- Viết bởi MS TS Lưu Hồng Khanh
- Chuyên mục: Lòng Tôi Nương Tựa Nơi Ngài
A. Chuẩn bị và khai nguyện:
- Tĩnh lặng – Tập trung – Ý thức
- Nhắc nhở lại khải tượng cuộc sống đức tin (x. Dẫn Nhập, 6-7).
B. Ðọc Kinh Thánh và Suy niệm:
- Ðọc Kinh Thánh: Thi Thiên 82 Lạy Ðức Giêhôva là Chúa chúng tôi,
lẫy lừng thay danh Chúa
trên khắp cả địa cầu,
uy phong ngài vượt quá trời cao!
3 Ngài cho miệng con thơ trẻ nhỏ
cất tiếng ngợi khen đối lại địch thù,
khiến kẻ thù quân nghịch phải tiêu tan.
4 Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo,
muôn trăng sao Chúa đã an bài,
5 thì con người là chi mà Chúa cần nhớ đến,
phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm?
6 Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy,
ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên,
7 cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo,
đặt muôn loài muôn sự dưới chân.
8 Nào chiên bò đủ loại,
nào thú vật ngoài đồng,
9 nào chim trời cá biển,
mọi loài ngang dọc khắp trùng dương.
10 Lạy Ðức Giêhôva là Chúa chúng tôi,
lẫy lừng thay danh Chúa
trên khắp cả địa cầu!
Dẫn giải: Cuộc đời Ðavít.
TT nầy cũng có một ít khó khăn. TT nầy không đơn thuần là một TT tôn ca, như ta có lẽ thường hiểu và thường dùng. Trong bài trước, chúng ta đã nói đến hai thái độ căn bản của con người như hai nhịp điệu cầu nguyện khi con người ra mắt trước mặt Ðức Chúa Trời, đó là ca ngợi và ca thán: Ca ngợi trước sự sống và ca thán trước sự giảm thiểu sự sống, như là lời cầu xin với Chúa của Sự Sống cứu thoát cho được sống.
TT 8 của chúng ta trong bài nầy không đơn thuần là một tiếng ngợi ca Ðức Chúa Trời vì sự Cao Cả của Ngài trong tạo thành, và khi nhìn đến sự tác tạo diệu kỳ Chúa làm cho con người. Ca khúc TT nầy có phần nào tương tự như Bài Ca Mặt Trời của Francesco Assisi (1181-1226), chỉ phần nào thôi. Bài Ca Mặt Trời là sự chiêm nghiệm của một người nhìn lên trời đất, và nhìn biết mặt trời và trăng và sao là những công trình tác tạo diệu kỳ của Ðức Chúa Trời, và Fransceso tôn ca Chúa vì người anh mặt trời, người chị mặt trăng, người mẹ trái đất, vì những ai đã tha thứ, vì người anh người chị sự chết.
TT 8 của chúng ta trong bài nầy cũng là một TT tôn ca, nhưng phát xuất từ một nguồn thi hứng khác và một hoàn cảnh sinh sống khác, và do đó mang thêm một số ý nghĩa khác. Ðể tìm hiểu những ý nghĩa mới nầy, chúng tôi xin trình bày sau đây một nhân vật Kinh Thánh mà kinh nghiệm sống bản thân có thể là nguyên do cho TT nầy.
Trước tiên, ta nhận thấy TT nầy bắt nguồn cảm hứng từ một đêm chiêm ngắm trời đất, một đêm ở bầu trời phuơng đông, ở xứ Phalêtin, với một bầu trời trong sáng và đầy sao. Nhưng đây không phải chỉ là sự chiêm ngắm của một nhà thơ, của một nghệ sĩ, nhưng hầu như còn là của một con người vừa kinh qua một biến cố bi đát trong đời.
Ta nghĩ đến con người Ðavít trong thời ông phục dịch vua Saulơ (Saul). Ngày nọ, Ðavít biết được Saulơ muốn hãm hại giết mình, ông đã trốn chạy vào vùng sa mạc Giuđa. Và chính trong miền hoang địa đầy những hang sâu và trũng dày nầy mà Ðavít đã chạy đến tìm nơi trú ẩn, khi trời đã ngã về đêm. Thế rồi Ðavít dừng chân, khi thấy kẻ thù đã lạc đường, và nay chỉ còn có một mình còn lại. Nhưng Ðavit vẫn còn đầy lo sợ; những gì vừa xẩy ra thì hình như không còn có thể thay đổi được nữa: Saulơ đã hết tin vào ông, và hình như chính Ðức Chúa Trời cũng đã lìa bỏ ông; Ðavit cảm thấy còn lại chỉ một mình, một mình cô độc trong sa mạc hoang vu và đêm lạnh nầy.
Chính vào khoảnh khắc nầy mà Ðavit nhìn lên không gian, nhìn lên bầu trời, và đã khám phá ra cả một trời sao trong sáng kỳ diệu, kỳ diệu như chúng ta ngày hôm nay từ vùng sa mạc Giuđa vẫn còn có thể xem thấy: những ánh sao trong sáng như phalê và những tia sáng hầu như muốn xuyên thâu cả đôi mắt chiêm ngắm của con người. Và từ đây, phát hiện lên trong Ðavit những cảm xúc tâm tư:
"Mà Ðức Chúa Trời quả thật là cao cả, Ngài quả thật là lớn lao! Còn sinh mệnh của tôi đây có là gì! Vâng, tôi đã quá quan trọng hóa bản thân tôi. Tôi đã tưởng mình là một nhân vật đặc biệt nầy nọ, và nay cả cuộc đời tôi đã bị dập đổ tan tành. Nhưng tôi quả thật là gì trước sự lớn lao của trời đất như thế nầy? Trước sự cao cả và vô biên của Ðức Chúa Trời? Trước hàng ngàn vạn trân châu mà Ðức Chúa Trời đã tác tạo và gắn lên bầu trời?"Và khi Ðavit càng đắm sâu trong chiêm ngắm, Ðavit càng trở nên điềm tĩnh, để rồi quên đi những lo sợ, chán chường và bực nhọc ông vừa trải qua. Bây giờ thì Ðavit chỉ còn biết hòa hết mình vào những kỳ công của Ðức Chúa Trời, và cuối cùng nghĩ rằng:
"Mà tình Chúa thương cũng là cho tôi! Cả bầu trời đầy sao nầy cuối cùng ra và quả thực là cho tôi! Ðức Chúa Trời đã nghĩ đến tôi, Ngài không thể bỏ quên tôi, Ngài đang đến với tôi!"Do đó mà có sự kinh ngạc kỳ diệu trong TT: con người, kẻ rất ý thức về sự nhỏ bé và yếu hèn của mình, nay bỗng khám phá ra mình lại đang đứng ở ngay giữa trời đất, đứng ở ngay giữa tình Chúa thương, đứng ở ngay giữa sự quan tâm tế nhị và diệu kỳ của Ðức Chúa Trời.
Bản văn TT nói: "Con người là chi mà Chúa cần nhớ đến,/ phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm?" (c.5). Nguyên văn Hibá dùng một từ diễn tả sự "thăm viếng" của Chúa: "... con người mà Chúa nghĩ đến, con người mà Chúa viếng thăm". Với câu nầy, tác giả TT đã ít nhiều nhớ đến toàn bộ lịch sử cứu rỗi: Ðức Giêhôva, Ðấng đã nghĩ đến tuyển dân của Ngài. Cũng như Maria thân mẫu Chúa Giêsu đã nói lên trong bài ca Ngợi Khen (Magnificat): "Chúa đã đáp cứu Israen tôi tớ của Ngài và đã nhớ lại lòng thương xót Ngài" (Lc 1:54). Cũng như Zacaria đã nói lên trong bài ca An Bình Ra Ði (Benedictus): "Chúa đã viếng thăm Israen dân Ngài và đã đưa lại ơn giải cứu" (Lc 2:29-32).
Và nay Ðavit – cũng như người cầu nguyện với TT nầy – cũng nhớ đến toàn bộ lịch sử cứu rỗi Chúa làm cho tuyển dân Ngài, khi Ðavit ngước nhìn lên sự cao cả của tạo thành Chúa - cảnh tượng trong khoảnh khắc làm ông quên đi cái con người nhỏ bé của mình, làm ông chỉ còn biết nghĩ đến tình yêu thương vô biên và đặc biệt của Chúa, và ông cảm thấy lịch sử cứu rỗi Chúa làm đang được thực hiện trong dân Ngài, trong chính bản thân ông, bởi Chúa là Ðấng vô cùng thành tín với lời Ngài đã đoan hứa. Chúa không hề ruồng bỏ một ai, Ngài luôn tìm kiếm, thăm viếng và ban ơn tràn đầy cho tâm hồn mỗi một người vào đúng thời điểm Ngài đã lựa chọn.
- Suy niệm:Con người trong chương trình của Chúa:
Từ những ngỡ ngàng và kinh ngạc trên đây mà Ðavit đã dần dà đi đến nhận định được rằng, tất cả trời đất thế giới nầy là của mình: Quyền năng trên các kỳ công được Chúa dựng nên nay được trao ban cho con người: "Chúa cho con người... làm chủ công trình tay Chúa sáng taọ, đặt muôn loài muôn sự dưới chân. Nào chiên bò đủ loại, nào thú vật ngoài đồng, nào chim trời cá biển, mọi loài ngang dọc khắp trùng dương" (cc.7-9).
Và như thế, con người nay tìm lại được sự tự do của mình. Trước đây, con người cảm thấy như chỉ là một kẻ tha hương, hoặc chỉ như là một tên nô lệ của số kiếp định mệnh; bây giờ hướng mắt nhìn lên Chúa và cảm nhận được một cách vững chắc về tình Chúa thương, con người tìm lại được chỗ đứng của mình trong trời đất và lịch sử, để từ đây trưởng thành lên trong sự thật và sự công chính.
TT 8 của chúng ta ở đây như vậy là một "TT tôn ca", không phải tôn ca đơn thuần như của một nhà thơ hay của một nghệ sĩ, nhưng là tôn ca của một con người với những kinh nghiệm đặc biệt về Ðức Chúa Trời, Ðấng đã quá đỗi yêu thương con người bằng cách ban cho cả trời đất vô cùng kỳ diệu, cùng với trách nhiệm chăm sóc quản trị cả thiên nhiên và lịch sử. Sự kinh ngạc về những kỳ diệu của trời đất và của tình Chúa thương được diễn tả trong tiếng kêu thốt lên mở đầu và kết thúc TT: "Lạy Ðức Giêhôva là Chúa chúng tôi,lẫy lừng thay danh Chúa trên khắp cả địa cầu" (cc.1, 10). Tiếng kêu thốt lên nầy diễn tả một kinh nghiệm cơ bản của con người về Ðức Chúa Trời của mình, kinh nghiệm về tình Chúa thương, và được Ngài đặt để ngay ở trung tâm trời đất và lịch sử, và từ ở giữa muôn vật mà được sinh sống và trưởng thành lớn lên.
Cái cốt lõi của TT nầy là ở sự kinh ngạc được diễn tả qua câu hỏi trung tâm của TT: "Con người là chi mà Chúa cần nhớ đến,/ phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm?" (c.5). Từ sự kinh ngạc nầy mà TT được khai triển thành hai phần như hai tiết nhịp của một nghệ phẩm.
Phần thứ nhất bắt đầu với bầu trời là kỳ công của Chúa, để đưa đến sự cảm nhận về con người như một tạo vật nhỏ bé, đơn côi và như bị ruồng bỏ. Phần thứ hai lại bắt đầu với con người, kẻ được Chúa rất thương rất yêu, để lại mở rộng tầm nhìn đến cả trời đất tạo thành, mà ý nghĩa lại hệ tại ở con người.
Ở đây ta lại có thêm được một minh họa về tri thức nhân chủng của truyền thống dothái làm nền suy tư cho TT, một quan niệm nhân chủng với ba khái niệm cơ bản: Ðức Chúa Trời Ðấng tạo dựng, con người được Chúa yêu thương, và tạo thành là công trình của Chúa và được giao phó cho con người. Chỉ ba từ ngữ, chỉ ba khái niệm, nhưng chúng tích chứa cả một khoa nhân chủng với một nhân sinh quan về cuộc sống và về định mệnh con người. Con người không cô đơn cô độc, không một ai trong chúng ta là cô độc cô đơn; mỗi một con người là kẻ được Chúa thương, mỗi một con người được đứng ở trung tâm thế giới mà mình có trách nhiệm chắt chiu quản trị, trách nhiệm được Chúa tin cậy và yêu thương giao phó cho.
Trong xã hội hiện đại của chúng ta, con người cảm thấy cô đơn và cô độc, tạo thành môi sinh bị khai thác nên ô nhiễm, hư hỏng, xa lạ và nghịch thù với con người, sinh mệnh của con người và của trời đất hầu như không tìm thấy được ở đâu ý nghĩa và giá trị: phải chăng con người cần tìm lại được một "kinh ngạc" về sự kỳ diệu của trời đất, của tình Chúa yêu thương, của trách nhiệm chắt chiu canh giữ tạo thành mà Thi Thiên nầy đã đưa lại?
Ðể tìm lại được nhận thức và kinh nghiệm của tác giả TT trên đây, chúng ta có thể tiếp cận TT với hai cách đọc như sau: cách đọc nhân chủng (lecture anthropologique) và cách đọc tập trung vào Chúa Giêsu (lecture christologique).
- Ðọc TT trong cái nhìn nhân chủng: Ðọc TT trong cái nhìn nhân chủng nghĩa là đặt mình vào trong TT với câu hỏi: "Tôi là ai"? Tôi là ai trong sinh mệnh cá nhân tôi? Tôi là ai trong sự nhỏ bé, nghèo hèn và kém cỏi của tôi? Mỗi người chúng ta được kêu gọi đi đến với lời cầu nguyện và tuyên xưng: "Lạy Chúa, con đây là gì trước mặt Chúa, Chúa thật vô cùng cao cả, thế mà Chúa lại tưởng nhớ đến con!"... Vậy kẻ nghèo hèn là tôi đây xin dâng lên Chúa lời tôn ca và cảm tạ, bởi Chúa đã làm những sự lớn lao nơi tôi, Chúa đã bao phủ tôi với vinh quang và danh dự ("... ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên..." c.6b). Và điều đầu tiên tôi cần làm, là nhìn nhận và ngưỡng mộ những ơn cao cả Chúa đã ban cho tôi.
Thật nguy hại, nếu con người quá tự tôn dương; nhưng cũng không kém nguy hại, nếu chúng ta tự đánh giá là quá ti tiện, bần cùng, nhỏ bé. Mỗi một người chúng ta là rất lớn, chỉ thua kém chút ít các thần linh thôi: "Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy..." (c.6a). Từ "thần linh" nầy trong bản văn hibá là từ Elohim (Chúa, Thần Linh); bản Kinh Thánh của HTTLVN dịch là "Ðức Chúa Trời": "Chúa làm người kém Ðức Chúa Trời một chút". Kẻ được đội lên đầu vinh quang và danh dự (c.6b): kẻ đó chính là tôi. Suy tư nhân chủng nầy là một đánh giá trân trọng và biết ơn về việc tôi là ai, và điều tôi là ai thì cũng là điều mà mỗi một con người đều là như thế: vinh quang và danh dự. Cũng do đó mà tiêu đề của TT 8 nầy được bản Kinh Thánh của HTTLVN viết là: "Sự vinh hiển của Ðức Giêhôva và sự sang trọng của loài người"; còn bản dịch của "Nhóm Phiên Dịch các Giờ Kinh Phụng Vụ" thì viết: "Oai phong Thiên Chúa và phẩm giá con người".
Hiệu quả của cách đọc nhân chủng nầy là: Vinh quang cho con người! Và như thế, tôi có tôn trọng mọi người không? Không phân biệt mầu da, nước tóc, giai cấp, chủng tộc, lớn bé, già trẻ? Tôi có tôn trọng mọi người với linh hồn, trí khôn và thân xác của họ, hay họ chỉ là đối tượng cho ích kỷ, tham lam và dục vọng của tôi? Không tôn trọng một con người mà Ðức Chúa Trời trân quý, có nghĩa là muốn lợi dụng, chiếm đoạt, bạo hành họ, vì tham lam, ích kỷ và dục vọng. Hiệu quả của cách đọc nhân chủng TT ở đây là: Tôi có tôn trọng những gì Chúa ban cho tôi, và tôi có tôn trọng những con người ở bên cạnh tôi không? - Ðọc TT trong cái nhìn tập trung vào Chúa Giêsu: làm cho ta liên tưởng đến một số đoạn trong Tân Ước. Tỉ như đoạn hai thư Hêbơrơ nói về Chúa Giêsu: "Chúa đã đặt Người ở dưới thiên sứ một chút, cho Người đội mão triều thiên vinh quang và danh dự" (He 2:7). Hoặc đoạn 15 thư thứ nhất Côrinhtô: "Ðức Chúa Trời đã đặt để mọi sự dưới chân Ngài" (1 Côr 15:27). Tất cả mọi sự, Ðức Chúa Trời đã đặt để dưới chân Chúa Giêsu, kể cả sự chết. Cả hai câu trích dẫn trong Tân Ước trên đây khi nói về Chúa Giêsu, thì cũng được thấy trong TT 8 khi TT nầy nói về con người: "Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy, ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo, đặt muôn loài muôn sự dưới chân" (cc.6-7).
Ðọc TT trong cái nhìn tập trung vào Chúa Giêsu nghĩa là đọc, mà nhìn thấy Chúa Giêsu phục sinh trong hình hài con người bé nhỏ, nhưng lại được ban cho đầy vinh hiển và danh dự, và được tôn dương làm Chúa của cả tạo thành, lịch sử và sự sống. Ðọc TT trong cái nhìn tập trung vào Chúa Giêsu nghĩa là đọc, và ta biết tôn kính Chúa Giêsu là Chúa của lịch sử và sự sống, là Con Ðức Chúa Trời, là Ðấng được Ðức Chúa Trời ban cho mọi uy quyền trên trời và dưới đất, và như thế cũng là uy quyền trên cuộc sống và tương lai tôi.
Ðọc TT trong cái nhìn tập trung vào Chúa Giêsu như thế, thì TT sẽ đặt ra cho tôi câu hỏi: Tôi có nhìn nhận và tuyên xưng Ðức Giêsu là Chúa của lịch sử và của đời tôi? Tôi nhìn nhận và tuyên xưng Ðức Giêsu là Chúa của đời tôi như thế nào? Có phải bằng cách nhìn nhận tôi được Ngài kêu gọi theo Ngài, Ngài có chương trình cho cuộc đời của tôi. Và như thế thì cách đọc TT tập trung vào Chúa Giêsu sẽ đưa ta đến lời cầu nguyện:"Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì? Lạy Chúa của đời con, con phải làm gì với cuộc đời con, tương lai con phải làm gì? Chúa Cha đã đặt để tất cả trời đất dưới chân Chúa. Con tôn kính Chúa, lạy Chúa của tất cả tạo thành và của toàn cả lịch sử, con muốn dâng hiến cuộc đời con để làm cho uy quyền và vinh hiển Chúa ngự trị trên khắp trần gian và lịch sử. Con muốn thực hiện điều đó theo tiếng Chúa gọi con, để cho uy quyền và vinh hiển Chúa được ngự trị trong gia đình con, hội thánh con, xã hội con, tất cả mọi thực tại sinh sống của con!".
C. Kết thúc và kết nguyện:
- Ðiều thực hành: Mỗi người chúng ta sẽ trầm lặng ra mắt trước mặt Ðức Chúa Trời, xét mình và tự hỏi:
- Tôi đã có cảm nghiệm được tình Chúa thương tôi qua việc Ngài đã tác tạo cả một trời đất kỳ diệu, và đã ủy thác trời đất đó cho tôi chăm sóc và quản trị?
- Tôi đã có cảm nghiệm được sự cao quý được làm người, có tôn trọng phẩm giá con người nơi tôi và nơi mọi người chung quanh tôi: không lợi dụng, chiếm đoạt, bạo hành... nhưng trân trọng, kính nể, chắt chiu, nâng đỡ?
- Tôi đã có cảm nghiệm được tất cả mọi sự vật đều được đặt dưới chân Chúa Giêsu, rằng Ngài là Chúa và là Chủ đời tôi. Ngài kêu gọi, cứu thoát tôi, Ngài có một chương trình lớn lao cho đời tôi, cho tôi được hầu việc Ngài để làm cho uy quyền và vinh hiển Ngài được ngự trị trên khắp trần gian và xã hội?
- Mỗi ngày sáng và tối, tôi sẽ dành ra dăm ba phút để cảm nghiệm với tôn ca và cảm tạ tình Chúa thương đã cho tôi được làm người và làm con Chúa, đã ban cho tôi cả một trời đất vô cùng kỳ diệu nầy.
- Ngày hôm nay, tôi sẽ thực hiện một cử chỉ trân trọng quý mến đối với một người mà lâu nay tôi không ưa thích.
- Ba lần trong ngày hôm nay, tôi sẽ đọc lên lời cầu nguyện ở cuối bài suy niệm: "Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì..." (tr.56).
- Lời kết nguyện:Tự mình đưa ra một lời cầu nguyện thích ứng với hoàn cảnh cá nhân và với điều thực hành.
Có thể lấy lại lời cầu nguyện ở cuối bài suy niệm: "Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì... ... "
Hoặc cũng có thể lấy lại lời kết nguyện ở phần Dẫn Nhập, diễn tả sự trao gửi, phó thác và dâng hiến mình cho Ðức Chúa Trời (x. Dẫn Nhập, 7).
- Ðọc TT trong cái nhìn nhân chủng: Ðọc TT trong cái nhìn nhân chủng nghĩa là đặt mình vào trong TT với câu hỏi: "Tôi là ai"? Tôi là ai trong sinh mệnh cá nhân tôi? Tôi là ai trong sự nhỏ bé, nghèo hèn và kém cỏi của tôi? Mỗi người chúng ta được kêu gọi đi đến với lời cầu nguyện và tuyên xưng: "Lạy Chúa, con đây là gì trước mặt Chúa, Chúa thật vô cùng cao cả, thế mà Chúa lại tưởng nhớ đến con!"... Vậy kẻ nghèo hèn là tôi đây xin dâng lên Chúa lời tôn ca và cảm tạ, bởi Chúa đã làm những sự lớn lao nơi tôi, Chúa đã bao phủ tôi với vinh quang và danh dự ("... ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên..." c.6b). Và điều đầu tiên tôi cần làm, là nhìn nhận và ngưỡng mộ những ơn cao cả Chúa đã ban cho tôi.
September 11, 2012
Bài 4: Niềm Vui - Ơn Sinh Sống Làm người
