Đức tin đến bởi sự người ta nghe, mà người ta nghe, là khi lời của Đấng Christ được rao giảng.

September 4, 2012

NGƯỜI VIỆT NAM VỚI ĐẠO TIN LÀNH

1. Có phải theo Đạo Tin Lành là bỏ ông bỏ bà không?
Câu trả lời khẳng định là: KHÔNG, xin được giải bày như sau:
Nhiều người Việt Nam, vì chưa tìm hiểu đến nơi đến chốn nên đã vội cho rằng theo Đạo Tin Lành là bỏ ông bỏ bà. Đây là thành kiến không đúng do không hiểu cách người Tin Lành bày tỏ lòng hiếu thảo đối với cha mẹ, tổ tiên.
Người Tin Lành biểu lộ sự hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ chủ yếu khi ông bà cha mẹ còn sống, còn khi ông bà cha mẹ qua đời thì con cháu lo chôn cất chu đáo theo nghi lễ trang nghiêm của Hội Thánh trong tinh thần thương tiếc, hy vọng, ngoài ra không nhang đèn, không lập bàn thờ bài vị, không van vái, không cúng bái người đã chết. Có lẽ vì người Tin Lành không làm theo phong tục cổ truyền đối với người quá cố như những người Việt Nam khác nên một số đồng bào cứ lầm tưởng như vậy là bỏ ông bỏ bà, thậm chí có người cho vậy là bất hiếu. Đạo nào cũng dạy con người biết hiếu kính ông bà cha mẹ vì đó là nền tảng cho sự sinh tồn của nhân loại. Đạo Tin Lành là đạo kính Chúa yêu người, lấy lời Đức Chúa Trời làm mẫu mực thiêng liêng cho cuộc sống, lại càng chuyên tâm dạy dỗ, khuyên bảo người tín hữu và con em mình hết lòng hiếu kính ông bà cha mẹ đúng như lời Chúa dạy. Sỡ dĩ người Tin Lành không làm theo phong tục cổ truyền đối với người quá cố là vấn đề niềm tin cùng lý do thực tế.
Trong Kinh Thánh Cựu Ước, Đức Chúa Trời dạy rõ: "Hãy hiếu kính cha mẹ ngươi, hầu cho ngươi được sống lâu trên đất mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi ban cho." (Lời Kinh Thánh sách Xuất Hành 20:12) và “Kẻ nào đánh cha hay mẹ mình, sẽ bị xử tử”, “Kẻ nào mắng cha hay mẹ mình, sẽ bị xử tử”  (Lời Kinh Thánh sách Xuất Hành 21:15-17 ). Trong Kinh Thánh Tân Ước, Chúa Giê-xu đã lên án thái độ giả hình của những người mượn lý do tôn giáo để bỏ bê bổn phận hiếu thảo đối với cha mẹ. Thánh Phaolô cũng liệt kê hành động bội nghịch cha mẹ như là tội ác của nhân loại. ông khuyên " Nhưng nếu bà góa có con hoặc cháu, thì con cháu trước phải học làm điều thảo đối với nhà riêng mình và báo đáp cha mẹ; vì điều đó đẹp lòng Đức Chúa Trời" (I Timôthê  5:4). Ông cũng nhắc lại điều răn Chúa dạy: "Phải hiếu kính cha mẹ" là điều răn đầu tiên kèm theo lời hứa, "nhờ đó con mới được phúc và sống lâu trên đất" (Ê-phê-sô 6:1-3). Nói một cách khác người Tin Lành muốn được phúc và sống lâu trên đất phải thật lòng hiếu kính cha mẹ theo như lời Chúa dạy.
Thế tại sao người Tin Lành không cúng bái, không thờ lạy ông bà cha mẹ quá cố? Người Tin Lành cũng là người Việt Nam biết tôn trọng những truyền thống văn hóa tốt  đẹp của tiền nhân để lại nhưng những phong tục nào không phù hợp với lời Chúa dạy thì người Tin Lành không dám vâng theo. Thánh Kinh đã dạy rõ các tín hữu Tin Lành: "Vả, lúc trước anh em còn tối tăm, nhưng bây giờ nên người sáng láng trong Chúa. Hãy bước đi như các con sáng láng, vì bông trái của sự sáng láng ở tại mọi điều nhân từ, công bình và thành thật. Hãy xét điều chi vừa lòng Chúa và chớ dự vào công việc vô ích của sự tối tăm." (Êphêsô 5:8-11).  Dựa trên lời Chúa dạy, người Tin Lành phải hết lòng thành thật yêu thương cha mẹ, phụng dưỡng cha mẹ khi tuổi già sức yếu đồng thời tôn kính tổ tiên, giữ danh thơm tiếng tốt cho gia đình, dòng họ.
Người Tin Lành quan niệm chữ hiếu có giá trị đích thực khi con cháu bày tỏ lòng hiếu thảo, báo đáp công ơn ông bà cha mẹ khi các cụ còn sống. Một món ăn ngon lúc đói lòng, một cái áo ấm khi trời lạnh, một lon sữa, thuốc men khi ốm đau, một lời thăm hỏi ân cần khi buồn bã mà con cháu dâng tặng ông bà cha mẹ lúc các cụ còn sống, thiết tưởng có giá trị muôn phần hơn mâm cao cổ đầy và tiếng khóc than thảm thiết lúc ông bà cha mẹ đã khuất. Khi các cụ qua đời thì lập tức bước vào một thế giới khác do Chúa định. Trường hợp nếu các cụ đã tin thờ Chúa thì được về ngay với Chúa hưởng nước thiên đàng. Chúa Giê-xu phán: "Hỡi các ngươi được Cha Ta ban phước, hãy đến mà nhận lấy nước thiên đàng đã sắm sẵn cho các ngươi từ khi dựng nên trời đất" (Mathi ơ 25:34). Nếu các cụ trước kia không tin thờ Chúa thì nay chờ ngày Chúa phán xét công bình như Thánh Kinh khẳng định: "Theo như đã định cho loài người phải chết một lần rồi chịu phán xét" (Hê-bơ-rơ 9:27). ông bà cha mẹ dù yêu thương chúng ta bao nhiêu đi nữa, một khi đã qua đời thì không còn liên lạc gì với trần gian, không có quyền ban phước hay giáng họa, không nhận hưởng được lễ vật gì, cũng không giải quyết được vấn đề từ sự cúng bái hay van vái của chúng ta. Tất cả những phước hạnh tươi đẹp chúng ta đã có, đang có và sẽ được có, đều hoàn toàn do Đức Chúa Trời ban cho mà thôi. Chúng ta đáng phải hết lòng biết ơn Ngài, cầu khẩn với Ngài và vâng lời Ngài mới là phải lẽ. Vì quan niệm như vậy nên người Tin Lành không cúng giổ. Khi có cuộc họp mặt truyền thống gia đình, người Tin Lành thường nhắc đến công ơn ông bà cha mẹ, cầu nguyện tạ ơn Chúa, xin Chúa ban bình an, sức khỏe cho người thân còn sống, rồi cùng ăn uống vui vẻ thật thà. Người Tin Lành phải tôn trọng và thường xuyên thăm viếng chăm sóc mồ mả ông bà cha mẹ và của người thân. Do ảnh hưởng của lời Chúa dạy mà các nghĩa trang ở các nước âu Mỹ theo đạo Tin Lành được chăm sóc thật chu đáo, đẹp đẽ chẳng khác nào những công viên đầy hoa lá. Người Tin Lành phải tôn trọng tình bà con ruột thịt, sẵn sàng yêu thương giúp đỡ bà con và những ai đang cần giúp đỡ, nhưng vấn đề liên quan đến tín ngưỡng, đức tin thì không dám trái lời Chúa dạy. Mặt khác, thử xem phong tục thờ cúng. Trên bàn thờ tổ tiên, người ta thờ Ngũ-Đại-Tông gồm có năm bài vị thờ năm ông: Cao, Tằng, Tổ, Khảo, Hiển. Khi có người trong tộc qua đời, thì con cháu đem tên người mới chết đặt vào chỗ ông Hiển lên ông Khảo, đưa  ông Khảo lên ông Tổ, đưa ông Tổ lên ông Tằng, đưa ông Tằng lên ông Cao ra khỏi bàn thờ. Thờ phượng như vậy làm sao đủ được, vì thỉnh thoảng cứ phải bỏ bớt các vị trên trước, không thờ nữa. Người Tin Lành tin rằng loài người cần hết lòng thờ phượng Đức Chúa Trời theo lời Chúa dạy trong Thánh Kinh mới là thờ đầy đủ. Ngài là Đấng Tạo Hóa và bảo tồn muôn loài vạn vật, cũng là Đấng cầm quyền họa phước trên đời sống chúng ta. Thờ phượng Đức Chúa Trời giống như tưới gốc cây là tưới được cả cây, chứ không phải chỉ  tưới cành, tưới ngọn. Vả lại, người Tin Lành rất kính sợ điều răn Chúa dạy: "Các ngươi không được thờ thần nào khác ngoài Ta" (Xuất Hành 20:3).
Như vậy quí đồng hương thấy người Tin Lành là người hiếu theo phương cách đúng và thực tế không bỏ ông bỏ bà. Mong quí vị mau mau trở lại thờ phượng Đức Chúa Trời là Đấng Chân Thần, như người con đã đi xa trở về nhà cha, vâng lời Thiên phụ chúng ta. Đó mới là hiếu thảo chân thật, đó mới là sự thờ phượng đẹp lòng Chúa, đẹp lòng tổ tiên và ích lợi cho bản thân vậy.
2. Có phải Đạo Tin Lành là đạo của người Mỹ không?
Câu trả lời rõ ràng là: KHÔNG, xin giải bày như sau:
Châu Mỹ mới được khám phá năm 1492 và nước Mỹ mới được lập quốc năm 1776, nghĩa là hơn 200 năm nay, trong khi Đạo Tin Lành đã có từ 2000 năm trước, như  vậy không thể nói Đạo Tin Lành là Đạo Mỹ được. Trên thế giới, có một số dân tộc có tôn giáo riêng như: Ấn Độ có Ấn Độ giáo, Phật giáo, Nhật Bản có Thần giáo Shinto, Do Thái có Do Thái giáo", như vậy Đạo Tin Lành không là đạo riêng của một dân tộc  nào. Đạo Tin Lành là Tin Tức Tốt Lành của Đức Chúa Trời dành cho toàn thể nhân loại, không phân biệt màu da chủng tộc, ngôn ngữ, phái tính. Đạo Tin Lành thích hợp với mọi dân tộc ở khắp nơi trên thế giới. Đạo Tin Lành có gốc rễ phát sinh từ nước Do Thái nhưng không phải là đạo của người Do Thái. Phần đông người Mỹ theo đạo Tin Lành, nhưng đạo Tin Lành không phải là đạo Mỹ. Đạo Tin Lành thịnh hành ở âu Châu, Mỹ Châu, úc Châu và nhiều nước ở Phi Châu. Gần đây Đạo Tin Lành phát triển mạnh ở Đại Hàn và Nam Mỹ. Theo bản  thống kê chính xác, thì hiện nay một phần ba nhân loại trên thế giới đang tôn thờ Chúa Cứu Thế Giê-xu. Khoảng 86% người Mỹ, Gia-nã-đại, úc đều tin theo Chúa. Kết quả hiển nhiên do đạo Tin Lành đem lại cho các quốc gia, các gia đình và từng đời sống con người đã chứng minh giá trị ưu việt và cụ thể của Đạo Tin Lành. Trên thực tế, không phải ngẫu nhiên mà có sự trùng hợp giữa 50 quốc gia nghèo nhất trên thế giới cũng là những quốc gia có ít người tiếp nhận Tin Lành nhất. Trong các quốc gia này ước tính có khoản 2 hoặc 3 tỷ người chưa tiếp nhận Chúa. Một tác giả đã đi đến kết luận sau đây sau khi quan sát hiện trạng các quốc gia nghèo trên thế giới: "The poor are lost and the lost are poor" (tạm dịch, những người nghèo khổ là những người chưa biết Chúa, và những người chưa biết Chúa là những người nghèo khổ). Mức sống của một quốc gia thường định mức theo tuổi thọ trung bình, tỉ lệ tử vong của trẻ em sơ sinh và tỉ lệ xóa nạn mù chữ. Hầu hết những quốc gia có mức sống thấp nhất là những quốc gia có ít người thờ Chúa nhất. Trái lại những quốc gia có mức sống cao nhất là những quốc gia có nhiều người thờ Chúa nhất.
Thật ra Đạo Tin Lành bắt đầu từ khi Chúa Giê-xu giáng sinh tại thành Bết-lê-hem, nước Do Thái. Trong đêm Đấng Cứu Thế ra đời, một thiên sứ của Đức Chúa Trời đã đến loan báo tin mừng cho nhân loại: "Đừng sợ chi, vì này ta báo cho các ngươi một Tin Lành, sẽ là sự vui mừng lớn cho muôn dân..." (Luca 2:9). Chính sự giáng sinh của Chúa Cứu Thế đã chia đôi dòng lịch sử của nhân loại thành ra trước Chúa và sau Chúa. Niên hiệu của cả thế đang dùng được tính từ năm Chúa giáng sinh. Sau khi chịu chết vì tội lỗi nhân loại trên thập tự giá, Chúa Giê-xu đã từ cõi chết sống lại, chiến thắng tử thần. Rồi trước khi về trời Ngài đã truyền lệnh cho các môn đồ, "Hãy đi khắp thế gian giảnh Tin Lành cho mọi người. Ai tin và chịu Báp-tem sẽ được cứu, còn ai không tin sẽ kết tội" (Mác 16:15,16). Dưới sự tác động của quyền phép Đức Thánh Linh, các môn đồ Chúa đã vâng lệnh Ngài đem Tin Lành truyền bá khắp nơi trên thế giới, chiến thắng tối tăm, sợ hãi, biến đổi hẳn khuôn mặt văn hóa của thế giới, thay đổi hẳn số phận hẩm hiu của biết bao nhiêu cuộc đời.
Năm 1911 Đạo Tin Lành mới được truyền bá đến Việt Nam do các giáo sĩ của Hội Truyền Giáo Phúc âm Liên Hiệp (Christian and Missionary Alliance) ở Bắc Mỹ, kết quả thành lập được Hội Thánh Tin Lành Việt Nam. Vào các thập niên 60 và 70, các Hội Truyền Giáo Tin Lành khác lần lượt đến tại Việt Nam và thành lập các Hội Thánh Báp-tít, Mennonite, Ngũ Tuần... Ngay từ những năm tháng đầu tiên, người Tin Lành ở Việt Nam đã sớm tiến tinh thần tự lập, tự trị và tự truyền bá Tin Lành cho đồng bào Việt Nam.
Người đặt câu hỏi trên đây dường như có ý muốn nói rằng Đạo Tin Lành là đạo của người Mỹ, chúng ta là người Việt Nam thì theo đạo người Việt Nam. Thật ra những truyền thống tôn giáo mà nhiều người Việt Nam đi theo cũng không phải phát xuất từ Việt Nam. Nho Giáo, Lão Giáo xuất phát từ Trung Quốc, Phật Giáo xuất phát từ Ấn Độ và được truyền đến nước ta chủ yếu qua ngã Trung Quốc. Thời xưa, vì sự giao thông thế giới bên ngoài còn hạn chế, người Việt Nam chưa có cơ hội tiếp xúc với nền văn hóa Cơ Đốc Giáo, nhưng chịu ảnh hưởng sâu đậm của nền văn hóa Trung Quốc. Thậm chí chữ viết của người Việt Nam xưa kia cũng viết theo lối Hán Tự; học thì học Tứ Thư, Ngũ Kinh của người Trung Hoa. Vì bị người Trung Hoa đô hộ hàng ngàn năm, nên cả nền văn hóa lẫn truyền thống tôn giáo của người Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng theo người Trung Hoa là chuyện không tránh khỏi. Nhưng người Việt Nam là một dân tộc bất khuất, luôn tiếp nhận cái tốt của các dân tộc khác để biến thành cái hay cái tốt của mình. Vì vậy không một người Việt Nam nào theo Phật Giáo nói rằng tôi theo đạo Ấn Độ, cũng không người Việt Nam nào chịu ảnh hưởng của Nho Giáo nói rằng tôi theo đạo Trung Quốc. Vì thế có nhiều người âu Mỹ theo Đạo Tin Lành và nổ lực đem Tin Lành truyền bá khắp thế giới, ta cũng không nên nói Đạo Tin Lành là Đạo của Mỹ, không dính dáng đến người Việt Nam. Điều quan trọng là chúng ta hãy tìm hiểu xem Đạo Tin Lành đã tin gì, giảng gì và đã đem lại được ích lợi gì cho nhân loại nói chung và người Việt Nam theo Đạo Tin Lành nói riêng. Người Việt Nam là một dân tộc kính sợ Đức Chúa Trời. Ngày xưa, hằng năm các vua chúa thay mặt toàn dân lập đàn tế Trời (thường gọi là cúng tế Nam Giao) và dân chúng thường lập bàn thờ Thiên ở trước nhà để cầu Trời. Gặp khó khăn người Việt Nam thường kêu: Trời ơi! Nhờ Trời! Cầu Trời! Sống thì ăn cơm Trời, uống nước Trời, chết thì nói: Về chầu Trời hoặc Trời kêu ai nấy dạ. Câu ca dao sau đây là một bằng cớ: "Lạy Trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cày, lấy đầy bát cơm." Đa số người Việt Nam sống bằng nông nghiệp đã biết rõ được cơm no áo ấm là nhờ ơn Trời. Biết có Đức Chúa Trời nhưng không thờ Trời cho đúng cách là đáng tiếc. Biết ơn Trời nhưng không  biết làm thể nào cho đẹp lòng Trời là điều đáng thương. Như vậy người Việt Nam nên quay về thờ phượng Đức Chúa Trời theo cách Ngài chỉ dẫn qua Đạo Tin Lành là hợp tình, hợp lẽ và cần thiết lắm thay.
3. Phải chăng Đạo Tin Lành cũng là đạo tin theo để làm lành?
Mọi người Việt Nam điều biết phân biệt điều lành, điều dữ. Ai cũng biết "Ở hiền gặp lành." Ai cũng muốn ăn ngay ở lành. Chịu ảnh hưởng của Nho Giáo, người Việt Nam còn biết quí trọng đạo làm người, biết ơn quân sư phụ, biết giữ nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Đa số người Việt Nam đều sùng đạo, không theo tôn giáo này thì cũng theo tín ngưỡng khác. Từ đó người Việt Nam quan niệm cho rằng Đạo nào cũng tốt, Đạo nào cũng dạy cho người ta ăn ngay ở lành, vậy Đạo Tin Lành cũng là Đạo tin theo để làm lành thì không cần theo, vì mình đã có đạo rồi, thậm chí đạo của mình có đông người theo. Thật ra chữ Tin Lành có nghĩa là Tin Tức Tốt Lành chứ không có nghĩa là tin theo để làm lành. Nếu truyền thêm cho người Việt Nam một đạo dạy làm lành nữa thì cũng bằng thừa vì từ nhỏ đến lớn, ai cũng biết cần phải làm lành. Vấn đề ở đây là loài người dù đủ ý thức cần làm lành nhưng không đủ khả năng làm lành cho trọn. Thánh Phao-lô đã diễn tả sự thật nầy như sau: "Tôi biết điều lành chẳng ở trong tôi, bởi tôi có ý muốn làm điều lành, nhưng không có quyền làm trọn, vì tôi không làm điều lành mình muốn, nhưng làm điều dữ mình không muốn. Vậy tôi thấy có một luật nầy trong tôi khi tôi muốn làm điều lành thì điều dữ dính dấp theo tôi" (Rôma 7:18-21). Một thánh nhân mà còn tự thú như vậy huống chi chúng ta là phàm nhân. Sở dĩ chúng ta không làm lành trọn được là vì luật tội lỗi đang hiện diện trong mỗi con người chúng ta, chế ngự tâm hồn chúng ta, khiến chúng ta không có khả năng làm lành cho trọn. Dù suốt đời ta cố gắng làm lành nhưng chỉ một ngày ta lỡ làm ác thì cũng luống công. Kinh Thánh chép rằng: "Người nào giữ toàn bộ luật pháp, nhưng chỉ phạm một điều là coi như đã phạm tất cả" (Giacơ 2:10). Dù ta chưa làm gì nên tội đối với trước luật pháp của loài người thì trước mặt Đức Chúa Trời chúng ta vẫn bị kể là tội nhân. Dù ta có làm được bao nhiêu việc làm tốt đối với đời, thì trước mặt Chúa vẫn còn thiếu hụt, không có gì đáng kể. Những việc công bình của loài người Ngài xem như "áo nhớp". Tiêu chuẩn của Chúa là trọn vẹn, mà loài người thì bất toàn. "Mọi người đều phạm tội, hụt mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời". Thánh Phao-lô làm chứng tiếp: "Thật bất hạnh cho tôi! Ai sẽ cứu tôi thoát ách nô lệ của xác thịt tội lỗi hư hoại nầy?" Rồi ông vui mừng phát biểu: "Tạ ơn Đức Chúa Trời, tôi được giải cứu nhờ Chúa Cứu Thế Giê-xu, Chúa chúng ta" (Rôma 7:24-25). Cảm tạ Chúa, vì Chúa biết rõ loài người không có khả năng tự mình giải thoát ra khỏi quyền lực ghê gớm của tội lỗi nên "đang khi chúng ta còn yếu đuối, Đấng Christ đã theo kỳ hẹn chịu chết vì kẻ có tội". Nhờ sự chết đền tội của Chúa Cứu Thế Giê-xu và quyền năng của Đức Thánh Linh, khi một tội nhân ý thức tội, ăn năn tội, quyết tâm từ bỏ tội quay về cùng Chúa, thì Chúa ban quyền năng tái tạo người đó trở nên mới, đồng thời ban cho người đó có khả năng vừa muốn, vừa làm những việc lành mà trước đó họ không làm được bằng sức riêng. Những việc lành người tin Chúa làm được là kết quả của một đời sống mới yêu Chúa và yêu người. Tình thương làm được tất cả...
Nếu hiện nay quí đồng hương đang theo một tôn giáo dạy người ta làm lành, đó cũng là điều tốt. Thế nhưng chính trong quá trình cố gắng làm như thế, quí vị cũng đã nhận ra sự thật là mình làm lành không trọn, lòng không bình an, không biết chắc nỗ lực đến mức nào mới đủ để được lên thiên đàng. Tất cả mọi người đang tự tu, tự cứu và dựa vào việc lành để được cứu rỗi đều có một tâm trạng bất an như thế. Người Tin Lành thì luôn luôn tin chắc mình đã được cứu rỗi, với tâm trạng bình an hy vọng. Người Tin Lành chắc khi qua đời là về ngay với Chúa trên  thiên đàng. Tại sao dám chắc như vậy? Tại vì sự cứu rỗi là quà tặng do Chúa Cứu Thế Giê-xu làm trọn xong xuôi và ban tặng cho chúng ta. Quà tặng nầy không phải do chúng ta làm gì xứng đáng để nhận lãnh, nhưng do lòng thương xót vô hạn Chúa ban cho: "Vì tiền công của tội lỗi là sự chết, nhưng tặng phẩm của Đức Chúa Trời là đời sống vĩnh cữu trong Chúa Cứu Thế Giê-xu, Chúa chúng ta." Đức Chúa Trời đã tuyên hứa như thế và Ngài là Đấng thành tín, không bao giờ thất hứa. Rất mong quí đồng hương lấy lòng tin tiếp nhận Tin Lành của Chúa Cứu Thế Giê-xu để hưởng được ơn cứu rỗi tuyệt vời, vô giá do Chúa ban cho.
4. Đạo Tin Lành khác với Đạo Công Giáo La-mã ( đạo Thiên Chúa ) như thế nào?
Đạo Tin Lành và Đạo Công Giáo có cùng một gốc mà ra. Cả hai đều có cùng niềm tin nơi Đức Chúa Trời căn cứ trên Thánh Kinh Cựu Ước và Tân Ước. Nhưng sự khác biệt chíng giữa hai giáo hội này là vị trí và thẩm quyền mỗi bên dành cho Thánh Kinh. Mặc dù người Công Giáo tin rằng Thánh Kinh được Đức Chúa Trời soi dẫn, họ cũng tin rằng truyền thống Giáo Hội trải qua dòng lịch sử do các Giáo Hoàng và Giáo Hội Nghị lập thành có giá trị quyết định trong các vấn đề niềm tin và giáo lý. Vì đó theo năm tháng Giáo Hội Công Giáo La-mã đã thêm những giáo lý không có trong Kinh Thánh. Ta có thể nhắc qua một số giáo lý thêm thắt đó như sau: Cầu nguyện trực tiếp với Đức Mẹ, với các thánh và các thiên thần (năm 600), mua chứng thư xá tội để giảm thiểu thời gian ở ngục luyện tội (năm 1190); xưng tội với linh mục (năm 1215), Thánh Kinh được liệt vào danh sách cấm giáo dân đọc (Toulouse năm 1229), ngục luyện tội từ giáo lý nên lên thành tín điều bởi Công Đồng Florence (năm 1438); truyền thống Giáo Hội được thừa nhận có uy quyền tương đương Thánh Kinh bởi Công Đồng Trent (năm 1545), Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội được Giáo Hoàng Pius  IX công bố năm 1854; Sự Vô Ngộ (không sai lầm) của Giáo Hoàng được Công Đồng Vatican công bố năm 1870, Giáo Hoàng Benedict XV công bố Đức Mẹ là Đấng đồng cứu chuộc với Chúa Giê-xu và Đức Mẹ về trời được Giáo Hoàng Pius XII công bố năm 1950. Người Tin Lành tin tưởng Thánh Kinh là uy quyền duy nhất và đầy đủ của đức tin. Người Tin Lành chỉ tôn trọng những truyền thống nào của Hội Thánh phù hợp với Thánh Kinh. Người Tin Lành muốn trở về với cuội nguồn đức tin và hình thức sống đạo theo như Thánh Kinh chỉ dẫn,  không thêm, không bớt.
Vào thời cải chánh Giáo Hội (từ khoảng năm 1500 đến 1650) ở Châu âu, một tu sĩ Công Giáo La-mã người Đức tên Martin Luther, đã tái khám phá tín lý xưng nghĩa bởi đức tin do sứ đồ Phao Lô viết ra trong thư La-mã thuộc Thánh Kinh Tân Ước. Luther lý luận: "nếu một người được xưng nghĩa (tức được kể là trắng án) khỏi tội lỗi duy bởi đức tin đặt nơi Chúa Giê-xu như Thánh Kinh khẳng định, thì cần gì ta phải đi hành hương, phải tự hành xác để thú tội, cần gì mua chứng thư xá tội, cần gì trải qua ngục luyện tội và chịu các phép bí tích sau cùng?" Vì những khám phá của Luther đã cắt đứt truyền thống của Công Giáo La-mã nên ông bị Giáo Hội thời bấy giờ dứt phép thông công. Tuy nhiên phần lớn người Đức đương thời đã lũ lượt kéo đến nghe ông giảng Thánh Kinh. Từ đó Giáo Hội Lutheran đã được thành lập và phát triển cho đến ngày nay. Rồi những nhà thần học khác như John Calvin, một người Pháp, cũng đã thách thức các giáo huấn của Công Giáo La-mã và từ ảnh hưởng của Calvin, các Giáo Hội Cải Cách, Giáo Hội Trưởng Lão đã hình thành. Về sau các Giáo Hội Anh Quốc, Giáo Hội Báp-tít, Giám Lý, rồi Ngũ Tuần. .. được thành lập. Những Giáo Hội này, xuất phát từ sự phản kháng (protest) nhằm cải cách Công Giáo La-mã nên thường được gọi chung là Giáo Hội Protestant hay Hội Thánh Tin Lành. Người Công Giáo Việt Nam trước đây gọi người Tin Lành là Thệ Phản. Ngày nay người Công Giáo gọi người Tin Lành là Anh Em Ly Khai.
Điều đáng mừng là giữa lòng Giáo Hội Công Giáo đang có phong trào canh tân, trở về nghiên cứu Kinh Thánh, canh tân ân sũng và nỗ lực truyền bá Phúc âm, đồng thời không ngừng cải thiện mối quan hệ với người Tin Lành trong phong trào hiệp nhất. Thiết tưởng sự kiện có nhiều giáo phái khác nhau trong Cơ Đốc Giáo chẳng khác nào một cây cổ thụ có nhiều cành, nhánh. Vấn đề quan trọng là cây này có là bóng che mát cho bản thân ta trong cuộc đời đang oi bức, trái cây nầy có ngon ngọt bổ ích cho linh hồn ta đang đói khát hay không. Hơn nữa nhánh cây ấy có đang lưu chuyển sự sống từ gốc cây thiêng liêng là Chúa Cứu Thế Hằng sống hay không. Giáo phái hay nhà thờ không cứu rỗi được linh hồn của chúng ta. Chỉ có Chúa Cứu Thế Giê-xu mới có quyền năng cứu vớt chúng ta ra khỏi tội lỗi và đưa chúng ta đến thiên đàng mà thôi.Việc lựa chọn một giáo phái để tham gia là tùy hoàn cảnh và tùy ý thức lựa chọn riêng của mỗi người. Điều quan trọng là quí đồng hương nên sáng suốt lựa chọn cho mình một Hội Thánh trung tín rao giảng và làm theo lời Chúa, thể hiện đức tin và tình yêu thương như Chúa Cứu Thế Giê-xu dạy dỗ, ban truyền.

*****
Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...