- Viết bởi MS. TS. Lưu Hồng Khanh
- Chuyên mục: Lòng Tôi Nương Tựa Nơi Ngài
A. Chuẩn bị và khai nguyện:
- Tĩnh lặng – Tập trung – Ý thức
- Nhắc nhở lại khải tượng cuộc sống đức tin (x. Dẫn Nhập, 6-7).
B. Ðọc Kinh Thánh và Suy niệm:
- Ðọc Kinh Thánh: Thi Thiên 731 Ðức Chúa Trời thật tốt lành với Israen,
với những người có lòng trong sạch.
2 Thế mà tôi đã gần như hụt bước,
một chút nữa là tôi phải trượt chân,
3 bởi ganh tị những người lên mặt
và thấy ác nhân thịnh đạt hoài.
4 Quả là chúng không nếm mùi tân khổ,
chúng có thân hình mạnh mẽ phương phi,
5 không hề vất vả như ai khác,
chẳng bị tai ương giống người đời.
6 Vì vậy chúng lấy vẻ kiêu căng làm vòng đeo cổ,
lấy thói bạo tàn làm áo che thân.
7 Xác đầy mỡ tiết ra toàn gian ác,
và tâm địa chan chứa những mưu mô.
8 Chúng chế giễu, buông lời thâm độc,
lại kiêu căng bàn chuyện ức hiếp người,
9 miệng chẳng từ xúc phạm trời cao,
lưỡi tự do tung hoành cõi đất.
10 Nên dân ta hướng về chúng cả,
lời chúng thốt ra, hăm hở nuốt vào.
11 Chúng bảo: "Chúa Trời đâu có biết,
Ðấng Tối Cao nào hiểu chuyện chi!"
12 Ác nhân như vậy đó,
chúng vẫn cứ an nhàn,
thu tích thêm của cải.
13 Lạy Chúa, như thế là con đã uổng công
Giữ lòng trong trắng, giữ tay thanh sạch?
14 Suốt ngày con bị đòn bị đánh,
mỗi sớm mai hình phạt sẵn chờ.
15 Giả như con tự nhủ: mình nói năng như chúng,
thì con đã thất trung với giống dòng con Chúa.
16 Nên con mới gẫm suy để hiểu chuyện nầy,
nhưng đối với con thật là vất vả;
17 Cho tới ngày được vào trong thánh điện,
con mới am tường hậu vận chúng ra sao.
18 Quả Ngài đặt chúng vào nơi trơn trượt,
đẩy cho rơi vào cảnh điêu tàn.
19 Trong nháy mắt, hỡi ôi,
chúng đã sụp đổ rồi,
nỗi kinh hoàng ập xuống,
cuốn mất cả tăm hơi!
20 Lạy Chúa, khi tỉnh giấc,
Ngài xua đuổi hình ảnh chúng đi,
như giấc mộng phai mờ
lúc người ta thức dậy.
21 Khi lòng con ngậm hờn cay đắng
và nỗi đớn đau thấu tận ruột gan,
22 con quả đã ngu si chẳng hiểu,
trước mặt Ngài, như thú vật nào hơn.
23 Thật con ở với Chúa luôn,
tay con Ngài nắm chẳng buông chẳng rời,
24 dắt dìu khuyên nhủ bao lời,
một mai đưa tới rạng ngời quang vinh.
25 Con còn ai chốn trời xanh?
bên Ngài thế sự thật tình chẳng ham.
26 Dẫu cho hồn xác suy tàn,
thì nơi ẩn náu, kỷ phần lòng con,
muôn đời là Chúa cao tôn.
27 Kìa ai xa Chúa, sẽ mai một hết,
những kẻ phụ Ngài, Ngài diệt cả đi.
28 Còn hạnh phúc của con là ở kề bên Chúa,
chốn ẩn thân đặt ở Chúa Trời;
mọi việc Ngài làm, con xin kể lại
(nơi cửa vào thành thánh Sion).
Dẫn giải: Một Thi Thiên từ trong đau thương.
Ðây là một TT nhìn đến một hoàn cảnh đặc biệt trong cuộc sống của con người. Những TT mà ta đã đọc và suy niệm trước đây nói về niềm vui và sự đau khổ, về việc tôn ca và sự ca thán trước mặt Ðức Chúa Trời. TT 73 trong bài nầy diễn tả sự thử thách của con người về kinh nghiệm "Chúa vắng mặt" trong cuộc sống của con người, xã hội và lịch sử.
Chúng ta đã từng có phước hạnh có được những kinh nghiệm về sự hiện diện đầy ưu ái của Ðức Chúa Trời; nhưng cũng có những khoảnh khắc trong cuộc sống cá nhân cũng như cộng đồng, trong đó ta đã phải kinh qua những cơn thử thách vô cùng đau thương về sự "vắng bóng" của Chúa: "Lạy Ðức Chúa Trời tôi, tôi kêu lên Chúa, mà Chúa không nghe lời; ngày đêm tôi van nài Chúa, mà Chúa vẫn nín tiếng làm thinh!" Chính từ một kinh nghiệm như thế mà TT nầy được viết ra: một TT phát xuất từ một nỗi niềm đau thương sâu xa trong một số khoảnh khắc và hoàn cảnh đặc biệt nào đó trong cuộc sống, và đã dâng trào lên thành tiếng kêu than thống thiết; nhưng rồi tiếng kêu than não nuột đó đã được dần dà lắng xuống trong một cái nhìn chìm đắm trong mầu nhiệm thẳm sâu Ðức Chúa Trời.
Kinh nghiệm Chúa bỏ rơi.
Ðây quả là một kinh nghiệm tâm linh vô cùng sâu xa và bi thảm.
TT 73 của chúng ta đây đã được xuất xứ từ đâu? Chắc chắn là từ một con người có đức tin, một con người đã đặt để hết lòng tin của mình vào Chúa và phó thác trọn cả cuộc đời mình cho Chúa. Nhưng rồi con người đầy lòng tin đó bỗng nhiên cảm thấy như bị đánh gục, như bị bội phản. Tại sao? Tại sao biết bao nhiêu con người, đoàn thể, phe nhóm, xứ sở, dân tộc – những người, những dân nước không hề có một nền đạo hạnh và đức tin như tuyển dân của Chúa – thế mà họ lại có được uy quyền, thế lực và sung túc! Hơn nữa, uy quyền và thế lực của họ lại đã được xử dụng để ức hiếp và tước lột tuyển dân Israen cùng với những người tin yêu Chúa và sống đạo hạnh theo lề luật Chúa! Khi kinh nghiệm được cái thực trạng tương phản và nghịch lý nầy, thì kẻ tin Chúa cảm thấy một nỗi đau thương vô cùng thảm thiết, một nỗi đau thương đầy chua xót, đắng cay, đầy thất vọng, bởi như bị lừa dối, phỉnh gạt, bội phản. Ðắng cay và thất vọng, khi so sánh những con người và dân nước vô đạo hạnh và không tin Chúa thì lại được uy quyền, thế lực và sung túc; còn người tin Chúa và nắm giữ lề luật Chúa, thì lại bị ức hiếp, tước lột và cùng cực thê thảm. Ðó là một kinh nghiệm đau thương, chua xót, mà Ðức Chúa Trời đã không xá miễn cho những người Ngài yêu thương.
Từ cái kinh nghiệm tương phản và nghịch lý trong thực tế của sự sống và từ cái cách đối đãi nhiệm mầu của Ðức Chúa Trời, ở đây ta đã có thể rút ra một bài học quan trọng: đừng vì kinh ngạc trước cảnh tương phản đau thương và chua xót như trên đây, mà đánh mất đi niềm tin của chúng ta. Bởi đây là một kinh nghiệm tâm linh có tính quy luật mà tuyển dân Chúa và tác giả TT đã kinh qua. Và phía sau tác giả TT nầy, ta còn thấy nhiều gương mặt lớn các kẻ tin trong Cựu Ước cũng đã từng kinh qua những kinh nghiệm đau thương như thế. Tiên tri Giêrêmia đã có nói: "Lạy Chúa, Ngài đã trở nên cho tôi như một ngọn suối khô cạn, như một khe nước không đảm bảo: khi tôi hết sức cần nước, thì suối khe lại khô cằn; Ngài đã không đến cứu tôi trong giờ phút tôi khốn khổ, và Ngài đã không nghe lời tôi khi tôi kêu van" (x. Giêrêmia 15:18). Gióp còn đi xa hơn và đã nguyền rủa cái ngày ông sinh ra, bởi ông xem đó như là Chúa gài bẩy cho ông té ngã và không tài nào tránh thoát. - Suy niệm:Ðó là một kinh nghiệm tâm linh tôn giáo đi đến mức tột cùng của đức tin, đi đến cảm nghiệm cuối cùng như bị Chúa bỏ rơi. Kinh nghiệm của kẻ bước đến nước bước cuối cùng của sự sống.
Mà Kinh Thánh vẫn đã không e ngại hoặc kinh sợ trước những kinh nghiệm như thế. Trái lại, Kinh Thánh đã ghi nhận, đã nhắc nhớ, đã tường thuật lại những sự kiện đó, bởi đây là những kinh nghiệm của những con người, những kẻ đã đích thực bước đi trong tin cậy Chúa và đã thí hết tất cả cho Chúa. Gương hạnh cuối cùng và cao độ nhất của kẻ đã thí hết mạng sống mình cho Ðức Chúa Trời, và như thế đã phải kinh qua kinh nghiệm tột độ như bị Chúa bỏ rơi, hẳn chính là Chúa Giêsu trên cây thập tự giá: "Ðức Chúa Trời tôi ơi, Ðức Chúa Trời tôi ơi, sao Ngài lìa bỏ tôi?" (Mc 15:34).
Dĩ nhiên kẻ không hết lòng dấn mình cho đức tin, kẻ ấy sẽ không có được những kinh nghiệm nầy. Những ai chỉ muốn dấn bước trên những con đường nhàn hạ, những ai không muốn thí thân, không muốn mất mát, những kẻ ấy không biết đến những kinh nghiệm như thế nầy, nhưng chỉ có những kẻ chịu mất mát nhiều, nghĩa là những kẻ tin cậy nhiều, yêu mến nhiều. TT của chúng ta đang bàn ở đây đã xuất phát từ một niềm tin cậy và một lòng yêu thương rất lớn, do đó mà TT đã chân thành và rộng rãi diễn tả ra được nỗi đau thương rất thâm sâu của con người. Sứ đồ Phaolô trong thư thứ hai cho giáo đoàn Côrinhtô cũng đã diễn tả một cách tương tự như thế: Ngay khi vào đề (1:9) thư đã viết: "Chúng tôi đã cam đành nhận lấy án tử rồi".
Khi so sánh giữa kẻ tin mà lại phải chịu khốn khó và kẻ ác nhân mà lại được "thịnh đạt" (c.3), TT sít sao tiếp tục mô tả những người vô tín và ác nhân lại đầy quyền lực, giàu sang và sung sướng nhàn hạ: "Quả là chúng không nếm mùi tân khổ, chúng có thân hình mạnh mẽ phương phi, không hề vất vả như ai khác, chẳng bị tai ương giống người đời" (cc.4-5). Không những thế, những người gian ác đó lại còn kiêu căng, ngạo mạn và bạo hành: "Vì vậy chúng lấy vẻ kiêu căng làm vòng đeo cổ, lấy thói bạo tàn làm áo che thân, xác đầy mỡ tiết ra toàn gian ác, và tâm địa chan chứa những mưu mô" (cc.6-7). Thật không khác những hệ thống chuyên chế và bạo hành mà ta ngày nay vẫn còn chứng kiến. TT nói thêm: "Chúng chế giễu buông lời thâm độc, lại kiêu căng bàn chuyện ức hiếp người, miệng chẳng từ xúc phạm trời cao, lưỡi tự do tung hoành cõi đất" (cc.8-9). Và trong cảm giác tự cao tự đại, ác nhân đã không còn biết đến thần thánh nào nữa: "Chúng bảo: Chúa Trời đâu có biết, Ðấng Tối Cao nào hiểu chuyện chi!" (c.11). Và rồi ác nhân cứ thảnh thơi nhàn hạ: "Ác nhân như vậy đó, chúng vẫn cứ an nhàn, thu tích thêm của cải" (c.12). Ðức Chúa Trời xem ra như không còn chú tâm để ý gì đến các chuyện bất công trái nghịch, những điều phản nhân phản nghĩa nầy nữa!
Chua xót tột cùng – Chua xót nhường bước.
Cơn thử thách ở đây đi đến tột đỉnh tàn bạo, hầu như hết mức chịu đựng. Tín nhân nhìn quanh, rồi nhìn vào tận tâm can mình, để chỉ còn thấy có đắng cay và chua xót, chỉ còn có cô độc và bị bỏ rơi: "Lạy Chúa, như thế là con đã uổng công, giữ lòng trong trắng giữ tay thanh sạch?/ Suốt ngày con bị đòn bị đánh, mỗi sớm mai hình phạt sẵn chờ" (cc.13-14). Rồi cũng giống như Gióp, tín nhân chịu thử thách ở đây đã lâu dài ngẫm suy: "Nên con mới gẫm suy để hiểu chuyện nầy, nhưng đối với con thật là vất vả" (c.16).
Ðau xót và vất vả vì không hiểu được lý do của cảnh sống tương phản và nghịch lý của người tin Chúa và của kẻ ác nhân; nhưng dẫu gì đi nữa, người tin Chúa vẫn bám trụ vào Ngài: "Giả như con tự nhủ: mình nói năng như chúng, thì con đã thất trung với giống dòng con Chúa" (c.15); do đó mà dẫu con không thấy không hiểu, nhưng con vẫn tin cậy vào Chúa và gắn bó với Chúa!
Ðó là kinh nghiệm của "đêm tối tâm hồn", của sự lìa bỏ buông rơi, trong đó con người không còn thấy gì nữa, nhưng vẫn nói lên: "Lạy Chúa, con không hiểu gì nữa, nhưng con vẫn trung thành với Chúa, Chúa sẽ không bỏ rơi con". Và ai đã kinh qua được kinh nghiệm thành tín trong ruồng bỏ như thế, kẻ đó sẽ đón nhận được phần thưởng Chúa ban: "Ngươi sẽ được vào trong thánh điện Chúa" (x. c.17), nghĩa là vào "nơi Chúa hiện diện, nơi đó sự thật được bừng sáng lên trên những tương phản và nghịch lý dấu ẩn của cuộc đời" (xem ct. trong Bản dịch Kinh Thánh của Martin Luther, xb 1992, được diễn đạt trong cc.18-20 của TT nầy).
Ðiều gì đã xẩy ra cho con người lâu nay phải vật lộn với sự bất công và tương phản của cuộc sống? Trong khoảnh khắc, con người tin Chúa bỗng nhận được ánh sáng Chúa soi dọi, kẻ đó không còn quanh quẩn suy nghĩ xem như mọi sự phải tùy thuộc vào sự phẩm định và phê phán của mình, nhưng đã quay vào Chúa, "vào trong thánh điện Chúa", nhìn xem sự vật như Chúa nhìn, rời bỏ cái nhìn thiển cận của mình trên sự vật và bước vào cái nhìn diệu kỳ của Chúa. Ðó là bước nhảy lớn, là sự thay đổi nhãn quan, là tuyệt đỉnh tâm linh. Ðắng cay và chua xót nhường bước cho chấp nhận và an bình: một cái nhìn mới.
Ðức Chúa Trời là Ðấng yêu thương và thành tín.
Sự thay đổi nhãn quan đã được thực hiện qua hai bước đi được mô tả trong phần thứ hai của TT.
- Trước tiên, tín nhân nhận được sự khôn ngoan của Ðức Chúa Trời, để nhìn xem và phê phán lịch sử như Chúa nhìn xem và phê phán: không phải một sự nhìn xem bên ngoài, không phải một sự phê phán tạm thời, nhưng là sự nhìn xem đích thực và sự phê phán cuối cùng của mầu nhiệm công chính và yêu thương của Chúa: "Trong nháy mắt, hỡi ôi, chúng đã sụp đổ rồi, nỗi kinh hoàng ập xuống, cuốn mất cả tăm hơi!/ Lạy Chúa khi tỉnh giấc, Ngài xua đuổi hình ảnh chúng đi, như giấc mộng phai mờ lúc người ta thức dậy" (cc.19-20). Ta nhớ đến lời tôn ca của Maria thân mẫu Chúa Giêsu trong bài ca "Ngợi Khen": "Chúa đã ra oai sức mạnh cánh tay Ngài, phá tan lũ kiêu căng lòng trí, truất hạng quyền năng khỏi ngai báu, và suy tôn những kẻ khiêm nhường" (Lc 1:51-52). Ðó là sự khôn ngoan lịch sử mà con người có thể nhận được khi đứng về phía Ðức Chúa Trời, nhưng đó cũng chỉ là một sự khôn ngoan lịch sử làm cho con người trong khổ đau và bất công có thể tìm được một sự thư thái quân bình nào đó.
- Bước đi thứ hai mà tín nhân cầu nguyện với TT còn có thể đi xa hơn nữa. Khi tín nhân bước qua nhãn quan nhìn xem và phê phán của Ðức Chúa Trời, thì đồng thời cũng nhận được một ơn ban cho vô cùng trân quý, đó là ơn: "Ðức Chúa Trời ở với con người, Ngài là Chúa, là cơ nghiệp, là kỷ phần của con người" (x. c.26). Trong phần cuối, TT đã diễn tả đầy mầu sắc ấm nóng tình nghĩa của Chúa đối với con người, điều mà con người không thể tự mình nghĩ ra được, nhưng chỉ là do Chúa khải thị ban cho: "Thật con ở với Chúa luôn" (c.23). Giống như người cha nói với người con cả trong dụ ngôn đứa con hoang trong Phúc Âm: "Này con, con vẫn luôn ở cùng cha" (Lc 15:31), hiểu được điều đó có nghĩa gì thì mọi sự sẽ đơn giản biết bao!
"Ngài nắm tay tôi, Ngài dắt dìu tôi, Ngài đón nhận tôi", nghĩa là quá khứ tôi, hiện tại tôi và tương lai tôi ở trong tay Ngài. Và rồi tình yêu thương kêu lên: "Con còn ai chốn trời xanh?/ Bên Ngài, thế sự thật tình chẳng ham" (c.25). Tình yêu thương không còn tiếng nói nào lớn hơn. Người ta nghĩ đến đáp lời của Phêrơ cho câu hỏi của Chúa Giêsu: "Các ngươi cũng muốn bỏ đi sao?" Phêrơ thưa: "Thưa Thầy, chúng tôi còn biết đến với ai? Thầy có những lời hằng sống" (Gi 6:67t). Hàng thế kỷ trước đó, tác giả TT đã nói: "Con còn ai chốn trời xanh? Bên Ngài, thế sự thật tình chẳng ham". Và thiết tha hơn nữa: "Dẫu cho hồn xác suy tàn, thì nơi ẩn náu, kỷ phần lòng con, muôn đời là Chúa cao tôn" (c.26). Chúa là nơi "ẩn náu", các bản dịch còn gọi: Chúa là "sức lực", là "đá tảng", là niềm "an ủi"; Chúa là "kỷ phần" lòng con, nghĩa là Chúa là "cơ nghiệp", là "gia nghiệp", là "phần" gia sản được ban cho, như xưa kia Aarôn không nhận được phần đất nào làm gia nghiệp, nhưng "chính Ðức Giêhôva là phần, là cơ nghiệp, là gia nghiệp của Aarôn" (Dân Số Ký 18:20). Chúa là đá tảng, là phần, là cơ nghiệp đời đời của lòng tôi. Ðược ở gần Chúa là vui thỏa, là hạnh phúc. Tất cả cậy trông và tin yêu, tôi đặt trọn vào Chúa là Chúa của đời tôi.
Tất cả nên sung mãn trong Ðấng Christ
TT kết thúc chìm đắm trong chiêm nghiệm về một Ðức Chúa Trời vô cùng tốt lành và đầy thương xót. Ðó là kinh nghiệm tâm linh, qua đó mà con người nhận được linh lực đức tin làm cho cuộc đời mình thanh thản, an bình, ý nghĩa và hạnh phúc.
Khởi đầu, TT cho ta thấy một con người đang trăn trở và khổ đau vì cảnh tượng gian ác và bất công trong cuộc sống: người tin Chúa và sống đạo hạnh thì bị ức hiếp giam cầm, người vô tín và gian ác thì lại quyền thế, giàu sang, bạo ngược. Làm sao cắt nghĩa sự tương phản nghịch lý nầy? Ðức Chúa Trời ở đâu? Sao Ngài vẫn im hơi lặng tiếng? Hay Ngài đã bỏ rơi những kẻ đã từng đặt để tin cậy vào Ngài?
Nhưng khi tín nhân trong cơn khủng hoảng đức tin nhìn biết được tình yêu thương nhiệm mầu của Ðức Chúa Trời – tình yêu thương nhiệm mầu trong tạo thành và cứu rỗi, trong kiên tâm chờ đợi và tha thứ, trong hứa hẹn dắt dìu và ủi an, trong yêu thương và thân gần, rất yêu thương và rất thân gần với tôi – thì khi đó cái nhìn của tín nhân bị thử thách được sáng tỏ ra, và tất cả cuối cùng đã trở nên có ý nghĩa.
Bây giờ thì không có gì là vô nghĩa; tất cả đều có ý nghĩa đối với con người biết nhìn với cái nhìn của Ðức Chúa Trời, biết nhìn với cái nhìn con tim của Chúa – và đối với tín nhân Cơđốc/Kitô – biết nhìn với cái nhìn con tim của Chúa Giêsu. Từ góc độ cái nhìn con tim của Chúa nầy, thì toàn thể thực tại được tỏ hiện trong ánh sáng chân thực của nó, và ta sẽ không còn chịu bất công và thiếu thốn, bởi chính Chúa là Yêu Thương, là Ðá Tảng, là An Ủi, là Phần Cơ Nghiệp đời đời của ta.
TT cuối cùng đã dẫn đưa ta tới với Tân Ước: Chúng ta được ở trong Ðức Giêsu, trong Ngài là tình yêu thương nhiệm mầu của Ðức Chúa Trời được tỏ hiện. Và trong mầu nhiệm Ðức Chúa Trời, thì tất cả – sự sống và sự chết, những gì trong ta và ngoài ta, những điều thành tựu và không thành tựu trong đời ta – tất cả đều có ý nghĩa, và tất cả đều được trở nên sung mãn trong Ðấng Christ, bởi chúng ta đời đời sẽ được ở với Ngài và bên Ngài.
Cầu nguyện thế nào với Thi Thiên nầy:
Chúng ta có thể cầu nguyện với TT nầy, bằng cách thể hiện nơi mình những điều TT diễn tả, cách riêng bằng cái kinh nghiệm bản thân như trong TT. Ta có thể tự đặt cho mình những câu hỏi như sau:
- Trong những cơn thử thách trước đau khổ và bất công, tôi đã thường có những cảm xúc nào: Tôi có cảm nghiệm được Chúa Giêsu ở bên tôi, rằng Ngài không bỏ rơi tôi? Hôm nay và bây giờ, tôi có thể nói được với xác tín rằng: Chúa Giêsu luôn ở với tôi, không gì có thể phân rẽ tôi ra khỏi Ngài, sự sống cũng như sự chết – giống như sứ đồ Phaolô đã nói: " ... không sức mạnh hay quyền lực nào có thể phân rẽ tôi ra khỏi tình yêu thương của Ðức Chúa Trời, được tỏ bày trong Ðức Giêsu Christ, Chúa chúng ta" (Rm 8:38t).
- Chúng ta có thể cầu nguyện với TT nầy, bằng cách đặt mình vào trong hoàn cảnh của giáo hội đau thương: giáo hội bị bắt bớ, khống chế, khinh chê, nhưng vẫn thâm tín và tìm được sức mạnh và linh lực của mình trong Chúa.
- Chúng ta cũng có thể cầu nguyện với TT nầy như là công dân của toàn thế giới: hướng mọi người về với Ðức Chúa Trời yêu thương và giải cứu, gây lòng tin cậy chỉ vào Ngài, và cho họ xác tín được rằng: Chúa là Ðấng yêu thương và thành tín, Ðấng không bao giờ bỏ rơi những kẻ đặt để tin cậy vào Ngài.
Niềm xác tín và tin yêu của tôi đối với Chúa được diễn tả như thế nào trong cuộc sống hằng ngày của tôi? Lời tôi nói và việc tôi làm có giống như trong TT: "Giả như con tự nhủ: mình nói năng như chúng, thì con đã thất trung với giống dòng con Chúa" (c.15).Những lời tôi nói, những việc tôi làm có phải chỉ là sự diễn tả lòng tự tín của tôi, diễn tả việc tôi chỉ dựa vào khả năng và sức lực mình, vào quyền, vào thế, vào lý lẽ của tôi... hay chúng là sự diễn tả niềm xác tín rằng: Chúa ở cùng tôi, Chúa ở cùng hội thánh Ngài, và Chúa ở cùng mọi người đặt để tin cậy vào Ngài?
C. Kết thúc và kết nguyện:
- Ðiều thực hành:
Mỗi người chúng ta sẽ trầm lặng ra mắt trước mặt Ðức Chúa Trời, ôn nhớ lại những câu hỏi vừa nêu trên, rồi tìm cho mình một điều thực hành thích ứng.Có thể chăng điều thực hành sau đây:
Trước những bất công và bạo lực đối với bản thân, hội thánh và xã hội, mỗi ngày sáng và tối, tôi sẽ nhẩm đọc, gẫm suy và cầu nguyện với lời cầu của TT (cc.23-26).
Hoặc giống như lời tuyên xưng đầy xác tín của sứ đồ Phaolô:
Chúa Giêsu luôn ở với tôi, không gì có thể phân rẽ tôi ra khỏi Ngài, sự sống cũng như sự chết... Không sức mạnh hay quyền lực nào có thể phân rẽ tôi ra khỏi tình yêu thương của Ðức Chúa Trời, được tỏ bày trong Ðức Giêsu Christ, Chúa chúng tôi. (x. Rm 8:38t). - Lời kết nguyện:
Tự mình đưa ra một lời cầu nguyện thích ứng với hoàn cảnh cá nhân và với điều thực hành. Cũng có thể lấy lại lời kết nguyện ở phần Dẫn Nhập, diễn tả sự trao gửi, phó thác và dâng hiến mình cho Ðức Chúa Trời (x.Dẫn Nhập, 7).
September 11, 2012
Bài 5: Khủng Hoảng Đức Tin Trước Bất Công và Bạo Lực
