Đức tin đến bởi sự người ta nghe, mà người ta nghe, là khi lời của Đấng Christ được rao giảng.

January 13, 2012

CON ĐƯỜNG TIN CHÚA (Phần 1)

Và họ lên đường

Ði  theo  Ngài
Con đường tin Chúa
Theo  Phúc  Âm  Mác

Nội dung:

v     Dẫn nhập                                                                                 03

a)      Ðọc và suy niệm phúc âm như sách khải đạo

b)     Nội dung khải đạo của phúc âm Mác

c)      Con đường mười hai

d)     Ðọc và suy niệm phúc âm theo truyền thống linh đạo cơđốc

e)      Cấu trúc một bài suy niệm Lời Chúa

f)      Nguyên tác và biên soạn

g)     Một số từ ngữ tiếng việt



1.      Bài Một: Mầu nhiệm Ðức Chúa Trời                                      12

a)      Những đoạn văn mở đầu (Mc 1:2; 1:3; 1:10-11)

b)     Những chỉ dẫn giải thích (Mc 1:14; 1:15; 1:35; 2:7)

c)      Những chủ đề Kinh Thánh (Mc 10:18; 11:22; 12:30; 13:19)

d)     Những khải thị (Mc 14:36; 15:34)

2.      Bài Hai: Môn đồ không biết không hiểu                                      26

a)      Tình trạng không biết không hiểu

b)     Những nội dung của việc không biết không hiểu

3.      Bài Ba: Chúa Giêsu kêu gọi                                                         41

a)      Chúa gọi ở biển hồ

b)     Chúa gọi ở trên núi

4.      Bài Bốn: Cơn khủng hoảng tại Galilê (Dụngôn gieogiống,Mc 4) 58

a)      Cơn khủng hoảng trong việc Chúa làm tại Galilê

b)     Cơn khủng hoảng của tín đồ trong hội thánh sơ khởi

c)      Cơn khủng hoảng của chúng ta

d)     Câu trả lời của dụ ngôn

5.      Bài Năm: Chúa hành động (Chữalành đứabé bịquỷám,9:14-29)  76

a)      Hoàn cảnh (Mc 9:14-16)

b)     Trường hợp (Mc 9:17-18)

c)      Phản ứng của Chúa Giêsu (Mc 9:19-20)

d)     Câu chuyện với người cha (Mc 9:21-24)

e)      Việc trừ quỷ (Mc 9:25-27)

f)      Kết thúc (Mc 9:28-29)

6.      Bài Sáu: Mầu nhiệm Con Người                                                 86

a)      Tiền báo việc khổ nạn lần thứ nhất: Mùc 8: 31-37

b)     Tiền báo việc khổ nạn lần thứ hai: Mùc 9: 31-32

c)      Tiền báo việc khổ nạn lần thứ ba: Mùc 10: 32-34

7.      Bài Bảy: Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu                                   100

a)      Một việc suy niệm khó khăn

b)     Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu và sự thống khổ của chúng ta

c)      Trình thuật về sự thương khó của Chúa Giêsu

8.      Bài Tám: Phục Sinh                                                                  111

a)      Phục sinh và cuộc sống ẩn giấu của Chúa Giêsu

b)     Phục Sinh

c)      Giáo huấn Chúa sống lại và hội thánh ngày hôm nay

d)     Nhìn thấy Chúa Giêsu sống trong hội thánh

v     Lời cuối                                                                                   127

v     Bài làm                                                                                    128

v   Dẫn nhập:

a. Ðọc và suy niệm Phúc Âm như sách khải đạo:

Mỗi một Phúc Âm trong Tân Ước đều nhắm đến một số độc giả, cùng với một số chủ đích riêng. Như ta đã từng biết: Mathiơ viết riêng cho các tín hữu do thái để củng cố lòng tin của họ trước những vấn nạn của người đồng chủng về Ðức Giêsu. Mác viết cho những người tín hữu lương dân, để trình bày cho họ về giáo lý cơđốc/kitô. Luca đề tặng tác phẩm mình cho người tín hữu mới trở lại tên là Thêôphilô, đại diện cho những người lương dân đã trở lại hoặc những người có thiện cảm với Cơđốcgiáo/Kitôgiáo hồi ấy đang bị bắt bớ, cấm cách và chống đối khắp nơi. Còn Giăng thì viết phúc âm mình như một chứng từ về những dấu lạ Chúa Giêsu đã làm; độc giả của Giăng là những cộng đoàn tín hữu đã được thành lập tiếp nối các sứ đồ, còn chủ đích thì cũng đã được chính Giăng nói ra: "Các việc nầy được chép ra đây để anh em tin rằng, Ðức Giêsu là Ðấng Christ, là Con Ðức Chúa Trời, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Ngài " (Gi 20:31).

* Một cách sắp xếp khác về các phúc âm là nhìn xem các tập sách nầy như những nội dung khải đạo, tuần tự dẫn đưa vào những chiều sâu giáo lý và cuộc sống của hội thánh. Và như thế, Mác là sách giáo lý chuẩn bị cho những người dự tòng chịu phép rửa; Mathiơ giúp tín đồ và người truyền đạo biết sống như thế nào trong giáo hội, cũng như biết đặt tương quan giữa cựu ước và tân ước; Luca là phúc âm cho giảng viên với những suy tư thần học về tương quan giữa giáo hội và trần thế; còn Giăng là tác phẩm chiêm ngắm những mầu nhiệm cứu rỗi thâm sâu cao cả, đặc biệt dành cho các trưởng lão và những tín hữu đã tiến xa trong việc học hỏi giáo lý.

b. Nội dung khải đạo của Phúc Âm Mác:

Mác là sách giáo lý hướng dẫn và giúp đưa người dự tòng đến phép rửa. Nếu phép rửa theo nghi lễ bên ngoài chỉ cử hành có một lần, thì phép rửa theo ý nghĩa bên trong là sám hối và tin theo, thì mỗi ngày trong suốt cuộc đời của người tin Chúa vẫn phải được tiếp tục thực hiện.

Bởi là sách hướng dẫn đưa người dự tòng đến phép rửa, phúc âm Mác gồm có một số giai đoạn trên đường khai tâm tìm biết Chúa và tin theo Chúa. Ý tưởng dẫn lực cho con đường tìm biết và tin theo nầy có thể được mô tả bằng một lời của Chúa Giêsu nói với các môn đồ của Ngài: "Ðối với các ngươi thì mầu nhiệm Nước Trời sẽ được nói cho biết, còn đối với những người ngoài thì tất cả chỉ được tiết lộ bằng ẩn dụ" (Mác 4:11).

Quả thật, phúc âm Mác cho thấy, từ các ẩn dụ và ngụ ngôn – nghĩa là từ những hình ảnh bên ngoài được dùng để nói về mầu nhiệm Nước Trời – chúng ta có thể đi sâu vào những ý nghĩa bên trong và tìm đến mầu nhiệm Nước Trời được Chúa Giêsu rao giảng. Ðó là những chặng đi của con đường tin Chúa theo phúc âm Mác, điều mà chúng ta sẽ trình bày trong tập sách suy niệm nầy.

Ngoài ra, con đường tin Chúa theo phúc âm Mác còn nhấn mạnh đến một điểm được gọi là "con đường mười hai", nghĩa là "con đường mười hai vị môn đồ đầu tiên" của Chúa. Chúng tôi sẽ quảng diễn thêm về "con đường mười hai" trong phân đoạn tiếp theo đây.

c. Con đường mười hai:

Ðọc phúc âm Mác, chúng ta nhiều lần gặp thấy cụm từ "mười hai". Tất cả có đến mười lần: bảy lần đầu nói rõ con số mười hai, còn ba lần cuối trực tiếp với một ít người nhưng ngụ ý đến cả mười hai vị sứ đồ.

(1). Lần thứ nhất trong đoạn 3: "Ngài bèn lập mười hai người, gọi là sứ đồ, để ở cùng Ngài và sai đi giảng đạo" (3:14); rồi sau hai câu tiếp đó: "Nầy là mười hai sứ đồ Ngài đã lập..." (3:16).

(2). Lần thứ hai trong đoạn 4 tiếp theo: "Khi Chúa Giêsu ở một mình, những kẻ xung quanh Ngài cùng mười hai sứ đồ hỏi Ngài về các lời thí dụ" (4:10).

(3). Lần thứ ba trong đoạn 6: "Ngài bèn kêu mười hai sứ đồ..." (6:7). Ðiều đáng để ý là ở đây, bản văn gốc bằng tiếng hilạp đã dùng cũng cùng một động từ (proskaléitai: kêu gọi) như trong câu Mác 3:13 "Chúa Giêsu lên núi và kêu gọi những người Ngài chọn" (Bản dịch của HTTLVN: "Ngài đòi những người Ngài muốn"). Và trong cùng một mạch văn ở phần cuối của đoạn sáu nầy (6:31), các sứ đồ nhóm lại cùng Chúa Giêsu: Ngài bảo họ hãy lui vào nơi thanh vắng, để cùng Ngài nghỉ ngơi một chút.

(4). Lần thứ tư trong đoạn 9 trong bối cảnh giáo huấn cho các môn đồ: "Ngài kêu mười hai sứ đồ mà phán rằng: Nếu ai muốn làm đầu, thì phải làm rốt hết và làm tôi tớ mọi người" (9:35).

(5). Lần thứ năm trong đoạn 10, khi lần thứ ba tiên báo cuộc khổ nạn và sự phục sinh của Chúa Giêsu: "Ngài đem mười hai sứ đồ riêng ra mà nói cho họ những việc sẽ xảy đến cho mình" (10:32; Bản dịch mới của Hội KTVN, 1996).

(6). Lần thứ sáu trong đoạn 11: "Chúa Giêsu đến Giêrusalem, đi vào đền thờ và quan sát mọi vật chung quanh. Lúc ấy trời đã tối nên Ngài và mười hai môn đệ đi về Bêthani" (11:11). Như thế là sự hiện diện của nhóm mười hai được minh thị nhắc đến trong dịp Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem.

(7). Lần thứ bảy trong đoạn 14, khởi đầu câu chuyện khổ nạn của Chúa Giêsu. Trong đoạn nầy, cụm từ "mười hai" được nhắc đến nhiều lần, bởi vì câu chuyện thương khó trong cả đoạn văn nầy đều mật thiết liên quan đến cả mười hai vị sứ đồ: "Giuđa Iscariôt, một trong nhóm mười hai..." (14:10); "Chiều tối, Ngài đến với nhóm mười hai..." (14:17); "Ngài nói với họ: Một trong mười hai người, kẻ chấm vào cùng đĩa với Ta..." (14:20); Và cuối cùng: "...Giuđa, một trong nhóm mười hai, đến với một toán đông cầm gươm và gậy..." (14:43).

Cụm từ "mười hai" được xử dụng nhiều lần trong phúc âm Mác, được xử dụng một cách đều đặn, hầu như cứ hai đoạn một lần. Từ đoạn ba đến đoạn mười bốn, thánh sử Mác đã tường thuật về con đường của các môn đồ đi dần đến sự hiểu biết về Ðức Chúa Trời, một cách nào đó với sự hiện diện của nhóm mười hai. Từ khi họ được kêu gọi (3:14) cho đến khi Giuđa phản bội (14:10) và tất cả đều chạy trốn (14:50), thì sự hiện diện của nhóm mười hai trong mỗi phân đoạn chính của trình thuật đều được nhấn mạnh và minh thị nói đến. Và như thế, người ta có thể nói rằng: Nhóm mười hai đã theo Chúa Giêsu trên đường đi của Ngài, từ giây phút đầu tiên Ngài công khai xuất hiện cho đến giờ thử thách cuối cùng của đời Ngài.

Như trên đây đã nói, còn ba lần nữa con số mười hai tuy không được minh thị nói ra, nhưng vẫn được ngầm hiểu như thế, khi nói đến một số người trong nhóm mười hai.

(8). Lần thứ tám trong đoạn 1, khi Chúa Giêsu kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên của nhóm mười hai là Simôn, Anrê, Giacơ và Xêbêđê theo Ngài (1:16,20).

(9). Lần thứ chín trong đoạn 8, khi Phêrơ thay mặt cho cả nhóm mười hai, tuyên xưng Ðức Giêsu là Ðấng Christ (8:27-30).

(10). Và lần thứ mười trong đoạn 16, khi Chúa Giêsu kêu gọi nhóm mười hai tập hợp lại tại Galilê sau khi Chúa sống lại (16:7).

Nhìn xuyên suốt cách diễn tả về nhóm mười hai trên đây, người ta có thể thấy được "sợi chỉ đỏ", cái "cấu trúc sứ đồ" của phúc âm Mác, hoặc nữa cũng gọi được là "con đường mười hai" của phúc âm Mác. Mười đoạn nói về "mười hai sứ đồ" nầy là chìa khóa của phúc âm và được phát xuất với câu dẫn nhập: "Ngài đặt ra mười hai người, để họ ở cùng Ngài..." (3:14). Tất cả sinh mệnh của mười hai vị sứ đồ được bắt đầu với khoảnh khắc nầy: được "ở cùng Ngài". Còn lại tất cả những điều gì khác chỉ là sự đào sâu ý nghĩa việc được "ở cùng Ngài", được trở nên "bạn hữu chí tình thiết nghĩa của Chúa Giêsu".

Mười đoạn phúc âm trên đây vạch ra "con đường mười hai", con đường mà mười hai vị sứ đồ được kêu gọi đến "ở cùng Chúa Giêsu", đến để tìm hiểu và tin nhận "mầu nhiệm Nước Trời": "Ðối với các ngươi, thì mầu nhiệm Nước Trời được nói cho biết" (4:11). Ở cùng Chúa Giêsu, nhờ Ngài mà đón nhận được Nước Ðức Chúa Trời, cả hai cách nói nầy đều diễn tả cho biết: sứ đồ là ai,con đường các sứ đồ đi là như thế nào.

Chúng ta, những người tin Chúa ngày hôm nay, là những kẻ dấn bước lên "con đường mười hai", nối gót các sứ đồ bước theo chân Thầy và Chúa Giêsu, được Ngài kêu gọi đến "ở cùng Ngài": tìm hiểu, sám hối và tin theo Ngài. Xuyên qua phúc âm Mác, chúng ta sẽ tìm hiểu "con đường tin nhận" Chúa nầy là gì. Chúng ta sẽ đặt mình vào địa vị của nhóm mười hai và tự đặt những câu hỏi:

*Việc mở rộng lòng đón nhận Chúa đòi hỏi mười hai sứ đồ đã phải có những tâm tình và những điều kiện nào?

*Chúa Giêsu đã tìm thấy tâm trạng của mười hai vị sứ đồ ra sao?

*Con đường sứ đồ nầy đòi hỏi niềm tin như thế nào, bước đi ra sao, cùng với những thử thách nào trên đường đức tin nầy?

*Việc khải thị Nước Ðức Chúa Trời đã được diễn tả ra sao, để không những được hiểu được biết, mà còn được làm được thực hiện Nước Chúa trong chính cuộc sống. Ðược "ở cùng Chúa" có nghĩa gì?

Ðó là "con đường sứ đồ" mà ta nay dấn bước đi theo.

d. Ðọc và suy niệm phúc âm theo truyền thống linh đạo cơ đốc:

Truyền thống linh đạo hai ngàn năm của Cơđốcgiáo/Kitôgiáo đã từng đọc và suy niệm phúc âm trên nền tảng lời dạy của Chúa Giêsu, và trong khải tượng thực hiện Nước Ðức Chúa Trời.

Ignaxiô Loyola (1491-1556) nói rõ: tất cả cơ sở, ý nghĩa và viễn ảnh của cuộc sống con người là vinh quang của Ðức Chúa Trời:ngưỡng mộ, tôn cadâng mình phục vụ Chúa, Ðấng tuyệt đối và vô cùng cao cả. Trước khải tượng lớn lao như thế, con người sẽ biết nhìn nhận kế đồ huyền nhiệm đầy yêu thương và thành tín của Ðức Chúa Trời trong tạo thành và lịch sử, và từ đây biết chấp nhận tất cả mọi biến sự Ngài gửi đến một cách tin yêu và thanh thản: khỏe mạnh hay đau yếu, giàu có hay bần cùng, danh giá hay ô nhục, sống lâu hay chết sớm. Ðiều độc nhất người tin Chúa tìm kiếm, chọn lựa và quyết tâm thực hiện là những gì dẫn đưa mình đến mục đích cuối cùng của cuộc sống là vinh quang của Ðức Chúa Trời.

e. Cấu trúc một bài suy niệm Lời Chúa:

Ðọc và suy niệm Phúc Âm cần được đặt trong bối cảnh tìm vinh quang của Ðức Chúa Trời. Phát xuất từ Lời Chúa là nền tảng cho cuộc sống, suy ngắm Lời Chúa là ánh sáng và sức mạnh cho sự sống, và kết thúc Lời Chúa bằng những hành động cụ thể và thích ứng để thể hiện khải tượng vinh quang của Ðức Chúa Trời mà mình được dự phần.

Sau đây là một vài đề nghị cho ba giai đoạn (A) chuẩn bị, (B) đọc và suy niệm Kinh Thánh, (C) kết thúc một buổi suy niệm như được trình bày trong tập sách nầy. Dĩ nhiên tín nhân tu tập cần xử dụng những đề nghị nầy một cách sáng tạo, bằng cách tìm ra những lời nguyện và những điều thực hành thích ứng với hoàn cảnh sinh sống của mình. Dẫu sao, khải tượng cuộc sống đức tin vẫn cần được nhắc đi và lặp lại ở phần khai nguyện và phần kết nguyện.

A. Chuẩn bị và khai nguyện:

1. Tĩnh lặng - Tập trung - Ý thức:

Ra mắt trước mặt Chúa, con người cần giữ một thái độ cung kính, nhưng đồng thời vẫn an nhiên thanh thản. Nhờ thái độ an nhiên thoải mái nầy mà ta có thể dễ dàng tập trung, cầu nguyện lâu giờ, và cơ thể giữ được sự lành mạnh. Ðể giữ được thái độ an nhiên thanh thản, chúng ta cần để ý cách ngồi, cách đặt chân để tay, cách giữ mắt giữ tai, cách điều hoà và theo dõi hơi thở...

2. Nhắc nhở lại khải tượng cuộc sống đức tin:

"Con người được dựng nên,

để ngưỡng mộ, kính tôn

dâng mình phục vụ

Ðức Chúa Trời Ðấng cao cả,

cho thành toàn cuộc sống

và cứu rỗi mọi người".

B. Ðọc và suy niệm Kinh Thánh:

1. Ðọc Tin Lành: Ðọc đoạn Sách Thánh đã chọn một cách chậm rãi, nhiều lần, kèm với lời nguyện xin Chúa mở lòng để hiểu được Lời Chúa và khám phá ra được những điều Chúa muốn chỉ dạy.

2. Dẫn giải và suy niệm: (như đã được trình bày trong tập sách nầy).

C. Kết thúc và kết nguyện:

1. Ðiều thực hành: Suy nghiệm Lời Chúa cần đưa đến việc thể hiện Lời Ngài bằng những thực hành cụ thể và thích ứng. Có thể lấy điều thực hành được đề nghị ở đây, hoặc tìm một điều thực hành nào khác thích hợp hơn.

2. Lời kết nguyện: diễn tả yêu thương và dâng hiến, bằng cách nhìn thấy "Ðức Chúa Trời là tất cả trong tất cả" (1 Cor 15:28), nhất là trong Ðấng Christ: Ðấng vừa là diễn tả tình yêu thương và thành tín của Ðức Chúa Trời đối với con người, đồng thời cũng là diễn tả tình mến thương và dâng hiến của con người đối với Chúa (xem: Philip 2:5-11):

"Tạo thành và cứu rỗi,

Tất cả vì tôi và cho tôi.

Tình Ngài thẳm sâu khiêm hạ nơi Ðấng Christ,

Tình tôi như Ðấng Christ vực lên từ sâu thẳm".

f. Nguyên tác và biên soạn:

Những suy nghĩ về phúc âm Mác như con đường tin theo Chúa đã được Carlo M. Martini (s.1927) trình bày và xuất bản trong nhiều nơi và qua nhiều hoàn cảnh, với mục đích tìm hiểu lời Ðức Chúa Trời và chấn hưng cuộc sống linh đạo của tín hữu. C.M. Martini là một nhà giải kinh, nhà thần học và là mục tử của hội thánh thành Milanô nước Ý có nhiều ảnh hưởng trên thế giới. Nguyên tác tổng hợp cuối cùng mang tên: L'itinerario spirituale dei Dodici nel Vangelo di Marco (Roma, 1981); bản tiếng Ðức: Und sie gingen mit Ihm – Der Weg des Christen nach dem Markusevangelium (Freiburg-Basel-Wien, 1983).

Những suy tư của C.M. Martini đã được phát triển dựa trên những nghiên cứu Kinh Thánh và thần học có tính khoa học, nhưng đồng thời lại được diễn xuất trong một ngữ cảnh linh đạo và mục vụ cụ thể riêng biệt. Do đó, chúng tôi nghĩ sẽ thích hợp và có hiệu quả hơn, nếu những tư tưởng nầy được suy nghĩ và diễn tả lại cho thích ứng với văn cảnh linh đạo và mục vụ của các hội thánh ở Việt Nam. Ðó là công việc "biên soạn" mà chúng tôi xin đảm nhận.

g. Một số từ ngữ tiếng việt:

Có một số từ ngữ Kinh Thánh và thần học tiếng việt đã được chuyển âm từ các bản dịch tiếng Anh, Pháp hay Trung Quốc, thay vì từ các nguyên tự hilạp hoặc latinh. Tỉ như từ cơđốc, Cơđốc giáo, Mathiơ, Giăng, Jêsus, Christ, Mari, phép baptem... Trong tập sách nầy, chúng tôi xin phép được dùng một số từ ngữ dựa trên tiêu chuẩn chuyển ngữ từ nguyên tự, nhưng đồng thời cũng phần nào tôn trọng những tập quán đã quá in sâu trong các hội thánh. Vậy nếu đây đó có những từ ngữ ít quen thuộc, thì chúng tôi ước mong các con cái Chúa rộng lòng bao dung bỏ qua cho, để chỉ nhìn đến những nội dung và những thực tại ở phía sau các từ ngữ, và đó là điều căn bản và thiết yếu.

Ngoài ra, chúng tôi phần lớn cũng sẽ viết chữ thường thay vì chữ hoa một số từ địa danh, tên riêng, tên dân tộc, khi những từ nầy được dùng như tĩnh từ  (không phải như danh từ).


Bài Một:



Mầu nhiệm Ðức Chúa Trời


A.    Chuẩn bị và khai nguyện:

1. Tĩnh lặng – Tập trung – Ý thức

2. Nhắc nhở lại khải tượng cuộc sống đức tin (xem Dẫn Nhập).

B.    Ðọc Tin Lành và Suy niệm:

* Dẫn vào vấn đề:

Việc nhắc nhở lại khải tượng cuộc sống đức tin trong phần khai nguyện trên đây giúp gầy tạo trong ta thái độ phó thác và dâng hiến cho mầu nhiệm Ðức Chúa Trời, để Ngài xử dụng chúng ta tùy theo ý định, chương trình và kế hoạch của Ngài. Phúc âm Mác sẽ là con đường giúp ta tìm hiểu và thực hiện thái độ phó thác và dâng hiến nầy.

Bước đi đầu tiên trong phúc âm Mác nói về mầu nhiệm Ðức Chúa Trời. Nhưng để đi tới mầu nhiệm Ðức Chúa Trời, ta cần có trước tiên cái "khứu giác cảm nhận" Chúa. Cái khứu giác cảm nhận Chúa là gì và làm cách nào để có được cái khứu giác đó?

Ðọc phúc âm Mác, ta sớm nhận ra rằng, Mác ít nói về Ðức Chúa Trời. Mác không đưa ra những giáo lý căn bản như trong chương sáu Mathiơ nói về Chúa quan phòng, về kinh Lạy Cha, những điều có thể mở ra cả một thiên giáo lý rộng lớn về Ðức Chúa Trời.

Nếu nhìn về số lượng nói về tên Chúa - vẫn biết ta phải rất dè dặt khi nói về số lượng - thì Mác dùng tên Chúa 37 lần, Mathiơ dùng 46 lần, còn Luca dùng đến 106 lần. Như thế nghĩa là khác với phúc âm cho tín đồ và người truyền đạo (Mathiơ) và phúc âm cho các giảng sư (Luca), phúc âm cho người dự tòng (Mác) đã rất dè dặt khi nói đến tên Ðức Chúa Trời.

Còn nói về danh xưng "Cha", thì ta cũng thấy một tình trạng tương tự như thế. Mác dùng danh xưng "Cha" chỉ có 7 lần, trong đó có 5 lần chỉ về Ðức Chúa Trời, trong khi Giăng lại dùng đến 100 lần và tất cả đều chỉ về Ðức Chúa Trời. Như thế nghĩa là giáo lý về "Cha" được dùng cách riêng trong giáo huấn dành cho các trưởng lão và những người thâm đạo (Giăng), và được đặt nhẹ đi trong giáo huấn đối với người dự tòng (Mác).
Tại sao lại có sự dè dặt khi nói về Ðức Chúa Trời như thế trong phúc âm Mác? Ðể trả lời cho câu hỏi nầy, ta sẽ phải tự đặt mình vào hoàn cảnh của những người dự tòng trong giáo hội sơ khởi.

Những người dự tòng thời giáo hội sơ khởi – nhất là những người được phúc âm Mác viết riêng cho, nghĩa là những người phần lớn đến từ thế giới lương dân – là những người từ trong gia đình đã rất sùng đạo. Ðối với họ thì không phải là một điều gì lạ lùng, khi nghĩ về Thượng Ðế, nói về Thượng Ðế, hoặc kêu tên Thượng Ðế. Sứ đồ Phaolô nói rất đúng, khi ông bàn về người ngoại: "Dẫu cho có nhiều thần nhiều chúa trên trời hay dưới đất – và những thần những chúa đó có nhiều – nhưng đối với chúng ta, thì chỉ có một Ðức Chúa Trời là Cha... " (1 Cor 8:5).

Nhận xét trên đây rất đúng, chính Phaolô khi đến thành Athen đã gặp thấy khắp nơi đầy dẫy những hình tượng các thần các chúa, và ông đã gọi dân thành Athen là những người đầy lòng sùng đạo và mê tín. Sự mê tín và sùng đạo nầy được thấy rõ qua việc đã xẩy ra tại Êphêsô và đã được thuật lại trong Công Vụ các Sứ Ðồ (19:18t): nhiều người trong số các tân tín đồ đã mang đến những sách ma thuật và đem đốt đi. Tổng trị giá các sách nầy lên đến năm ngàn đồng tiền bạc, và mỗi đồng bạc là tiền một ngày công thời bấy giờ.

Sự việc trên đây cho thấy, sùng đạo và mê tín là điều rất phổ biến trong thế giới vào thời các sứ đồ, và người dự tòng là những kẻ đã từng quen nghe, quen gọi đến tên các thần các chúa. Vậy vấn đề ưu tiên không phải là giúp họ có được cái khứu giác cảm xúc về Chúa, bởi điều đó đã quá quen thuộc đối với họ và từng được giải bày khắp nơi trong mọi hiện tượng, nhưng là giúp họ nhìn ra và khử trừ được cái lòng sùng đạo mê tín và sai lầm.

Ngoài ra, chúng ta cũng có thể đặt câu hỏi: hoàn cảnh vô tín của xã hội chúng ta ngày hôm nay có đồi tệ hơn hoàn cảnh mê tín thời các sứ đồ ngày xưa không? Cũng có thể vào thời đại vô thần lại dễ trình bày về Ðức Chúa Trời là chân thần, hơn là vào thời đại mê tín, trong đó nói về Chúa lại có thể dễ dàng bị hiểu lầm, hiểu sai, hiểu trái ngược lại.

Phúc âm Mác đã được viết ra vào một thời điểm cần có sự dè dặt khi nói về Chúa cho những người dự tòng, bởi họ có thể hiểu lầm, hiểu sai. Nhưng ta hãy trở lại vấn đề căn bản với việc tìm hiểu, phúc âm Mác hiểu gì và trình bày như thế nào, khi gọi tên Ðức Chúa Trời và khi nói về mầu nhiệm Ðức Chúa Trời.
Giáo lý về Ðức Chúa Trời cho người dự tòng vào thời đầu giáo hội phần lớn dựa trên Kinh Thánh Cựu Ước, và nhất là Thi Thiên. Quả thật Thi Thiên là tập sách khai mở ra cho người dự tòng cái khứu giác cảm xúc về Ðức Chúa Trời; cũng vì thế mà hội thánh sơ thủy – phần lớn là những tín đồ gốc lương dân – đã thường đọc Thi Thiên và thuộc nằm lòng từng mỗi Thi Thiên. Bằng chứng là có nhiều trích dẫn trong các kinh sách Tân Ước –những văn thư được các sứ đồ viết riêng cho các cộng đoàn hội thánh – điều không thể hiểu được, nếu tín đồ đã không thường đọc và cầu nguyện với Thi Thiên.

Ðiều ghi nhận nầy rất quan trọng: Người dự tòng đã có được cái khứu giác cảm xúc về Ðức Chúa Trời nhờ học hỏi với Thi Thiên. Ðó cũng là điều chúng ta chủ trương học tập trong các buổi suy niệm như bây giờ. Nhờ cầu nguyện với Thi Thiên, chúng ta tập mình có được cái khứu giác cảm xúc về Ðức Chúa Trời một cách sâu xa, sâu xa hơn cả những bài thuyết trình giảng dạy về Ðức Chúa Trời. Ðiều nầy cũng đã từng được thực hành trong truyền thống linh đạo cơđốc/kitô (x. Ignaxiô Loyola: Linh Thao, số 20).

Qua những câu nói vắn tắt và dè dặt của phúc âm Mác, chúng ta sẽ tìm cho ra cái khứu giác cảm xúc về Ðức Chúa Trời, điều mà Mác đã muốn chuyển đạt cho những người dự tòng của giáo hội, và còn hơn nữa là tìm đến cái khứu giác cảm xúc đặc biệt về Ðức Chúa Trời mà chính Chúa Giêsu đã bày tỏ ra qua chính mình Ngài cho mười hai sứ đồ.

Chúng ta trước hết sẽ nghiệm qua những đoạn văn chính của Mác – chừng 15 đoạn – trong đó được nói trực tiếp hoặc gián tiếp về Ðức Chúa Trời. Những đoạn văn đó sẽ nói cho chúng ta biết những quan niệm và những đặc điểm về Ðức Chúa Trời mà Mác muốn chuyển đạt cho người dự tòng, cũng như sẽ nói cho chúng ta hay mối tình nghĩa thâm sâu gắn bó với Chúa Giêsu, điều đặc biệt để chỉ "con đường mười hai sứ đồ".

Những đoạn văn trên đây được phân chia thành bốn mục: (a) những đoạn văn mở đầu nói lên những khía cạnh căn bản, (b) những chỉ dẫn giải thích, (c) những chủ đề Kinh Thánh, (d) và sau cùng là những khải thị về mầu nhiệm Ðức Chúa Trời.

a) Những đoạn văn mở đầu (Mc 1:2; 1:3; 1:10-11):

"Nầy, Ta sai sứ Ta đến trước mặt ngươi,

Người sẽ dọn đường cho ngươi..." (Mc 1:2).

"Hãy dọn đường Chúa,

san bằng các nẻo Ngài" (Mc 1:3).

"Vừa khi lên khỏi nước, Ngài thấy các tầng trời mở ra, và Ðức Thánh Linh ngự xuống trên mình Ngài như chim bồ câu. Lại có tiếng từ trên trời phán rằng: Ngươi là Con yêu dấu của Ta, đẹp lòng Ta mọi đàng" (Mc 1:10-11).

Ta phải hiểu thế nào về những câu trên đây?

Ðức Chúa Trời là ai?

Ðức Chúa Trời là Ðấng khởi xướng một sự bắt đầu mang đầy nhiệm lạ: "Nầy, Ta sai sứ Ta đến trước mặt ngươi" (1:2). Tên Ngài không được nói ra, nhưng ta cảm thấy có sự hiện diện huyền bí của Ngài đang sắp xếp một công cuộc gì đây, một điều gì sắp sửa xẩy ra, Ðức Chúa Trời đang trên đường đến với chúng ta. "Hãy dọn đường Chúa, san bằng các nẻo Ngài" (1:3): Ðức Chúa Trời là Ðấng đi đến với con người. Lời chỉ dẫn rõ ràng, nhưng đồng thời cũng đầy huyền bí về Ðức Chúa Trời là Ðấng đi đến với con người, Ðấng tự Ngài lấy sáng kiến và quyết định đến với con người. Ý tưởng nầy được lặp lại: "Ngài thấy các tầng trời mở ra..." (1:10), nghĩa là Ðức Chúa Trời là "Cha các ngươi ở trên trời" (11:25), là Ðấng giờ phút nầy có mặt với chúng ta, làm cho chúng ta cảm nghiệm được Ngài, và từ trời nhìn xuống và bước xuống để đích thân bắt gặp chúng ta.

Và Ngài bắt gặp chúng ta như thế nào?

Câu trả lời là: Qua "Con yêu dấu" của Ngài (1:11), nghĩa là nơi Con như hình ảnh tiên trưng, nơi Con mà ta biết được mầu nhiệm Ðức Chúa Trời, mầu nhiệm mà bình thường không ai tài nào biết được, hiểu được.

Và như thế, Ðức Chúa Trời tự Ngài là một mầu nhiệm huyền bí không ai thấu hiểu, nay vào một thời điểm nhất định đã khởi xướng một sự bắt đầu huyền nhiệm, đó là bắt đầu đi đến với con người, đến gần chúng ta và lay động chúng ta. Chừng đó xem ra chẳng là bao, nhưng chừng đó cũng đã nói lên tất cả những gì mà một khứu giác cảm xúc về Ðức Chúa Trời có thể cho ta được ước mong, chờ đợi và chuẩn bị đón tiếp Ngài.

Vậy cho người dự tòng tin nhận Chúa, Mác không nói ngay rằng: Ðức Chúa Trời đây, Ngài là thế nầy, Ngài là thế kia; nghĩa là ông không nói Ðức Chúa Trời là ai. Thánh sử Mác chỉ gợi lên cho biết, Ðức Chúa Trời là Ðấng đích thân đến với con người như một vị khách, một người thân, và Ngài cũng mang đến cho con người một đề án, một kế hoạch tích cực và đầy ý nghĩa mà con người có thể đón nhận, mặc dầu chưa nắm được tất cả mọi chi tiết.

b. Những chỉ dẫn giải thích (Mc 1:14; 1:15; 1:35; 2:7):

"Sau khi Giăng bị tù, Chúa Giêsu đến xứ Galilê,

giảng Tin Lành của Ðức Chúa Trời" (Mc 1:14).

"Thời kỳ đã trọn,

Nước Ðức Chúa Trời đã đến gần" (Mc 1:15).

"Sáng sớm, khi trời còn mờ tối,

Ngài chỗi dậy, đi ra một nơi vắng vẻ,

và cầu nguyện ở đó" (Mc 1:35).

"Ai có quyền tha tội,

ngoài một mình Ðức Chúa Trời?" (Mc 2:7)

Chúng ta nay biết thêm rằng, Ðức Chúa Trời là Chúa của một Tin Lành: "Chúa Giêsu đến xứ Galilê, Ngài giảng dạy Tin Lành của Ðức Chúa Trời" (1:14). Và Ngài cũng là Chúa của một Quốc Vương: "Thời kỳ đã trọn, Nước Ðức Chúa Trời đã đến gần" (1:15).

Chúng ta phải hiểu thế nào về hai điều chỉ dẫn trên đây?

Ðức Chúa Trời của Tin Lành, nghĩa là Ðấng mang đến cho ta một thông tin tốt, có thể thay đổi tình trạng và cuộc sống của chúng ta. Ðức Chúa Trời của một Vương Quốc, nghĩa là Ðấng đến với chúng ta và thiết lập lại trật tự cho mọi sự một cách lạ lùng. Ðức Chúa Trời bước vào đời sống của chúng ta với một thông tin kỳ diệu, với một tin tức quá đỗi vui mầng: Ngài đến để thiết lập lại trật tự cho đời sống của chúng ta.

Và như thế, thái độ của kẻ chưa biết rõ điều Chúa muốn là gì, nhưng lại được chuẩn bị tinh thần với tâm trạng hoàn toàn tin cậy, để đón nhận một điều gì mới lạ và vô cùng kỳ diệu xẩy đến cho tâm hồn mình.
Còn một chỉ dẫn vô cùng kỳ diệu nữa được diễn tả trong câu sau đây: "Sáng sớm, khi trời còn mờ tối, Ngài chỗi dậy, đi ra một nơi vắng vẻ, và cầu nguyện ở đó" (1:35). Ở đây, Ðức Chúa Trời tỏ mình là Ðấng được Chúa Giêsu cầu nguyện. Chúa Giêsu vừa rồi đây đã được nhìn nhận là Con, là hình ảnh tiên trưng, là kẻ mách bảo cho biết về Ðức Chúa Trời, thì nay lại cho thấy Ngài có một quan hệ thân tình huyền nhiệm với Ðức Chúa Trời. Còn chúng ta, tuy chưa được biết nhiều về Ðức Chúa Trời, nhưng cũng cảm thấy được chúng ta đang ở trong một bầu khí tôn nghiêm, trông chờ và nghe ngóng trước cảnh huyền bí của Ðức Chúa Trời được tỏ hiện nơi Ðức Giêsu.

Thế rồi trong khung cảnh của việc chữa lành cho một người bất toại được thuật lại trong đoạn hai tiếp theo, một câu hỏi được đặt ra: "Ai có quyền tha tội, nếu không phải là Ðức Chúa Trời?" (2:7). Ðó là vấn nạn của những người thù nghịch, nhưng vấn nạn đó cũng cho ta biết được rằng, chỉ có một mình Ðức Chúa Trời mới là Ðấng có phép tha tội. Và như thế, vấn nạn và ý tưởng tha tội lại đánh thức dậy trong ta ý nghĩ về những lỗi lầm và về việc tha thứ. Ðức Chúa Trời đến với chúng ta, Ngài có phép tha tội cho chúng ta, và con người phải biết mở lòng ra với Ngài và đón nhận sự tha thứ từ nơi Ngài.

Nguyên với một vài chỉ dẫn trên đây, chúng ta cũng thấy được rằng, cái não trạng lương dân có một thái độ trái ngược. Ðối với não trạng lương dân, thì "Chúa" là kẻ phục dịch loài người; con người tìm cách chiếm đoạt lấy các thần các chúa, bằng cách cầu kinh cúng bái, để nhận được những điều mình mong muốn. Các thần, các chúa đối với họ là những sức lực thánh thiêng mà con người tìm cách lấy lòng và lèo lái theo ý mình.

Còn nay với Tin Lành của Ðức Chúa Trời được tỏ bày nơi Ðức Giêsu, con người được đặt vào trong một thái độ nghe ngóng, tiếp nhận, chờ đợi, tôn kính và tin cậy trước mầu nhiệm một Ðức Chúa Trời cao cả, nhưng đồng thời lại thân gần và yêu thương, đích thân đến với con người để thiết lập lại trật tự trong con người và cho mọi sự.

Ðó là một số điều căn bản về mầu nhiệm Ðức Chúa Trời được diễn tả trong đoạn đầu phúc âm Mác. Từ đoạn hai trở đi, Mác sẽ còn ít nói về Ðức Chúa Trời hơn nữa, bởi từ đây chính Chúa Giêsu ra tay hành động và tỏ bày mầu nhiệm Ðức Chúa Trời nơi chính bản thân Ngài. Vậy nay một khi con người tin yêu phó thác sinh mệnh mình cho Ðức Chúa Trời, thì do đó cũng đặt để mình trong tay Ðức Giêsu là Con Ðức Chúa Trời. Từ đây được bắt đầu con đường nối gót theo chân Ðức Giêsu, nhờ đó ta được thoát mình khỏi những quan niệm lầm lạc về các thần các chúa, để tiếp nhận được sự hiểu biết chân thực và chính xác về Ðức Chúa Trời.

c). Những chủ đề Kinh Thánh (Mc 1:18; 11:22; 12:30; 13:19):

"Chỉ có một Ðấng nhân lành,

là Ðức Chúa Trời" (Mc 10:18).

"Ngươi phải hết lòng, hết linh hồn,

hết trí khôn, hết sức mà kính mến Chúa

là Ðức Chúa Trời ngươi" (Mc 12:30).

"Hãy tin vào Ðức Chúa Trời" (Mc 11:22).

"Từ lúc khởi đầu

khi Ðức Chúa Trời tạo dựng trời đất" (Mc 13:19).

Trong những đoạn 10, 11, 12 và 13, còn có bốn câu nói về Ðức Chúa Trời, đó là những câu nhắc đến những tư tưởng đã từng được nói đến trong Kinh Thánh Cựu Ước. Ðiều nầy cho thấy, phúc âm Mác đã xử dụng những đề tài lớn trong Kinh Thánh để giảng dạy về giáo lý "Ðức Chúa Trời của Ðức Giêsu Chúa chúng ta".

Bốn câu cơ bản tham chiếu đến Kinh Thánh Cựu Ước đó là gì?

Trong câu chuyện "Người trai trẻ giàu có" được thuật lại trong đoạn 10, khi chàng trai thưa với Chúa Giêsu gọi Ngài là "Ðấng nhân lành", thì Ngài đã nói: "Chỉ có một Ðấng nhân lành, là Ðức Chúa Trời" (10:18). Câu nói của Chúa Giêsu đã khải thị cho người dự tòng và chúng ta tất cả được biết Ðức Chúa Trời là ai: Ngài là Ðấng nhân lành, chỉ một mình Ngài là Ðấng nhân lành, và con người chúng ta phải biết ngưỡng mộ, kính tôn và yêu mến "hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức" mình, như câu 30 trong đoạn 12 tiếp đó đã nói tới.   

Lại một câu trong Kinh Thánh Cựu Ước đã được lấy làm giáo huấn: đó là đòi hỏi phải "tin vào Ðức Chúa Trời" (11:22). Lời dạy nầy của Chúa Giêsu được nói ra trong bối cảnh, lời chúc dữ của Ngài trên cây vả không trái bị chết khô đã ứng nghiệm, và lời khẳng định của Ngài cho những ai có lòng tin thì có thể khiến đến cả núi đồi cũng di dời được xuống sông biển (11:11-25). Bản văn gốc bằng tiếng hilạp "échete pístin Theou" còn cho thấy ý nghĩa sâu đậm hơn nữa: Ðức Chúa Trời là Ðấng đáng được tin cậy, là Ðấng mà con người có thể tin cậy. Và trong bối cảnh chuẩn bị cho người dự tòng chịu phép rửa, lời dạy phải biết tin vào Chúa muốn khẩn khoản nói lên rằng: Anh em hãy gieo mình vào mầu nhiệm Ðức Chúa Trời, Ngài sẽ tác động trong anh em, không phải như anh em muốn, nhưng như chính Ngài muốn. Nghĩa là anh em hãy hoàn toàn trao mình cho Ngài xử dụng theo nhiệm ý của Ngài.

Một câu thứ tư tham chiếu Kinh Thánh Cựu Ước nói một cách gián tiếp đến Ðức Chúa Trời là Ðấng tạo dựng trời đất: "Từ lúc khởi đầu, khi Ðức Chúa Trời tạo dựng trời đất..." (13:19).

Ðức Chúa Trời, Ðấng độc nhất nhân lành và thành tín, Ðấng tạo thành trời đất vạn vật, Ðấng là thực tại tối cao và tối hậu, Ðấng mà con người phải hết lòng tôn kính mến yêu, đó là những chủ đề lớn và cơ bản của Kinh Thánh Cựu Ước, những chủ đề thường xuyên được giảng dạy, chiêm ngắm và cảm nghiệm trong hội thánh sơ khởi. Quả thực, thánh sử Mác đã để lại cho chúng ta một mô hình giáo huấn quan trọng về những quan niệm và giá trị căn bản của tôn giáo. Trong xã hội thế tục hóa của chúng ta ngày hôm nay, có lẽ những quan niệm và giá trị trên đây đã bị loại bỏ. Nhưng chúng vẫn luôn là những quan niệm và giá trị cơ bản của Tin Lành: tin vào Ðức Chúa Trời là Ðấng độc nhất nhân lành và thành tín, là Ðấng đang đến, là Ðấng đang lấy sáng kiến thiết lập lại trật tự trong đời ta và trong thế giới trở thành Vương Quốc của Ngài, là Ðấng đáng tin cậy và ta có thể tin cậy, là Ðấng qua Ðức Giêsu đang dẫn dắt đời ta với đầy yêu thương và bằng một cách vô cùng nhiệm lạ.

d). Những khải thị (Mc 14:36; 15:34):

"Abba, lạy Cha,

mọi việc Cha làm được cả;

Xin Cha cất chén nầy khỏi con;

Nhưng đừng theo điều con muốn,

mà theo điều Cha muốn"  (Mc 14:36).

"Ðức Chúa Trời tôi ơi, Ðức Chúa Trời tôi ơi,

Sao Ngài lìa bỏ tôi?"  (Mc 15:34).
Hai câu cuối cùng mang một ý nghĩa cơ bản và nói lên trong phúc âm Mác một cách rõ ràng, Ðức Chúa Trời là ai.

Trong vườn Ghếtsêmani, Chúa Giêsu đã cầu nguyện: "Abba, lạy Cha, mọi việc Cha làm được cả; Xin Cha cất chén nầy khỏi con; Nhưng đừng theo điều con muốn, mà theo điều Cha muốn" (14:36). Ðức Chúa Trời là ai, Ðấng mà lời cầu nguyện của Chúa Giêsu đã bày tỏ ra? Ngài là Ðấng làm được tất cả mọi sự – đó là một tư tưởng nòng cốt trong Kinh Thánh Cựu Ước - , là Ðấng có thể cất đi chén đắng, nhưng Ngài thực sự lại không làm. Như thế có nghĩa, Ðức Chúa Trời là Ðấng mà con người phải hoàn toàn và trọn vẹn trao phó sinh mệnh mình, bởi Ngài có trọn quyền xử dụng con người như Ngài muốn và có trọn quyền dẫn dắt con người một cách nhiệm lạ như Ngài nghĩ, giống như Ngài đã xử dụng và dẫn dắt Chúa Giêsu vậy.

Người dự tòng tin nhận Chúa do đó được mời gọi, phải loại bỏ đi những quan niệm tiền chế của con người về Ðức Chúa Trời, những quan niệm về một Ðức Chúa Trời mà con người có thể lèo lái chi phối theo ý muốn của mình, miễn là biết cầu kinh cúng bái. Ngược lại, phải biết đón nhận quan niệm về một Ðức Chúa Trời, Ðấng hành động một cách nhiệm lạ và dẫn dắt con người một cách đầy nhân hậu, Ðấng dẫn đưa con người đến nơi Ngài muốn, theo chương trình giải cứu của Phúc Âm, điều thường lại gây rất nhiều bất ngờ và xáo trộn trong cuộc sống của con người.
Câu cuối cùng trong phúc âm Mác nói về Ðức Chúa Trời là câu  bi thảm nhất. Chúa Giêsu trên cây thập tự giá đã kêu lên: "Ðức Chúa Trời tôi ơi, Ðức Chúa Trời tôi ơi, Sao Ngài lìa bỏ tôi?" (15:34). Làm sao có thể như thế được, làm sao những câu nói ít ỏi trong phúc âm Mác về mầu nhiệm Ðức Chúa Trời lại có thể dừng lại ở đây? Bởi vì đây là tột đỉnh mạc khải của Ðức Chúa Trời cho con người: Ðức Chúa Trời của Phúc Âm, Ðấng có thể làm hết mọi sự, Ðấng nắm tất cả mọi sự trong tay, Ðấng mà con người phải hoàn toàn và trọn vẹn trao phó sinh mệnh mình, Ðức Chúa Trời ấy không bắt buộc phải làm những gì con người chúng ta chờ đợi nơi Ngài. Ngài cũng có thể bên ngoài bỏ rơi ta, như Ngài đã bỏ rơi Chúa Giêsu. Dĩ nhiên trong câu than thở của Chúa Giêsu, người ta vẫn cảm nhận được một chút dấu vết hy vọng, nhưng chúng ta cũng đừng quên rằng, đó là những lời hoàn toàn xóa bỏ mình và triệt để phó thác dâng hiến. Ðức Chúa Trời đã để Chúa Giêsu một mình trong đau thương khủng khiếp, trong phiền muộn không chút an ủi, trong ruồng bỏ bởi mọi người, dường như mãi mãi không còn được đếm kể đến nữa.
Người dự tòng tin nhận Chúa được kêu mời suy nghĩ thật chín chắn: Hãy coi chừng; con đường mà bạn sắp dấn bước không phải là một con đường dễ dãi, không phải là con đường được Ðức Chúa Trời bảo đảm từ thành công nầy đến thành công nọ, như bạn tưởng nghĩ hay ước mong. Ðúng hơn, bạn bước đi dưới bàn tay hướng dẫn của một Ðức Chúa Trời nhiệm lạ, Ngài là Ðấng nhân hậu, Ngài có những dự trù tốt nhất cho bạn, nhưng không phải như bạn nghĩ.

Ở đây là vấn đề hoàn toàn và trọn vẹn trao gửi phó thác cho Ðức Chúa Trời xử dụng chúng ta theo ý muốn, chương trình và kế hoạch của Ngài, điều mà truyền thống linh đạo cơđốc/kitô gọi là "chấp nhận mầu nhiệm Ðức Chúa Trời" (x. Ignaxiô Loyola: Linh Thao, số 5). Ðiều mà Chúa Giêsu đã nói với Phêrơ: "Người ta sẽ dẫn ngươi đi, đến nơi mà ngươi không muốn" (Giăng 21:18). Nghĩa là, hoàn toàn và trọn vẹn trao gửi phó thác sinh mệnh mình cho "Mầu Nhiệm Ðức Chúa Trời" với tất cả mọi bất ngờ, mà Ngài trong mỗi giây phút, trong mỗi hoàn cảnh và trong mỗi độ tuổi sinh sống đã sắp đặt cho chúng ta.

C. Kết thúc và kết nguyện:

1. Ðiều thực hành: Mỗi người sẽ trầm lặng ra mắt trước mặt Ðức Chúa Trời, xét mình và tự hỏi, tôi đã đón nhận "mầu nhiệm Ðức Chúa Trời" như thế nào? Có phải tôi đã trao gửi phó thác sinh mệnh đời tôi cho Chúa, để Ngài xử dụng tôi hoàn toàn theo ý Ngài, cho Vương Quyền của Ngài, hay tôi còn dè dặt, bớt xén, dành giữ lại một phần đời tôi theo ý riêng tôi? Trước những đau khổ, những khó khăn, những nghi kỵ, những hiểu lầm, những chê bai, những ruồng bỏ, những thất bại... tôi có tin cậy phó thác, như Chúa Giêsu trong vườn Ghếtsêmani và trên cây thập tự giá, với lời cầu nguyện: "Xin Cha cất chén nầy khỏi con; Nhưng đừng theo điều con muốn, mà theo điều Cha muốn"...

Mỗi người tìm một điều thực hành cụ thể và thích ứng cho ngày hôm nay, diễn tả sự tin cậy và phó thác cho "mầu nhiệm Ðức Chúa Trời".

2. Lời kết nguyện:

Có thể tự mình đưa ra một lời cầu nguyện thích ứng với hoàn cảnh cá nhân và với điều thực hành.

Hoặc lấy lại lời nguyện kết thúc ở phần Dẫn Nhập, diễn tả sự trao gửi, phó thác và dâng hiến mình cho Ðức Chúa Trời.
Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...