm thì hết miếng ngon.
Nói lắm thì hết lời khôn hóa rồ.”
2.3. Ăn: Biểu Hiệu Toàn Diện Sinh Sống
Chúng ta bắt đầu với ngôn ngữ
thường nhật về ăn, và không ngạc nhiên khi thấy chữ ăn gần như gắn liền với mọi
tác động, ý thức, phán đoán gía trị, đạo đức của người Việt, từ sinh (ăn nằm,
ăn đẻ) tới cuộc sống (ăn nói, ăn học, ăn nằm, ăn ở…), từ sống tới lạc thú (ăn
chơi, ăn mặc), từ tôn giáo (ăn thờ) tới đạo đức (ăn năn). Mặc dù rất thông dụng
trong ngôn ngữ thường nhật, ta vẫn thử lướt qua các từ ăn tương đối thông dụng:
- Ăn (Bắc mặc Kinh), ăn bám, ăn bậy ăn bạ, ăn bẩn (ăn thỉu), ăn bịp ăn bợm,
ăn bốc, ăn bơ (làm biếng), ăn bớt (bát, nói bớt lời), ăn bữa (sáng, lần bữa tối),
ăn bừa ăn bãi (ăn bừa ăn bứa), ăn bủn (ăn xỉn, ăn bùi)…
- Ăn chực (nằm chờ), ăn cá (bỏ vây), ăn cây (nào rào cây nấy), ăn cắp,
ăn có chỗ (đỗ có nơi, ăn có nơi làm có chỗ, ăn có mời làm có khiến), ăn cỗ (đi
trước, lội nước đi sau), ăn cơm chúa (múa tối ngày), ăn cơm (không rau như nhà
giàu chết không kèn trống), ăn cơm (lửa thóc ăn cóc bỏ gan), ăn cơm mới (nói
chuyện cũ), ăn của ngọt, ăn cay (nuốt đắng), ăn chơi, ăn chạy, ăn chay, ăn chầy
(ăn cối), ăn chịu, ăn chung, ăn chẹn, ăn chừng (mực), ăn chửng ăn chưng, ăn
cùng (nói tận), ăn cỗ, ăn cứt, ăn c. (chửi tục), ăn cúng, ăn chín, ăn công (ăn
tư), ăn của ngon (mặc của tộ), ăn cơm nhà (vác ngà voi), ăn cơm nhà nọ (kháo cà
nhà kia), ăn cơm nhà (thổi tù và hàng tổng), ăn cơm với cáy (thì ngáy o o, ăn
cơm với bò thì lo ngay ngáy), ăn cùng chó (nói só cùng ma), ăn chẳng nên đọi
(nói chẳng nên lời), (ông) ăn chả (bà) ăn nem…
- Ăn dầm nằm dìa, ăn da (lóc thịt), ăn dư (ăn giả), ăn dưng (nói có), ăn
dởm (rởm), ăn dùng, ăn dài, ăn dại, ăn dỗi, ăn dối, ăn dữ, ăn dùng, ăn “dzui”
(vui)…
- Ăn đục (khoét), ăn đàn (anh làm đàn em), ăn đại, ăn đấu (trả bồ), ăn
đong (cho đáng ăn đong), ăn đông (ăn tây), ăn đám, ăn đứng (ăn nằm, ăn ngồi),
ăn đã, ăn đẻ, ăn đề, ăn đêm, ăn đè (ăn nén), ăn đẹp (chơi đẹp), ăn độc ăn địa,
ăn đớp (ăn hít), ăn độn, ăn đồng, ăn đổ, ăn đua, ăn đưa, ăn đón, ăn được (ngủ
được là tiên, ăn được cả, ngã về không), ăn đường…
- Ăn gửi, ăn giỗ, ăn giờ (ăn giấc), ăn gả, ăn giấu ăn giếm, ăn gán, ăn
gượng (ăn ép), ăn gàn (nói gàn), ăn gạ, ăn ngồi (ăn không ngồi rồi)…
- Ăn học, ăn hôi, ăn hờn, ăn hối (lộ), ăn ham, ăn hàng, ăn hại, ăn hết,
ăn hiếp, ăn hung, ăn hớt, ăn hời, ăn hởi, ăn (nói) hồ đồ, ăn (nói) hồ hởi, ăn hộ,
ăn hội đồng, ăn hơi, ăn hỏi…
- Ăn ỉa, ăn ít, ăn ị, ăn ỉm (đi)…
- Ăn không (nói có), ăn khăm, ăn khờ, ăn khoét, ăn khoẻ, ăn khoe, ăn
(nói) khoác lác, ăn khéo, ăn khơi khơi, ăn khổ, ăn khô, ăn khối, ăn khen
(kham)…
- Ăn làm, ăn lắm, ăn lấy (thơm tho), ăn lỗ (miệng tháo lỗ trôn), ăn lông
(ở lỗ), ăn lúc (đói nói lúc say), ăn lời ăn lãi, ăn lợi (ăn hại), ăn lộc
(thánh, vua), ăn liều (nói bậy), ăn lề (phép), ăn lên (ăn xuống)…
- Ăn mặc, ăn (lỗ miệng), ăn mày, ăn mời, ăn mò, ăn mẽ, ăn muộn, ăn mặn
(nói ngay còn hơn ăn chay nói dối), ăn miếng (trả miếng), ăn mướp (bỏ sơ),
- Ăn nằm, ăn ngay (nói) thẳng, ăn nghỉ, ăn ngồi, ăn ngủ, ăn ngố ăn nghếch,
ăn ngu (ăn dại), ăn no (tức bụng), ăn nói, ăn nhạt, ăn nhiều, ăn nhịn, ăn như
(tráng làm như lão), ăn năn…
- Ăn ốc (nói mò), ăn măng (nói mọc, ăn cò nói leo), ăn ớt (sụt sịt ăn
quít ghê răng), ăn ở…
- Ăn phung, ăn phí (ăn phạm), ăn phừa ăn phứa, ăn phúc ăn đức, ăn phò,
ăn (uống) phô trương…
- Ăn qùa, ăn qủa (nhớ kẻ trồng cây), ăn quịt, ăn quen, ăn qúa, ăn quán,
ăn (nói) quê mùa…
- Ăn rỗi, ăn rờ, ăn rượu (nếp chết vì say), ăn rồi (lại nằm mèo), ăn rơi
ăn rác, ăn rủa (ăn riếc), ăn rửng ăn rưng, ăn rành…
- Ăn sung (trả ngái), ăn sơ sơ, ăn sõi, ăn sống, ăn (uống) sô bồ, ăn sướng,
ăn sả (láng)…
- Ăn tàn (theo đóm), ăn to (nói lớn), ăn tanh (ăn bẩn), ăn tham, ăn thật,
ăn thúng (trả đấu), ăn trái (nhớ kẻ trồng cây), ăn trắng (mặt trơn), ăn trấu,
ăn treo, ăn trên (ngồi chốc), ăn trông (nồi ngồi trông hướng), ăn trộm, ăn
tiêu,
- Ăn uống (tìm đến đánh nhau tìm đi)…
- Ăn vạ, ăn vờ ăn vịt, ăn vặt ăn vãnh, ăn vụng, ăn vóc (học hay), ăn vội
ăn vã, ăn vung ăn vít, ăn vốn (ăn lời), ăn vơ ăn vét, ăn vui…
- Ăn xổi (ở thì), ăn xôi (chùa ngọng miệng), ăn xép, ăn xưa (chừa sau),
ăn xuông...
- Ăn yếu…
Ngoài từ ăn, ta có những từ tương tự diễn tả ăn, nhưng thường mang nghĩa
xấu hơn là tốt:
- Nhậu (thông dụng trong miền Nam): nhậu nhoẹt, nhậu tưng bừng,
nhậu chết bỏ, nhậu cho đã, nhậu tùm lum, nhậu bậy nhậu bạ, nhậu tôm, nhậu cá,
nhậu dê, nhậu chó… nhậu càn, nhậu tham, nhậu lậu..
- Đớp (thông dụng ở miền Bắc): đớp hít, đớp miếng cơm, đớp bậy đớp
bạ, (cũng có nghĩa là cắn), đớp trước đớp sau, đớp của (thiên hạ) (có nghĩa ăn
cắp, tham nhũng), đớp thịt đớp cá, đớp người (cũng có nghĩa là cắn, hay đánh),
đớp tiền đớp bạc (có nghĩa là ăn cắp, ăn quỵt),
- Biện: biện cơm em, biện (biển) thủ, biện sĩ (người trí thức chỉ
biết ăn, khác với biện sĩ, người biện hộ)..
- Thực (tiếng Hán, sực, Quảng Đông, ăn): thực phẩm, thực khách,
thực đơn, thực phạn.
- Chén: Chén vốn có nghĩa là bát đĩa dùng để uống, ăn (chén rượu,
chén cơm, chén rau), nhưng nơi đây chỉ tác động ăn uống: chén tạc chén thù,
đánh chén, ăn chén (ăn tiệc), vân vân.
2.4. Phân Tích Những Đặc Tính Trong Văn Hóa Ăn
Từ những nhận định sơ bộ, và
từ những câu nói liên quan tới ăn trong phần trên, ta thấy ăn uống là một phần
tối quan trọng không thể tách rời khỏi đời sống Việt. Tầm quan trọng, cũng như
tầm ảnh hưởng rộng lớn của sinh hoạt ăn uống từng được người dân công nhận như
chính cuộc sống. Chính vì thế mà từ ăn không chỉ hành động ăn, từ uống không chỉ
biểu tả tác động uống mà thôi. Chúng nói lên mọi sinh hoạt của con người Việt,
mọi phán đoán đạo đức, cũng như tâm tình của họ. Người ngoại quốc sẽ không
hiểu, mà rất có thể cho là người Việt ngớ ngẩn, kỳ cục khi dùng những từ không
tương xứng, hay không thể có như ăn nằm, ăn tục, ăn bậy ăn bạ, ăn chơi, ăn bẩn
ăn thỉu, ăn cháo đá bát. Họ khó có thể hiểu được kiểu nói như ăn trên ngồi
chốc, ăn liều nói càn, ăn nói vô duyên, vân vân. Lẽ dĩ nhiên, họ càng không
thể (hay không dễ mà) hiểu được những kiểu ví von như ăn năn (hối lỗi), ăn
chực nằm chờ, ăn phải bùa ngải, ăn ở với nhau, vân vân. Trong phần tới,
chúng tôi thử phân tích những từ, những kiểu nói trên trong mối liên quan với
những khía cạnh của cuộc sống.
2.3.1. Ăn là một hành vi thuần túy với những mục đích khác nhau
Nơi đây từ ăn nói lên động
tác ăn với nhiều mục đích khác nhau. Ăn để sống, ăn để vui, ăn để xã giao, ăn để
quên buồn, ăn để mừng, vân vân, và nhất là ăn là một lối hưởng thụ. Sinh hoạt
ăn này chỉ mang ý nghĩa ăn thuần túy, tức dùng miệng, răng để ăn, và tiêu hóa
trong bụng. Do đó, ăn luôn đi với thực phẩm, như ăn cái gì; với cách ăn, vác
cách thế nấu ăn: phải ăn ra sao; đồ ăn gì phải ăn cứng, thức ăn gì phải ăn mềm,
thịt rau loại gì phải ăn sống hay ăn chín hay ăn tái, phải nấu thế nào: “cải nhừ
cần tái,” “bò tái trâu nhừ.” Rồi, thực phẩm nào cần gia vị nào: “chó riềng, gà
hành,” vân vân. Hơn thế nữa, bữa cơm ngon cần có một Bá Nha, một Tử Kỳ. Bữa ăn
mà không có câu chuyện “làm qùa” thì lạnh lẽo như bữa cơm ma, rượu thì nhạt hơn
cả nước ốc. Chính vì vậy, một người rất biết thưởng thức nghệ thuật ăn như Tản
Đà từng đưa ra bốn nguyên tắc về nghệ thuật ăn: món ăn phải nấu ra sao cho
ngon, người ăn phải ăn với ai mới thú, nơi ăn phải thơ mộng mới thêm thú vị, và
thời gian ăn phải đúng thời điểm mới thêm phần long trọng: “Đồ ăn không ngon,
cơm không ngo. Đồ ăn ngon, người ăn không ngon, bữa ăn không ngon. Đồ ăn ngon,
người ăn tri kỷ, nhưng nơi chốn không đẹp, bữa ăn cũng không ngon; và nếu ở vào
thời điểm không đúng, bữa ăn cũng không ngon.”
Từ đây ta thấy, việc chọn đồ
ăn, việc nấu ăn, cũng như cách ăn, cách chế biến thực phẩm đóng góp một phần
quan trọng trong nghệ thuật ăn, phản ánh lối suy tư Việt.
-
- Về Đồ Ăn: Ăn xôi, ăn thịt, ăn cơm, ăn rau, ăn bánh, ăn
qùa, ăn canh (người Tầu nói là uống canh)… Ăn loại nào, thì phải nấu thế nào,
phải cần gia vị nào, phải nuớng, rán, luôc hay chiên: “Con gà cục tác lá chanh
/ Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi / Con chó khóc đứng khóc ngồi / Mẹ ơi đi chợ
mua tôi đồng riềng.
-
- Về Cách Ăn: Ta phải ăn như thế nào, dùng đũa hay dùng
tay, ngồi hay đứng, ăn trước hay ăn sau, ăn chậm hay ăn nhanh: “ăn chậm mất
ngon,” “Ăn bốc, đái đứng.” Tương tự, ăn đồ gì phải ăn như thế nào: “Ăn cơm lừa
thóc, ăn cóc bỏ gan” hay “Ăn cá bỏ vây,” “Ăn cá nhả xương, ăn đường nuốt chậm.”
-
- Về Thái Độ Ăn: Ta phải ăn như thế nào. Ăn với ai phải có
thái độ nào; ăn ở đình khác với ăn ở nhà; mà ăn với khách lại khác với ăn với bạn
thân. Thế nên, “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng” cũng như “rào trước đón sau.”
Phong tục mời cơm, mời cha mẹ, mời các bậc trưởng thượng dùng cơm trước, rồi ăn
giữ kẽ là những cách biểu hiện thái độ ăn của người Việt.
-
- Về Nơi Ăn: Ta phải ăn ở đâu. Dịp nào phải ăn chỗ nào: “Một bát giữa làng
bằng một sàng xó bếp.” Nhưng để mời khách, người Việt thích mời họ về nhà hơn
là quán. Không phải vì tiết kiệm, nhưng vì đó là một dấu tỏ thân thiện “cơm nhà
lá vườn.” Hay như Nguyễn Khuyến từng diễn đạt: “Đã bấy lâu nay bác tới nhà… Bác
đến chơi đây ta với ta.”
2.3.2. Ăn là một cách sống
Quan trọng hơn, cách ăn uống,
y hệt như cách ăn nói biểu hiện chính cách sống. Thứ nhất, nó biểu hiện qua
hành vi. Chúng ta chỉ cần nhìn người ăn, cách ăn, nơi ăn, thì đã có thể biết được
người đó thuộc loại người nào, trí thức hay lao công, thành thị hay thôn quê, bắc
hay nam. Người lao động húp canh sùm sụp, và cơm như gió, trong khi nhà nho ăn
nhỏ nhẹ, uống nhâm nhi, “ăn chẳng cầu no.” Người buôn bán ăn vội vã, vừa ăn vừa
làm, trong khi những cụ già khề khà với ly rượu nho nhỏ, suốt ngày chưa xong. Từ
những thái độ ăn như vậy, ta thấy chúng nói lên lối sống của mỗi người: người
thợ lam lũ với cách thế ăn mộc mạc, thẳng thừng; người có học, từ từ không vội
vã. Chính vì nhận thấy sự tương quan giữa lối ăn và cách sống, mà ta thấy trong
ca dao tục ngữ không thiếu những câu như “Ăn đã vậy, múa gậy làm sao,” hay “ăn
bốc đái đứng.”
Nếu cách thế ăn uống phản
ánh hành vi con người, thì ở xã hội nào chả thế. Có chi đáng nói. Ở đâu mà giới
thợ thuyền có thể chầm chậm thưởng thức sâm banh như giới qúy tộc nhàn nhã hưởng
thụ? Ở đâu mà giới nông dân có thể hưởng bữa tiệc cả mấy tiếng đồng hồ của bọn
trưởng gỉa học làm sang? Điểm mà chúng tôi muốn nói, đó là cách sống Việt qua lối
ăn uống không chỉ là những phản ứng máy móc, tùy thuộc vào thời gian và công việc.
Hơn thế nữa, miếng ăn, cách ăn phản ánh lối sống, tức lối cư xử cũng như lối
phán đoán giá trị của họ. Thế nên đối với họ, không phải “người thế nào ăn thế
nấy,” mà lối ăn đánh giá trị lối cư xử, lối sống. Họ nói “Ăn đấu trả bồ” khi diễn
tả lối sống sòng phẳng, công bằng. Khi diễn tả sự tranh dành, hay sự ganh đua,
trả thù, họ nói “ăn miếng trả miếng,” hay “chồng ăn chả vợ ăn nem.” Tương tự,
ăn uống nói lên tâm tình tri ân: “ăn qủa nhớ kẻ trồng cây,” hay “uống nước nhớ
nguồn.” Ăn uống cũng nói lên niềm hy vọng:
“Ăn đong cho đáng ăn đong.
Lấy chồng cho đáng hình dong con người
Ăn đua cho đáng ăn đua
Lấy chồng cho đáng việc vua việc làng”
Sau nữa, người Việt đánh giá
trị cách sống bằng chính cách ăn, hay dụng cụ để ăn như bát, đũa, mâm, vân vân.
Thế nên, cách ăn, dụng cụ ăn luôn đi đôi với thân thế, cũng như với tầm quan trọng
của bữa ăn. Người Việt xếp loại bữa ăn theo tầm quan trọng: bữa cơm, bữa cỗ, bữa
tiệc, đám. Ăn không tương xứng với thân phận; dùng dụng cụ ăn không tương xứng
với tầm quan trọng của bữa ăn thường được ví von so sánh với mặt trái của xã hội:
Vợ chồng như đũa có đôi
Bây giờ chống thấp vợ cao
Như đôi đũa lệch so sao cho đều
Hay:
Vợ dại không hại bằng đũa vênh
2.3.3. Ăn là nghệ thuật sống
Khi nói ăn là một cách sống,
là một lối sống, chúng tôi cũng phải nói thêm, đối với người Việt, ăn là một
nghệ thuật sống. Một lối sống có ý nghĩa là một lối sống đầy nghệ thuật, trong
đó có nghệ thuật ăn uống. Chúng ta không lạ gì nghệ thuật uống chè của người Nhật,
lối ăn cầu kỳ của người Trung Hoa, hay những bữa tiệc đầy hình thức của giới
ngoại giao. Chúng làm cuộc sống của họ thêm thú vị, hay ít ra, không mấy nhàm
chán. Tương tự, nơi người Việt, nghệ thuật ăn làm cuộc sống của họ mặn mà hơn.
Cách tiếp khách thân thiện nhất vẫn là một bữa ăn thịnh soạn. Lối yêu thương chồng,
con cái cụ thể nhất, vẫn là việc người vợ, người mẹ “mặt mũi nhọ nhem, mồ hôi
nhễ nhãi” sửa soạn những món ăn người chồng và con cái ưa thích.
Vậy nên, ta có thể nói, nghệ
thuật sống của người Việt không chỉ nói lên cách sống thoải mái, khiến giác
quan thích thú, mà còn hơn thế nữa, nó biểu tả những cảm tình sâu đậm nhất. Qua
ăn, ta có thể tìm được sự thỏa mãn tình cảm. Qua ăn, ta có thể biểu lộ tình
yêu, tình thương, hay sự quan tâm của ta với người khác. Và như vậy, nghệ thuật
ăn của ta có lẽ hơi khác với nghệ thuật ăn uống của các dân tộc khác.
Người mẹ cảm thấy hạnh phúc khi nhìn chồng con “nhồm nhoàm” ăn không kịp thở.
Người con vui sướng khi thấy bố mẹ thưởng thức món qùa (bánh) cô (anh) ta làm
biếu song thân. Nơi đây, ta thấy người Việt diễn tả nghệ thuật sống qua chính
nghệ thuật ăn uống. Nghệ thuật ăn của họ mục đích không chỉ nhắm tăng khẩu vị,
không chỉ để thỏa mãn dạ dày, mà còn để biểu lộ tình cảm của họ. Như vậy, nó
không hoàn toàn chỉ dừng lại nơi nghệ thuật thưởng thức mỹ vị của mỗi cá
nhân. Ta biết người Tầu rất để ý đến mùi vị, mầu sắc, cách xếp món ăn. Nghệ thuật
nấu nướng rất cầu kỳ, không chỉ làm ta “khoái khẩu” mà còn “khoái nhãn,” “khoái
vị,” và “thỏa mãn óc tưởng tượng.” Đối với người Nhật, nghệ thuật ăn, uống phản
ánh nghệ thuật sống của họ: rất tỉ mỉ, rất điêu luyện, gần thiên nhiên (biển cả),
gần thế giới cỏ cây. Nhưng nói chung, đối với người Tầu hay người Nhật, nghệ
thuật ăn mục đích chính vẫn là làm thỏa mãn ngũ giác của chính người đương ăn.
Nghệ thuật bếp núc của họ chưa hẳn gắn bó với tình cảm con người, một cách mật
thiết và một cách toàn diện, như trong các món ăn Việt. Chính vì coi tình cảm
là bản chất, mà đối với người Việt, ăn không chỉ nói lên tình trạng thoải mái của
con ngưòi:
Ăn được ngủ được là tiên
Không ăn không ngủ mất tiền thêm no
Mà còn biểu tả sự hưởng lạc:
Ăn lấy đời, chơi lấy thời
Và nhất là biểu lộ tình thương:
Ăn rượu nếp chết vì say
Chẳng say vì tượu mà say vì người
Say vì cái miệng ai cười
Đôi mắt ai liếc chào mời nò nang.
2.3.4. Ăn uống như là quy luật sống
Quan trọng hơn cả, đó là nguời
Việt thường đánh giá trị con người qua miếng ăn, cách thế ăn. Nói cách khác,
quy luật xã hội thường được người Việt diễn tả qua lối ăn uống: ăn uống phản
ánh phạm trù sống, phương thức sống, cách thế sống và phép tắc sống. Và từ đây,
ta có thể nói, quy luật, phép tắc ăn uống cũng phản ánh một phần lớn phép tắc sống.
Ta thấy trong các câu ca dao tục ngữ như sau:
- Ăn nói lên quy luật sống
Ăn cây nào rào cây nấy
- Ăn nói lên bổn phận sống:
Ăn qủa nhớ kẻ trồng cây
Uống nước nhớ nguồn
- Ăn nói lên phương cách sống
Ăn có nơi làm có chỗ
2.3.5. Miếng ăn nói lên tấm lòng sống:
Nhưng quy luật sống chỉ được
tuân thủ, nếu nó phản ánh, giúp và giải quyết những vấn nạn trong cuộc sống. Và
nhất là nó phát xuất từ chính tấm lòng của con người. Đây là một lý do quan trọng
giải thích vai trò quan trọng của ăn uống trong nền văn hóa Việt. Bài thơ của
Nguyễn Khuyến sau đây được người Việt ưa thích, chính vì nó nói lên tâm tình
chung của dân Việt:
“Đã bấy lâu nay bác tới nhà
Trẻ thời đi vắng chợ thời xa
Ao sâu nước cả không chài cá
Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà
…..
Bác đến chơi đây ta với
ta.”
☆
☆ Trần Văn Đoàn. Giáo Sư
Triết Học, Đại Học Quốc Gia Đài Loan (Đài Bắc). Hiện là Giáo sư Thỉnh Giảng tại
Viện Thần Học, ĐH Salzburg (Áo) và Viện Kinh Tế Quản Trị, ĐH
Thanh Hoa (Bắc Kinh). Nghiên Cứu Viên (Research-Fellow) Viện Con Người
(Hà Nội, Việt Nam), Viện Tinh Thần Quốc Gia (Vũ Hán, Trung Quốc) và Max-Planck
Institut (Starnberg, Đức).
[1][1]
Những nghiên cứu khảo cổ nhân chủng của E.E. Evans-Pritchard, Bronislav
Malinowski, Claude Lévi-Strauss, Clifford Geertz, vân vân, đều nói lên tầm quan
trọng của ăn uống, lễ vật, vân vân, trong sinh hoạt tôn giáo, xã hội của những
xã hội sơ khai. Xin tkh. Claude
Lévi-Strauss, Le Cru et le cuit (Paris: Plon, 1964). Nhà văn Nguyễn
Tuân, một người nổi tiếng về nghệ thuật ăn, nhận định tương tự: “Trong một miếng
ăn cũng thấy rộng được ra những điều cao cả yên vui trên đất nước giầu có tươi
đẹp.” Nguyễn Tuân, “Phở”, trong Văn Hoá Ẩm Thực và Món Ăn Việt Nam, do
Xuân Huy sưu tầm, giới thiệu (Tph Hồ Chí Minh: Nxb Trẻ, 2004), tái bản, tr.
338. Sau đây viết tắt là Xuân Huy.
[2][2] Các từ thông dụng như ăn uống, ăn chơi,
ăn nằm, ăn mặc, ăn ỉa, ăn nói, ăn nghỉ, ăn ngủ… thực ra luôn bao gồm hai động
tác: ăn/uống, ăn/chơi, ăn/nằm, ăn/ỉa, ăn/nói, ăn/nghỉ , ăn/ngủ... Điểm đáng suy
nghĩ, đó là tại sao người Việt luôn bắt đầu với tác động ăn, chứ không ngược lại
như nằm ăn, ngủ ăn, ỉa ăn, uống ăn, chơi ăn, vân vân. Sau nữa, ý nghĩa của ăn nằm,
ăn ở … không dừng nơi tác động ăn và ở, ăn và nằm… nhưng chỉ ra một sinh hoạt
mang tính chất toàn diện hơn. Ăn ở tương đương với to (co)live, ăn nằm
(ăn ngủ) với to (co) habitate, to (inti)mate, ăn uống với to feed, ăn chơi với
to enjoy, vân vân.
[3][3] Xin tkh. Trần Văn Đoàn, Essays on
Asian Philosophy and Religions (Washington, D.C.: The Council for Research
in Values and Philosophy, 2005); Trần Văn Đoàn, Những Suy Tư Về Thần Học Việt
Nam (Washington, D.C.: Vietnam University Press, đương ấn hành); Trần Văn
Đoàn, Towards a Pluralistic Culture. Washington, D.C.: The Councilf for
Research in Values and Philosophy, 2005. Ngoài ra: Trần Văn Đoàn, Việt Triết
Luận Tập I (Washington, D.C.: Vietnam University Press, 200).
[4][4] Tác gỉa Lưu Văn, trong bài “Quan Niệm về
Miếng Ăn qua Cao Dao Tục Ngữ,” đă ng trên Tạp chí Tiến Thủ, số 15 (Xuân Nhâm
Dần 1963), từng viết về “Miếng Ăn hay là Triết Lý của Cuộc Đời.” Trích từ Xuân
Hy, ctr. 68-69.
[5][5] Đạo nơi đây theo nghĩa nguyên
lý, quy tắc và phương thế hay cách thế. Người Nhật có đạo uống
chè (chè đạo), đạo tu tâm (thiền đạo), đạo kiếm (kiếm đạo). Trong võ thuật, ta
có nhu đạo (yếu thắng mạnh), thái cực đạo (vận động theo theo thái cực), vân
vân. Người Tầu hiểu đạo theo nghĩa rộng hơn: Thiên đạo, Địa đạo, nhân đạo,
vật đạo, sư đạo, phụ đạo, quân đạo. Bất cứ cái gì cũng có đạo lý của nó.
[6][6] Tất cả những câu ca dao, tục ngữ trích dẫn
trong bài này, đều dựa theo Xuân Huy, Phần Phụ Lục 1, ctr. 775-814.
[7][7] Thực sự mà nói, trong một xã hội đóng
kín, những câu truyện trào phúng, những nụ cười dí dỏm, vân vân, phản ánh trung
thực hơn là những câu văn sáo ngữ của giới học thức, chỉ biết “dùi mài kinh sử”
và luyện tập “văn hay chữ tốt.” Những vần thơ của Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát, rồi
vào đầu thế kỷ 20, những câu thơ của Tú Xương, Tản Đà, và gần đây hơn, của
Phùng Quán và nhóm Bút Tre nói lên được cái mặt thật xã hội nhiều hơn là
những “áng” thơ gọt dũa nội dung trống rỗng hay đầy mùi vị nịnh hót của Tố Hữu.
Ca dao, tục ngữ, đồng dao, vân vân, thực ra là những vần thơ mộc mạc phản ánh
những lối suy tư, ưu tư, hay những phương thế đối xử mà ta không thấy (hay họa
hiếm thấy) trong quốc luật, hình luật, hay trong những sách giáo khoa, đạo đức,
vân vân. Câu ca dao trào phúng “nhất sỹ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông
nhì sỹ” nói lên cái thực tại mâu thuẫn của xã hội giai cấp Việt trong qúa khứ.
[8][8] Lẽ tất nhiên cũng là nỗi khổ (vay
mượn tiền để khao đãi), nỗi đau (bị khinh vì chưa khao đãi cho đủ), nỗi
nhục (không có tiền khao đãi) của người lê dân nghèo túng. Tự Lực Văn Đoàn
từng cực đả phá những thói tục khao đãi này. “Miếng ăn là miếng nhục” chỉ ra được
ý thức của người Việt về sự nô lệ của con ngườI vào miếng cơm manh áo.
[9][9] Ngay cả nền văn hóa Hoa, tuy rất gần với
Việt, và tuy rất chú trọng ăn uống, họ cũng không có những tập tục như người Việt.
Giỗ đối với họ không quan trọng lắm, và ít khi có ăn uống. Ma chay cũng ít có
ăn uống, trừ bữa cơm nhạt cho những người đến giúp việc. Ngày nay, đỗ đạt,
thăng quan tiến chức cũng có khao đãi, nhưng chỉ giữa nhóm bạn thân hay gia quyến.
Ít khi thấy kiểu khao cả làng, cả xã, cả tổng như ở Việt Nam.
[10][10] Lẽ dĩ nhiên, đã có một thời, “tranh dành
xôi thịt” vốn là một biểu tượng của tranh chấp quyền bính, tiền bạc. Người Việt
coi đó là một tệ hại chứ không phải là một phong tục. Họ dùng từ “bọn” như “bọn
cướp,” “bọn du thử du thực,” để chỉ những kẻ “xôi thịt”: bọn tham ăn, bọn tham
ô, bọn tham nhũng, bọn tham quan ô lại, bọn nọ bọn kia, vân vân.
[11][11] Tục lệ các cụ khi dự tiệc ở đình, thường
ăn qua loa lấy lệ. Nhưng sau bữa tiệc, các cụ thường có phần đem về chia cho
con cháu, gọi là lấy “lộc thánh.” Cụ nào mà không được mời dự tiệc, tự coi là một
nỗi ô nhục. Chỉ những kẻ phạm pháp, hay người qúa nghèo túng không nộp sưu, nộp
thuế, hay thuộc giai cấp thấp hèn, mới không được mời. Xin tkh. Toan Ánh, Phong
Tục Việt Nam, Tập 1 (Tph Hồ Chí Minh: Nxb Tổng Hợp Đồng Tháp, 1998). Trần
Quốc Vượng, Văn Hóa Việt Nam - Tìm Tòi và Suy Ngẫm, (Hà Nội:Nxb Văn Hóa
Dân Tộc, 2000), tr.398.
[12][12] Rất có thể sẽ có nhiều độc gỉa không đồng
ý, phê bình lối nhìn của chúng tôi như là “lý tưởng hóa nhược điểm.” (Xem bài của
Ratzenberg trên Talawas). Tôi không lý tưởng hóa, nhưng chỉ mô tả cái lối suy
tư của người Việt. Những tệ hại, tệ đoan, cho dù có được lý tưởng hóa tơí đâu,
vẫn là tệ hại. Người Việt, y hệt như bất cứ ai, cũng có rất nhiều tệ hại, nhưng
họ không coi chúng là lẽ tất nhiên.
[13][13] Nạn cướp bóc của Hồng quân Liên Sô khi
chiếm đóng Đông Âu, rồi tệ nạn ăn cướp công khai của đạo quân Lữ Hán khi sang
Việt Nam tiếp thu Nhật đầu hàng, y hệt như nạn mãi dâm tại Âu châu sau thế chiến
thứ II, cũng như những tệ nạn trong vùng chiến tranh, hay nội chiến ở Phi Châu,
Nam Mỹ là những ví dụ điển hình. Người Việt có nạn cắp, nạn trộm. Nhưng người
ăn cắp, ăn trộm vẫn biết mình là đê tiện. Họ vẫn theo cái “đạo” của “đạo
chích”: không giết người hay uy hiếp nạn nhân, không ăn trộm người nghèo, không
hãm hiếp phụ nữ, không tranh dành lẫn nhau, gặp chủ nhả phải tránh, vân vân.
Theo nhiều người kể lại, dân vùng Nam Định, vào thời điểm khốn khổ bị nạn chết
đói hoành hành (1945), những người qúa đói có ăn cắp, dựt đồ ăn cho họ, và cho
con cái họ. Nhưng khi bị đánh, họ nhẫn nhục chịu đòn, không kêu ca, hay không
trả đòn. Trong lịch sử Việt, chúng ta chưa thấy (hay họa hiếm thấy) bọn trộm cắp
lên làm vua làm chúa, hay biến thành những nhân vật quan trọng như bọn Mafia
bên Mỹ, bên Ý, bọn buôn lậu cần sa ở vùng Nam Mỹ, và ngay cả bọn “hắc đạo” ở
Hương Cảng, Đài Loan và Nhật. Bạn đọc có thể nghi ngờ và đặt câu hỏi về “nạn
tham nhũng,” “tham quan ô lại” tức những người có quyền thế ngang nhiên ăn cắp
của dân, mà vào thời đại nào cũng có. Bọn người này không phải là bọn trộm cắp
lên làm quan, mà ngược lại, làm quan rồi mới sinh đạo tặc: No cơm ấm cật dâm dật
mọi nơi. Nhiều người trước khi có quyền hành, rất thanh liêm, rất khiêm nhượng,
rất lý tưởng. Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, họ biến thành bạo quân, tham quan
ô lại, đúng như quận tước Acton (Lord Acton) trong một lá thư gửi Giám mục
Mandell Creighton, 1887, từng viết, “Tất cả mọi loại quyền hành đều dễ đưa con
người đến phủ bại. Quyền hành tuyệt đối làm con người phủ bại hoàn toàn.”
[14][14] Hiện tượng mãi dâm ở Việt Nam, có lẽ
không hoàn toàn giống nạn mãi dâm ở các nước Âu Mỹ. Thống kê của các nhà nghiên
cứu xã hội cho biết, tuyệt đại đa số nạn mãi dâm ở Việt nam là vì hoàn cảnh,
hay bị lừa dối, chứ không phải tự ý, hay vì nhu cầu hay ý thích cá nhân -- Ở Mỹ,
đa số do nhu cầu tiêu dùng cá nhân, hay vì bị xã hội lôi cuốn. Ở nước Ý, có khá
nhiều gái mãi dâm tốt nghiệp đại học, lại có cả bằng tiến sỹ. Có người được bầu
làm dân biểu. Tại Tph. HCM, đa số các người hành nghề mãi dâm đến từ vùng nông
thôn nghèo đói. Ngược lại, những người Nga hành nghề mãi dâm ở Nhật, Đài
Loan…đa số tốt nghiệp đại học, và là dân thành thị. Ta có thể nói, người Việt
chấp nhận nhục nhã, hy sinh, với mục đích nuôi gia đình. Những năm đầu, họ thường
dành dụm tiền bạc gửi về quê nuôi cha mẹ, giúp các em ăn học. Tương tự, hiện tượng
làm thuê, công nhân nước ngoài cũng là do hoàn cảnh gia đình. Có khá nhiều phụ
nữ đã hai ba con, vẫn phải gạt nước mắt đi ở đợ, lấy tiền gửi về phụng dưỡng
cha mẹ, nuôi con, giúp chồng. Nhiều phụ nữ Việt lao động tại Đài Loan bị chủ,
hay mô giới làm nhục, nhưng họ vẫn nhẫn nhục “ăn cực ăn khổ,” “ăn cay nuốt đắng”
và tiếp tục công việc. Họ hy sinh chính mình cho gia đình họ nơi quê nhà.
[15][15] Những tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng như
Số Đỏ, Làm Đĩ, vân vân, của Ngô Tất Tố như Tắt Đèn… mục
đích chính yếu nhắm chê cười cái xã hội thối nát bị thiểu số lũng đoạn. Bọn người
này tượng trưng cho hiện tượng “ăn bẩn,” “ăn tham,” “ăn bám,” “ăn chơi,” “ăn
trên ngồi chốc,” “ăn cháo đá bát,” “ăn bịp,” “ăn trộm,” “ăn chịu,” “ăn chung nằm
chạ,” “ăn chực,” “ăn đòi,” “ăn đợ,” “ăn hôi,” “ăn quỵt,” “ăn vơ,” “ăn vét,” vân
vân.
---Hết phần 1---