Đức tin đến bởi sự người ta nghe, mà người ta nghe, là khi lời của Đấng Christ được rao giảng.

September 6, 2012

Tìm Hiểu Về Chứng Nhân Giê-hô-va (Jehovah Witness)


  • Giê-hô-va Chứng Nhân là ai? Tại sao họ tìm đến nhà các tín đồ của Chúa để dạy Kinh Thánh? Tín lý của Giê-hô-va Chứng Nhân có đúng với Kinh Thánh hay không? Tín lý về Đức Chúa Trời, Chúa Giê-xu, Đức Thánh Linh, con người, sự cứu rỗi khác với tín lý Cơ Đốc như thế nào?
  • 80% tín đồ trong Hội Thánh của Đức Chúa Trời là mục tiêu săn đón của các tà giáo.
  • Nhiều Hội Thánh chú trọng về thông công nhưng thiếu giáo dục tín đồ về tín lý Cơ-đốc căn bản.

A. Tóm Lược Lịch Sử:

  1. Sáng lập viên: Charles Taze Russell, sinh ngày 16/2/1852, chết vào năm 1916. Năm 16 tuổi ông tìm cách làm chứng cho một người bạn, nhưng thua thiệt trong cuộc tranh luận ông trở nên nghi ngờ về lẽ đạo hình phạt đời đời trong hỏa ngục. Ông không tin Đức Chúa Trời yêu thương lại để cho con người phải chịu hình phạt trong hỏa ngục đời đời. Năm 18 tuổi ông gia nhập giáo phái Cơ-đốc Phục Lâm (Millerite movement - Adventists). Ông bắt đầu nghiên cứu Kinh Thánh nhấn mạnh về sự tái lâm, hoả ngục không có thật, và diễn tiến lịch sử của Kinh Thánh. Ông nghiên cứu Kinh Thánh để tìm bằng chứng cho niềm tin sẵn có chứ không phải dùng Kinh Thánh để dẫn đến niềm tin đúng.
  2. Hội Giê-hô-va Chứng Nhân được thành lập vào năm 1884 tại Pittsburg, Pennsylvania. Tên Giê-hô-va Chứng Nhân (Jehova's Witnesses) được chính thức gọi từ năm 1916, được căn cứ trên Ê-Sai 43:10; 44:8.
  3. Văn phòng trung ương đặt tại số 25 Columbia Heights, Brooklyn, New York. Vị lãnh đạo hiện nay là ông Milton G. Henschel (sinh năm 1918).
  4. Báo chí: The Watchtower (Tháp Canh), được phát hành mỗi tháng 2 lần 16.5 triệu số, trong 120 ngôn ngữ (1999). Tạp chí Awake (Thức Tỉnh), phát hành 16 triệu số, trong 78 ngôn ngữ.
  5. Năm 1998, có khoảng 1.05 triệu người theo GHVCN tại Hoa Kỳ và 5.9 triệu người trong 233 nước trên toàn thế giới. Năm 1999, có khoảng 990 ngàn người theo GHVCN tại Hoa Kỳ và 5.9 triệu trong 234 nước trên thế giới.

B. Sự khác biệt giữa Tín Lý Cơ Đốc chân chính và Tín Lý của Giê-hô-va Chứng Nhân

1. KINH THÁNH:

Cơ Đốc Nhân: dùng Kinh Thánh làm nền tảng và là thẩm quyền duy nhất (Scripture Alone) cho mọi tín lý (2 Timôthê 3:16). Giăng 1:1 được hầu hết các bản Kinh Thánh dịch là: “Ngôi Lời (Chúa Giê-xu) là Đức Chúa Trời”.
Giê-hô-va Chứng Nhân: dùng Kinh Thánh (bản dịch New World Translation, 1961) và những bài giải nghĩa Kinh Thánh của hội Thánh Kinh và Văn Phẩm Tháp Canh (The Watchtower Bible and Tract Society) có thẩm quyền ngang bằng với Kinh Thánh. Bản dịch New World Translation đã thay đổi cho phù hợp với tín lý của Giê-hô-va Chứng Nhân, đặc biệt phủ nhận về thần tính của Chúa Giê-xu và lẽ đạo Ba Ngôi Đức Chúa Trời. Thí dụ: Giăng 1:1 đọc là “và Ngôi Lời là một vị thần” (“and the Word was a god”) trong bản NWT.
Tín Lý Cơ Đốc: Tất cả những ai tin nhận Chúa Giê-xu làm Chúa và Chủ của đời mình đều được cứu bởi ân điển bằng đức tin và được tái sinh (Giăng 3:3-16; Rôma 10:9-10; Ê-phê-sô 2:8,9). Không một cá nhân, giáo hội, hay là một hội đoàn tôn giáo nào có thể cho mình là thẩm quyền để con người nhờ đó được cứu và thẩm quyền duy nhất để giải nghĩa Kinh Thánh. Tất cả những tín đồ thật được tái sinh đều có thể hiểu Kinh Thánh qua sự soi dẫn của Đức Thánh Linh.
Giê-hô-va Chứng Nhân: Chỉ những người trong Ban Lãnh Đạo (WBTS's Governing Body) cho rằng họ là những “đầy tớ ngay lành và trung tín” (Mathiơ 25:23). Họ là nguồn duy nhất của Đức Chúa Trời dùng để giải nghĩa đúng Kinh Thánh. Điều kiện để được cứu phải thông hiệp và nghe theo lời dạy của hội. Không có sự cứu rỗi ngoài hội WBTS.

2. Lẽ Đạo về BA NGÔI ĐỨC CHÚA TRỜI:

Tín Lý Cơ Đốc: Kinh Thánh dạy chỉ có một Đức Chúa Trời. Ngài được gọi bằng nhiều tên trong Kinh Thánh. Chữ “Ba Ngôi” (“Trinity”) không có trong Kinh Thánh. Tuy nhiên, lẽ đạo “Ba Ngôi” được dạy rõ ràng trong Kinh Thánh. Có một Đức Chúa Trời hiện hữu trong ba Ngôi Vị: Đức Cha, Đức Con và Đức Thánh Linh (Mathiơ 28:19; 1 Cô-rinh-tô 8:6; 12:4-6; 2 Cô-rinh-tô 1:21, 22; 13:14; 1 Phi-e-rơ 1:2)
Giê-hô-va Chứng Nhân : Giê-hô-va Chứng Nhân cũng tin chỉ có một Đức Chúa Trời. Nhưng họ bác bỏ lẽ đạo Ba Ngôi Đức Chúa Trời. Giê-hô-va Chứng Nhân cho rằng lẽ đạo Ba Ngôi không có trong Thánh Kinh và ý tưởng về Ba Ngôi bắt nguồn từ các ngoại giáo.

3. Lẽ Đạo về ĐỨC CHÚA GIÊ-XU:

Tín Lý Cơ Đốc: Kinh Thánh dạy Chúa Giê-xu không phải là vật thọ tạo nhưng Ngài mang Thần Tánh từ cõi đời đời cùng với Đức Chúa Cha. Ngài đến thế gian mang thân xác con người để bày tỏ bản tính (God's nature) và phẩm tính (God's character) của Đức Chúa Trời cho loài người. Hiện nay, Chúa Giê-xu đang cai trị với Đức Chúa Cha trên thiên đàng và sẽ trở lại để đoán xét mọi người. Không có chổ nào trong Kinh Thánh xác định Chúa Giê-xu là thiên sứ trưởng Mi-chên (Giăng 1:1-14; 5:17-18; 8:56-59; 10:30-33; Cô-lô-se 1:15-20; 2:9)
Giê-hô-va Chứng Nhân: từ bỏ thần tánh của Đức Chúa Giê-xu (tương tự với tà thuyết Arianism, bị lên án tại Giáo Hội Nghị Nicea, năm 325). Theo GHVCN, Chúa Giê-xu hiện hữu qua 3 giai đoạn:
  1. Giai đoạn tiền nhân thể: Chúa Giê-xu là tạo vật đầu tiên của Đức Giê-hô-va. Ngài là Ngôi Lời, là Phát Ngôn Nhân của Giê-hô-va nên Ngài không bình đẳng với Đức Giê-hô-va. Thiên sứ trưởng Mi-chên (Michael the Archangel) là hiện thân của Chúa Giê-xu trong giai đoạn tiền nhân thể.
  2. Giai đoạn nhân thể: Đức Giê-hô-va truyền “sự sống” của Ngài cho bà Ma-ri để sinh ra Chúa Giê-xu. Ngài chỉ có nhân tánh. Khi chịu báp-tem tại sông Giô-đanh, Đức Giê-hô-va đã ban “Linh” của Ngài để Chúa Giê-xu trở thành Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm (Ma-thi-ơ 3:17). Qua biến cố này, Chúa Giê-xu trở thành Đấng được “Xức Dầu” hoặc “Christ” của Đức Giê-hô-va.
  3. Giai đoạn hậu nhân thể: Chúa Giê-xu không phục sinh bằng thân xác vì thân xác Ngài đã chết thực sự để đền tội. “Linh” của Ngài đã phục sinh, trở về trời với tình trạng thiên sứ và nhận lấy danh xưng Mi-chên. Xin xem 1 Phi-e-rơ 3:18.

4. Lẽ Đạo về ĐỨC THÁNH LINH:

Tín Lý Cơ Đốc: Ngôi Vị (personality) của Đức Thánh Linh được Kinh Thánh dạy rất nhiều chỗ trong Tân Ước. Ngài có thần tính. Ngài cáo trách tội lỗi, và ngự trong lòng của những ai tin nhận Ngài và ban quyền năng để giúp con cái Chúa sống mạnh trong Chúa. (Mathiơ 12:31-32; 28:19; Mác 3:29; Giăng 14-16; Rôma 8:4, 26, 27; 1 Côrinhtô 12; Ê-phê-sô 2:18-19; 5:14-33).
Giê-hô-va Chứng Nhân: Đức Thánh Linh không có Ngôi Vị. Ngài chỉ là “sức mạnh” vô hình của Đức Giê-hô-va.

5. Lẽ Đạo về CON NGƯỜI:

Tín Lý Cơ Đốc: Tổ phụ chúng ta là A-đam và Ê-va phạm tội, đem sự chết và điều ác vào trong thế gian. Chữ “chết” trong Kinh Thánh định nghĩa là một sự phân cách. Nên con người chết về thuộc linh và tách khỏi mối tương giao với Đức Chúa Trời. Chết về thuộc thể là sự tách rời giữa hồn và xác. Khi chết, những ai tin nhận Chúa Giê-xu vẫn giữ mối thông giao thuộc linh với Chúa trong khi chờ đợi ngày sống lại về thể xác. (Mathiơ 22:32; Lu-ca 16:22-23; 23:43; Giăng 11:26; 2 Côrinhtô 5:8; 12:2-4; Philíp 1:23-24; 2 Tê-sa 4:14-5:10; 2 Phierơ 2:9)
Giê-hô-va Chứng Nhân: không tin rằng linh hồn bất tử. Lẽ đạo linh hồn bất tử đến tử ma quỷ (Sáng Thế Ký 3:4). Xem Truyền Đạo 3:19-20; Ê-xê-chi-ên 18:4; Ê-sai 53:12. Hậu quả của tội lỗi là sự chết. A-đam và Ê-va được Đức Giê-hô-va cho sống đến 930 tuổi để di truyền nòi giống (Sáng Thế Ký 5:5), nhưng thật sự cả hai đã chết trong ngày họ phạm tội (2 Phi-e-rơ 3:8). Giê-hô-va Chứng Nhân định nghĩa “chết” là hết, không còn nữa.

6. Lẽ Đạo về SỰ CỨU RỖI:

Tín Lý Cơ Đốc: Sự cứu rỗi nhờ “ân điển” bởi “đức tin” qua duy nhất Chúa Giê-xu. Không phải bởi việc thiện hoặc là hội viên của một hội đoàn nào bảo đảm được sự cứu rỗi. Chỉ bởi đức tin vào Chúa Giê-xu (Rôma 4:4-5; Ê-phê-sô 2:8-9; Tít 3:5). Việc thiện là kết quả tự nhiên của một tín đồ thật của Chúa khi được cứu, kết quả chứ không phải điều kiện để được cứu.
Giê-hô-va Chứng Nhân: tin rằng số người được nhận sự cứu rỗi được chia thành hai hạng:
  1. Hạng 1 “được xức dầu” (anointed class): 144,000 người. Con số này bắt đầu đếm từ năm 1918 và đến năm 1935 thì con số 144,000 đã đủ. Họ là những người được dự phần trong sự vinh hiển với Chúa Giê-xu trên thiên đàng (Khải Huyền 7:4; 14:1,3). Điều kiện để được cứu rỗi: ăn năn, tin nhận Chúa Giê-xu được Báp-tem, và hết lòng phục vụ Chúa. Sau đó, Đức Chúa Trời sẽ xưng công bình, tái sinh và làm họ nên thánh. Chỉ những ai trong hạng người này mới được giữ chức vụ lãnh đạo giáo hội. Chỉ còn vài người trong số này còn sống hiện nay. Trong vài năm tới sẽ có sự khủng hoảng trong ban lãnh đạo nếu tất cả những người trong số này chết hết.
  2. Hạng 2 “đám đông” (the “great crowd”) hay được gọi là “những con chiên khác” (the “other sheep”): Lẽ đạo này bắt đầu dạy vào năm 1935. Hầu hết tín hữu Giê-hô-va Chứng Nhân sẽ thuộc về hạng người này, sự cứu rỗi là hưởng phước hạnh trên Đất Mới chứ không được lên thiên đàng và dự phần vinh hiển với Chúa như hạng thứ 1. Muốn được cứu rỗi, “những con chiên khác” phải ăn năn, tin nhận Chúa Giê-xu, hết lòng phục vụ Chúa và chịu báp-tem. Hạng này không cần Đức Chúa Trời xưng công bình, tái sinh, thánh hóa và xức dầu như hạng 1 vì họ sẽ không được làm chức tế lễ trên thiên quốc. Một điều kiện quan trong khác để được cứu rỗi là hết lòng đi ra phát truyền đạo đơn và làm chứng. Thống kê năm 1999: Giê-hô-va Chứng Nhân để 1.14 tỉ giờ làm chứng và phát truyền đạo đơn.
Tín Lý Cơ Đốc: Lẽ đạo hai hạng người được cứu không có nền tảng khi nghiên cứu Kinh Thánh kỹ càng. Kinh Thánh không phân biệt hai hạng người được cứu này (Mathiơ 5:12; Philíp 3:20). Trong Khải huyền 7 và 14, cả nhóm 144,000 và “đám đông” đều “đứng trước ngôi” của Chúa trên thiên đàng. Tất cả những người tín đồ tái sinh thật của Chúa đều sẽ sống đời đời trong thiên đàng (Giăng 3:16; 14:3)

7. Lẽ Đạo về CON NGƯỜI SAU KHI CHẾT:

Tín Lý Cơ Đốc: Tất cả mọi người đều chịu sự đoán xét cuối cùng. Lẽ đạo về “hỏa ngục” (hell) được chính Chúa Giê-xu nói đến nhiều nhất. Chúa dạy là những người được cứu sẽ được sự sống đời đời trên thiên đàng và những ai gian ác không tin sẽ chịu hình phạt đời đời trong hỏa ngục. (Mathiơ 18:8-9; 25:41-46; Mác 9:43-48; 2 Tê-sa 1:9).
Giê-hô-va Chứng Nhân tin rằng từ “chết mất” trong Thánh Kinh có nghĩa là chết và tiêu mất sự hiện hữu. Chết là hết, không có đời sau!
  1. Những người “được xức dầu” sẽ sống lại bằng "linh" để lên thiên đàng.
  2. Hạng người thứ 2 (“những con chiên khác”) và hầu hết những người khác sẽ sống lại bằng thể xác trong thời kỳ Thiên Hy Niên (Một Ngàn Năm Bình An) để qua cuộc thử nghiệm.


Có hai trường hợp sẽ xảy ra:
  • Nếu đậu thì sẽ được sống “vĩnh cửu” trên Thế Giới Mới
  • Nếu rớt thì sẽ bị “chết mất”.
Số người sau đây sẽ không được sống lại vì tội ác nghiêm trọng: A-đam, Ê-va, Ca-in, những người chết trong cơn Đại Hồng Thủy, dân thành Sô-đôm và Gô-mô-rơ, Giu-đa Ích-ca-ri-ốt, những người tà giáo, giả hình trong thời Chúa Giê-xu tại thế.

8. Lẽ Đạo về CHÚA TÁI LÂM:

Tín Lý Cơ Đốc: Chúa Giê-xu là một con người hoàn toàn, là Thượng Đế nhập thể (Cô-lô-se 2:9). Sự chết trên thập tự giá là sự hy sinh như một của lễ đền tội của Ngài để cứu rỗi nhân loại (1 Côrinhtô 1:17-24; 2:2; 15:3-4). Ngài sống lại bằng thân thể, chứ không chỉ thần linh (Lu-ca 24:14-39; Giăng 2:19-21; 20:26-29; 1 Côrinhtô 15:18).
Giê-hô-va Chứng Nhân tin rằng Chúa Giê-xu không tái lâm bằng thể xác vì thể xác của Ngài không phục sinh. Sự tái lâm chính là sự cai trị “nước trời”. Giê-hô-va Chứng Nhân cho rằng Chúa Giê-xu đã tái lâm hay xuất hiện trong “đền thờ” vào năm 1914, và cai trị vương quốc của Ngài bắt đầu từ năm 1918, sau khi để khoảng hơn 3 năm rưỡi làm sạch “đền thờ”.

C. “NGƯỜI XUẤT BẢN” VÀ “NGƯỜI TIÊN PHONG”

  1. “Người Xuất Bản” (Publishers): tất cả người theo hội Giê-hô-va Chứng Nhân gọi là “người xuất bản”, họ sẽ đi gõ cửa từng nhà để truyền bá Nước Trời của Giê-hô-va.
  2. “Người Tiên Phong” (Pioneers): Trước hết là “phụ tá tiên phong” (auxiliary pioneer) bằng lòng làm việc bên ngoài phòng nhóm (Kingdom Hall) 60 giờ mỗi tháng. Khi chứng tỏ mình là một “phụ tá tiên phong” thì trở thành một “người tiên phong” (regular pioneer), phải làm việc 90 giờ mỗi tháng, 1,000 giờ mỗi năm cho công tác bên ngoài phòng nhóm.

D. SỐNG ĐẠO TRONG Giê-hô-va Chứng Nhân:

  1. Uống rượu và những thức uống có rượu có giới hạn thì không phạm luật của Chúa, nhưng dùng thuốc hút và ma-tuý làm cơ thể không thánh sạch.
  2. Giê-hô-va Chứng Nhân không ăn mừng lễ Giáng Sinh. Họ cũng không mừng lễ sinh nhật. Và tất cả những ngày lễ khác.
  3. Không chào cờ và dự vào những hoạt động chính trị.
  4. Không ăn huyết. Không cho máu và nhận máu, vì có hình thức ăn huyết.

E. LÀM CHỨNG CHO NHỮNG NGƯỜI THEO GIÊ-HÔ-VA CHỨNG NHÂN:

  1. Phải có một sự thông hiểu về niềm tin căn bản của mình và Kinh Thánh.
  2. Tìm hiểu một kiến thức căn bản về tín lý và lối hành đạo của Giê-hô-va Chứng Nhân.
  3. Có một kế hoạch chứng đạo hẳn hòi khi gặp những người Giê-hô-va Chứng Nhân và chủ động trong việc làm chứng cho họ.
  4. Trước hết, nói đến những quan tâm trong đời sống để làm bạn. Rồi từ từ thảo luận về tín lý.
  5. Chuẩn bị và sẳn sàng giải nghĩa những câu Kinh Thánh liên quan đến lẽ đạo của Tin Lành.
  6. Định nghĩa rõ những từ dùng và hỏi người Giê-hô-va Chứng Nhân định nghĩa những từ họ dùng một cách rõ ràng.
  7. Tập trung về công việc và thân vị của Chúa Giê-xu khi thảo luận với Giê-hô-va Chứng Nhân. Nhấn mạnh về mối tương giao cá nhân với Chúa là việc rất cần thiết.
  8. Chia sẻ câu chuyện bạn tin Chúa (bài làm chứng cá nhân) và được Ngài biến đổi như thế nào.
  9. Giới thiệu căn bản về Phúc Âm và khuyên họ có một quyết định về Chúa Giê-xu.
  10. Cầu nguyện và tin cậy Chúa Thánh Linh giúp đỡ và hướng dẫn bạn khi làm chứng.


 Tài liệu tham khảo:
  1. Mục sư Nguyễn Xuân Tín, Tìm Hiểu Các Tà Giáo: Giê-hô-va Chứng Nhân, Trại Nguồn Phước, FL, 1995.
  2. Tal Davis, Interfaith Evangelism Belief Bulletin: Jehovah's Witnesses, Interfaith Evangelism, NAMB, 2000.
  3. Walter Martin, The Kingdom of the Cults, Revised Edition, 1985.
  4. Josh McDowell and Don Stewart, Handbook of Today's Religions, Campus Crusade For Christ, 1983.
Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...