01. Coi địa lý
Hỏi: Những việc người đời thường làm, như coi địa lý, chọn ngày, xem số, xem quẻ, xin xăm, có hợp với chân lý chăng?
Đáp: Người đời xưa cất nhà, để mả, cũng coi địa lý, song chỉ chọn chổ đất cao ráo, không ứ nước (thủy), và xây về hướng nào tránh khỏi ngọn gió (phong) nóng quá, hoặc lạnh quá mà thôi; vậy nên thuật coi điạ lý cũng gọi là “phong thủy.”
Về sau người ta tin rằng con cháu hiền hay ngu, giàu hay nghèo, sang hay hèn, đều do nhà cửa và mồ mả có được đất tốt hay không; từ đó sự coi địa lý lại đổi ra ý nghĩa khác. Thuật địa lý ngày nay cốt lựa được đất tốt để con cháu phát phú phát quí. Thuật ấy bắt đầu từ khi ông Quách Phát đời Tấn bày ra, trước người Trung Hoa tin theo, sau tràn lan qua nước Việt Nam ta; phần đông vốn sẵn ham chuộng phú quí, nên bị thuật ấy lừa dối rất nhiều, lưu tệ cho đến ngày nay.
Thiết tưởng tổ tiên khi sống chưa chắc đã có thể che chở cho con cháu thay, huống chi lúc chết rồi, lại còn phù hộ cho con cháu phát phú, phát quí được sao? Nếu thuật ấy là thật, thì từ nhà Tấn trở về trước chưa có địa lý, há chẳng có ai được giàu sang hết sao?
Người đời xưa có bài thơ chế giễu thầy địa lý rằng:
Thầy địa? Sao thầy nói viễn vông?
Chỉ nam, chỉ bắc, chỉ tây, đông.
Thế gian bằng có đất vua chúa,
Sao chẳng đem chôn tổ phụ ông?
Chỉ nam, chỉ bắc, chỉ tây, đông.
Thế gian bằng có đất vua chúa,
Sao chẳng đem chôn tổ phụ ông?
Bài thơ ấy làm cho thầy địa lý phải ngậm miệng.
Thuật địa lý có hại cho sự tiến bộ của xã hội, vì ai nấy chỉ lo nhờ dương cơ, âm phần để mong được phú quí, mà chẳng lo làm hết bổn phận mình; lại còn đem hài cốt của tổ tiên làm môi giới cầu phú quí, ấy thật là bất hiếu và có hại đến luân lý nữa.
Không. Vì những việc ấy là dị đoan, mê hoặc lòng người, có ảnh hưởng xấu, và gây nhiều tai hại cho nhân quần, xã hội. Xin biện giải như dưới đây:
Không. Vì những việc ấy là dị đoan, mê hoặc lòng người, có ảnh hưởng xấu, và gây nhiều tai hại cho nhân quần, xã hội. Xin biện giải như dưới đây:
02. Chọn Ngày, Định Hướng, Coi Tuổi
Đời vua Thành Vương nhà Châu, bên Trung Hoa, có họ Việt thường đến triều cống. Khi về lầm đường, ông Châu công bèn chế ra xe chỉ nam để đưa về; khu địa bàn đời nay tức là bắt chước xe chỉ nam ấy. Còn nói về Giáp tý, thì do vua Hoàng đế truyền dạy ông Đại Náo đặt ra: lấy giáp, ất, bính, đinh, mậu, kỷ, canh, tân, nhâm, quí làm thiên can; tý, sửu, dần, mão, thìn, tỵ, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi làm địa chí; hai bên hiệp nhau thành Giáp tý. Xét ra bổn ý người chế ra chỉ nam là để chỉ đường, người bày ra Giáp tý là để ghi năm và tháng, chớ không có ý vì sự cất nhà, để mả. Người đời xưa làm việc gì cũng không chọn ngày, giờ, phương hướng. Nay các nước Tây phương cũng vậy, thế mà các công việc thường vẫn thuận lợi, nào có hại gì đâu. Người nước ta bắt chước tục lệ bên Tàu, hễ làm việc gì hay là đi đâu, thì giở lịch chọn ngày, rước thầy chọn hướng; thật là mất công vô ích, vì không có hiệu nghiệm chi hết.
Từng thấy hai đám cưới cùng đi một ngày, một giờ, mà về sau kết cuộc khác nhau; hai cửa hàng cùng khai trương một ngày, một giờ, mà về sau thành, bại khác nhau. Thế thì chọn ngày tốt mà làm gì? Vì cái quyền giáng họa, phước ở trong tay Đức Chúa Trời; làm lành được phước, làm dữ mang họa, đều tự mình cả, không quan hệ gì với ngày, giờ và phương hướng.
Còn việc hôn nhân, từ đời thượng cổ chẳng có coi tuổi, chọn ngày gì hết. Hễ hai bên trai, gái xứng sắc cân tài, tình đầu ý hiệp, biết ấy thiên duyên sở định, gặp ngày thuận tiện, thì lảm lễ thành hôn. Đến đời nhà Hán, mọi Hung nô cường thạnh ở Bắc phương, luôn đòi cưới công chúa của vua Trung Hoa cho đông cung thái tử của họ. Ông Lữ Tài bèn lập kế, bày ra trò Bát sơn giao chiến để ngăn trở sự cầu hôn của mọi, rồi lấy con gái của nhà hạ lưu thế cho. Song từ đó về sau, người đời tưởng là sự thật, mỗi khi dựng vợ gả chồng cho con cháu phải tránh cái tuổi nằm về cung bát sơn tuyệt mạng, và cầu cho được lục hiệp trường sanh.
Sự mê tín coi tuổi ấy gây nên biết bao thảm họa trong gia đình! Vì nơi thương không chọn, nơi chọn không thương, khiến nhiều gia đình tan nát, để bỏ, thậm chí có lắm người phải tự sát vì tình để tránh sự áp bức của gia đình hủ lậu.
Vậy nên người tin đạo thật không ai coi tuổi làm gì, mỗi lần trai, gái định đôi đều vâng theo ý Chúa cả. Có câu: “Lương duyên do túc đế, giai ngẫu tự Thiên thành.”
03. Đoán Số
Thuật đoán số do ông Quỉ Cốc Tử bày ra; ông là người đời Chiến quốc, bên Trung Hoa. Lấy năm, tháng, ngày, giờ khi người ta sanh ra mà hiệp với thiên can, địa chỉ, theo ngũ hành sanh, khắc, rồi suy đoán người ấy về sau sống lâu hay chết yểu, giàu sang hay nghèo hèn. Cái thuật ấy chỉ có thể phỉnh gạt kẻ hẹp nghĩ, còn người khôn ngoan, có kiến thức, chắc chẳng ai tin. Ấy vì cùng trong một năm, một tháng, một ngày, một giờ, khắp cả thế gian chắc có rất nhiều người sanh ra, và trong số ấy chắc là giàu sang, nghèo hèn không giống nhau; thậm chí hai đứa con sanh đôi về sau nên, hư cũng khác.
Vậy thì sự xem số lấy gì làm chắc chắn? Phải biết rằng họa, phước do quyền của Đức Chúa Trời. Ngài lấy họa, phước mà thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ, hoặc thử cả hai. Nếu người ta mới sanh ra đã định mạng sẳn cho giàu sang, hay nghèo hèn, sống lâu hay chết yểu, chớ không đợi xem việc làm thể nào, thì cũng như cha mẹ xử với con cái in trí yêu đứa nầy, ghét đứa kia, không cứ nó ngỗ nghịch hay vâng lời. Thiết tưởng ở thế gian nầy chẳng có cha mẹ nào như thế bao giờ. Đức Chúa Trời là Đấng rất công bình, há chẳng tùy theo việc làm của mỗi người mà thưởng, phạt công minh sao?
Như vậy, sự đoán số là tà thuật dối người, chớ nghe mà lầm, chớ tin mà chắc.
04. Xem Tướng
Đức Chúa Trời tạo ra loài người, từ xưa đến nay, trong có lục phủ ngũ tạng, ngoài có lông, thịt, xương, da, tay, chân, mũi. Từ bậc vua chúa đến kẻ thường dân, đại để giống nhau, chỉ khác nhau ở hình vóc thấp, cao, gầy, mập, cùng nước da trắng, đỏ đen, vàng. Kẻ nghèo ăn cơm lứt, canh rau, ở nhà tranh vách đất, kẻ giàu ăn cao lương mỹ vị, ở nhà rộng lầu cao, nhơn đó khí sắc không giống nhau. Vậy, có lẽ nào lấy cốt tướng mà đoán định tương lai cho được?
Xưa vua Võ Đế nhà Hán đọc câu sách tướng rằng: “Hễ ai nhân trung dài một tấc, thì sống được một trăm tuổi.” Ông Đông Phương Sóc đứng bên nghe, liền cười xòa. Vua hỏi: “Ngươi cười ai?” Ông trả lời: “Tôi cười ông Bành Tổ đời xưa, vì ông ấy sống đến 800 tuổi, ắt nhân trung dài đến tám tấc, thế thì mặt ông dài biết bao nhiêu!” Câu nói ấy dầu là khôi hài, nhưng cũng đủ đánh đổ sự sai lầm của sách ma y thần tướng.
Trên đời có nhiều người tướng mạo giống nhau in khuôn, mà tâm tánh khác nhau một trời một vực. Tỉ như vua Thuấn trùng đồng, Hạng Võ cũng trùng đồng, làm sao một người thì nhân đức, còn một người thì bạo ngược? Gương mặt Dương Hổ giống hệt Khổng Tử, làm sao một người gian ác, một người là thánh nhân? Khổng Tử nói rằng: “Nếu lấy tướng mạo mà xét người, thì ta đây đã mất Tư Võ.” Sao quí vị không tin lời Khổng Tử, mà lại tin lời thầy tướng?
Người ta có thể coi tướng, như xem cách ăn nói, đi đứng mà biết qua tâm tánh một người; ấy cũng như thầy thuốc xem thần sắc người đau, thì biết đại khái bịnh nặng hay nhẹ, hàn hay nhiệt. Còn như nói rằng xem tướng mà đoán được cát hung, họa, phước về sau, thật là phi lý lắm.
05. Bói Quẻ, Xin Xăm và đoán Chữ
Bói quẻ, xin xăm, đoán chữ (hoặc chiết tự) là những trò chơi, không khác gì thò lò, bong vụ; vì may thì trúng, rủi thì sai, không lấy gì làm nhất định. Có khi bói được tốt mà ra xảy ra xấu, có khi đoán lành mà lại ra dữ. Khi nào tình cờ ứng nghiệm, thì đổ cho thần không giáng. Sao chẳng nghĩ một trăm lần bói, chắc cũng có trúng một vài lần? Cũng như người chưa biết bắn học bắn luôn cả ngày, chắc cũng trúng một vài phát, đó chẳng phải bắn giỏi song là may mà trúng.
Xưa kia Khuất Nguyên đến xin Thiềm Doãn bói cho. Ông Thiềm Doãn bèn nói rằng: “Cái thước có chỗ ngắn, cái tấc có chỗ dài, vật có chỗ chẳng đủ, trí có chỗ chẳng sáng, số có chỗ chẳng kịp, thần có chỗ chẳng thông. Chứ dùng theo lòng ông, làm sao theo đạo ông, rùa và thỏ không biết việc ấy.”
Xem đó, người đời xưa vốn biết bói quẻ là vô ích. Sự xin xăm cũng vậy. Xin xăm có khi linh, có khi không linh, ấy là do tình cờ, không phải có bụt, thần nào cả. Ai tin điều đó, chẳng những không ích chi mà lại có hại nữa. Còn những kẻ đoán chữ phần nhiều là người nghèo nàn, không phương kiếm ăn, xoay ra làm nghề giả dối ấy. Họ mưu lợi cho người khác mà không mưu được cho chính mình. Có ai biện luận đến chừng họ không đáp lại được cho chính mình. Có ai biện luận, đến chừng họ không đáp lại được nữa, thì nói rằng: “Tôi vẫn biết là thuật phỉnh đối, song vì nhà nghèo, không đừng được mà phải kiếm ăn bằng nghề ấy.” Ôi! Người đời há chẳng nên nghe lời đó mà tỉnh biết sao?
06. Các Thần Giả
Hỏi: Đạo Tin Lành của Đức Chúa Giê-xu Christ vẫn nên tin theo, song từ xưa đến nay, từ bên Trung Hoa cho đến nước ta, trên thờ các vị nhật, nguyệt, tinh, dưới thờ sơn xuyên, xã tắc, cùng chư vị thiên thần, nhân thần; trong các vị đó, chẳng có một vài vị là chân thần sao, mà các ông lại nói không đáng thờ?
Đáp: Dân ta từ xưa đến nay nhiễm tục mê tín đa thần của người Trung Hoa, hễ họ thờ vị nào, thì ta cũng bắt chước thờ vị ấy. Tóm lại, có hai loại: Một là thờ vật thọ tạo, như trời, đất, mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao, v.v. Vả, Đức Chúa Trời đã dựng nên trời, đất để che chở cho người ta; dựng nên mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao để soi sáng cho người ta; tạo ra muôn vật để người ta dùng hoặc ăn, cũng như cha mẹ sắm nhà cửa, bàn ghế, v.v... để cho con cái vậy. Nay con cái chẳng hiếu kính cha mẹ, mà lại hiếu kính nhà cửa, bàn, ghế, há chẳng lỗi đạo lắm sao? Chúng ta đã biết trời, đất, muôn vật có một Đấng Chủ Tể, và chúng ta hằng chịu ơn Ngài, thì đáng nên thờ Đấng Tạo Hóa, chớ chẳng nên thờ các vật thọ tạo kia. Hai là họ tôn người chết làm thần, như: Ngọc Hoàng, Lão Quân, Quan Công, Thành Hoàng, Thổ Địa, Diêm Vương, cùng các thần khác nữa. Nay xin lược kể lai lịch và sự tích các thần đó sau đây, để quí độc giả thử xét có nên thờ các thần ấy chăng.
07. Ngọc Hoàng
Tra xem sử nhà Tống, Ngọc Hoàng vốn tên là Trương Nghi, người huyện Hành Đường, phủ Chân Định, sanh ra cuối đời nhà Hán. Trương Nghi học đạo Lão Tử, ở lần trong núi Võ Dương, hái thuốc luyện đơn, chữa kẻ có bịnh. Đến đời vua Huy Tôn nhà Tống, có thuật sĩ tên là Lâm Linh Tố, cũng học đạo Lão Tử, phỉnh dối vua phong Trương Nghi là Ngọc Hoàng Thượng Đế, giáng chiếu bắt thiên hạ thờ phượng. Vua làm như thế, có ý mong Ngọc Hoàng phù hộ cho nước được bền vững lâu dài; nào ngờ phong Trương Nghi chưa được bao lâu, cả nhà cha con, vợ chồng vua Huy Tôn bị người nước Kim bắt đem đi, rồi sau chết tại thành Ngũ Quốc.
Người nước ta học sách Tàu, hễ thấy thờ thì thờ, không xem xét kỹ càng; vì có tập quán không dám cãi lại sách vở, nên di hại cho đến bây giờ, và có nhiều người lầm tưởng rằng thờ Ngọc Hoàng tức là thờ Đức Chúa Trời (Thượng Đế) vậy.
Thử xét trong đời Tiền Hán, Tam Đại, Đường, Ngu về trước, ai làm Chủ tể trời, đất muôn vật? Chính sự sanh, tử của Trương nghi, ai cầm quyền trên đó? Chắc phải trả lời rằng ấy là Đức Thượng Đế. Vả lại, Đức Thượng Đế chẳng liên quan gì với Ngọc Hoàng, là tước hiệu của Trương Nghi mà vua Huy Tôn đã phong cho ông. Xin coi lại mấy chữ: “Hoàng Mỹ Thượng Đế” trong Kinh Thi, chẳng phải Đức Chúa Trời, là Chúa của trời đất, muôn vật, là Đấng dựng nên lài người, đáng thờ phượng, tôn vinh; chớ đừng lầm tưởng mà nói rằng tôi cũng có thờ Đức Chúa Trời, vì Đức Chúa Trời là Ngọc Hoàng Thượng Đế.
08. Lão Quân
Sách Cương Giám chép Lão Quân sanh ra cuối nhà Châu, thuở Xuân thu, làm sử quan, họ Lý, tên Nhĩ; nhơn sau tuổi đã già, nên gọi là Lão Tử. Lúc Khổng Tử đi chu du các nước, có sang nhà Châu, hỏi lễ nơi Lão Tử. Về sau có kẻ hiếu sự làm truyện Lão Quân, nói dối rằng Lão Quân sanh ra thuở nhà Ân (trước nhà Châu 400 năm), ở trong thai đến 82 năm, rồi phá hông bên hữu của mẹ mà ra, râu tóc đều bạc, vì cớ đó gọi là Lão Tử.
Đến đời Cao Tôn nhà Đường, lấy cớ mình là họ Lý, dòng dõi của Lão Tử, bèn phong Lão Tử làm Huyền Nguyên Hoàng Đế, đến vua Chân Tôn nhà Tống, lại gia hiệu là Thái Thượng Lão Quân. Và cũng có nơi khác xưng Lão Tử là Nguyên Thủy Thượng Đế, Nguyên Thủy Thiên Tôn nữa.
Lão tử vốn là người ta, sanh ra trong trời đất cũng như mọi người khác; thế mà người đời lại xưng là Nguyên Thủy Thượng Đế, thật là trái lẽ.
09. Tiên thuật
Sử ngoại ký là nghi sử thời đại ở bên Trung Hoa, có chép phỏng chừng rằng: Vua Hoàng Đế đắc đạo, cỡi rồng bay lên trời, trường sanh bật tử. Và truyện Phong Thần chép rằng: Ông Khương Thái Công đắc tiên thuật, điều khiển các thiên tiên và địa tiên. Đến thời Tiền Hán, ông Trương Lương thấy vua Cao Tổ hay nghi kỵ công thần, sợ họa đến mình, nên giả kế tịch cốc tùng tiên, nghị giả cho là bậc cố tri. Lại thêm miệng đời bày chuyện Hoài Nam Tử luyện thuốc thành tiên, cùng đặt ra truyện bát tiên, lấy tên tám người là Hà Tiên Cô, Lý Thái Bạch, Trương Quả Lão, Tào Quốc Cựu, Lý Thiết Quái, Hàn Tương Tử, Lữ Đồng Tân, Hàn Chúng Ly. Các ông bà ấy đều là người như chúng ta, cũng ăn, cũng làm, cũng sống, cũng chết, nào có ai trường sanh bất tử đâu?
Có kẻ lại hỏi rằng: Nếu không có tiên, tại sao khi người ta cầu cơ, thì ông Lý Bạch liền giáng bút làm thơ với họ suốt đêm ngày?
Đáp: Về sự phụ đồng ứng cơ, hoặc giáng bút, chỉ xét cho kỹ một chút thì rõ. Coi như chốn thôn quê, đêm nhàn hạ, kẻ lớn người nhỏ, dụm ba dụm bảy lại mà sai roi, sai chổi, sai quạt, sai vung, đồng tử đội khăn ngồi chính giữa, bồn bề có kẻ cầm hương, còn mấy người ngồi chung quanh đọc bài có vần, có nhịp, khi bổng, khi trầm, mùi hương phảng phất lẫn với tiếng ngâm nga lảnh lót lúc đêm vắng canh khuya, làm cho người đồng kinh khiếp, tâm hồn nửa tỉnh nửa mê, rồi cử động một chút mà bình sanh chưa từng làm, hát một câu bình sanh chưa từng hát.
Thử nghĩ xem, như Lý Bạch là người có hồn, thì họ cho rằng hồn ông ứng cơ; còn cái quạt cái vung, cái roi, cái chổi, là bốn vật vô tri, có linh hồn đâu mà phụ cơ nhập xác. Thiết tưởng sự cầu cơ chẳng qua là tà thuật dối người, chớ có tiên, thánh nào áp phụ cho ai đâu.
10. Quan Công
Quan Công nguyên họ là Thi, tên là Thọ Xương, người làng Giải Lương, châu Bồ, tỉnh Sơn Tây bên Trung Hoa; sau đổi họ là Quan, tên là Võ, hiệu là Vân Trường, làm tướng của vua Chiêu Liệt nhà Hậu Hán. Ông này gọi là trung thần của nhà Hậu Hán thì đúng, còn như xưng là một vị thần hộ quốc thì quá đáng. Vì lúc bấy giờ Khổng Minh sai Quan Võ giữ Kinh Châu, Võ không thể giữ được, để cho Kinh Châu bị mất và mình bị giết; đã vậy, bây giờ Võ chết rồi, còn bảo hộ ai được?
Về sau có người đặt ra một sách, gôi là “Minh thánh kinh” nói là của Quan Công giáng bút, và rằng Quan Công hiện đang coi giữ cửa trời, có thể xuống hoạ, xuống phước. Sao không nghĩ: Trương Phi là anh em kết nghĩa với Quan Công thân hơn ruột thịt, đã vì báo thù cho Quan Công mà phải chết, và nhà Hậu Hán về sau mất nước. Nếu Quan Công là linh thật, sao không hển thánh mà cứu cho? Người đời nay hay nói Quan Công là thần giúp nước, cứu dân, sao mà lầm lắm vậy? Có kẻ nói rằng: Anh em chết và nước mất đó là do thiên số, không nên trách Quan Công.
- Nếu đã do thiên số, thì phải biết kính thờ Đức Chúa Trời, là đấng định thiên số ấy, sao lại kính thờ Quan Công, là người chịu bó tay trước thiên số?
Chúng ta nên nhận Quan Công là người trung nghiã, nên kính trọng và bắt chước gương anh kiệt của ông; còn như giết heo, giết gà, đốt vàng, đốt hương để mong nhờ phù hộ, thật là trái lẽ lắm. Vì Quan Công là người ngay thẳng, lúc ở với Tào Tháo, lên ngựa thưởng bạc, xuống ngựa thưởng vàng, ba ngày một tiệc nhỏ, năm ngày một yến lớn, vậy mà ông chẳng màng thay, huống chi lễ vật tầm thường với lòng gian tham cầu cạnh, nếu ông linh thật đi nữa, há thèm ngó đến sao? Vậy, Quan Công là bậc trung nghĩa đáng bắt chước, chớ không nên thờ phượng, vì không có quyền bảo hộ cho ai.
11. Thành Hoàng
Thành Hoàng nghĩa là cái hào ở ngoài thành, vốn không có nghĩa là thần gì cả.
Xưa kia, vua nhà Tấn là Tư-Mã-Diêm thấy đám quần-thần thờ vua chẳng trung, trị dân chẳng có nhân đức, bèn cho vẽ tượng một người trung-thần của vua Cao-Tổ nhà Hán, tên là Quán Anh, đem treo nơi các công sở cho bầy tôi bắt chước. Không dè về sau truyền khẩu sai lầm, xưng tượng ấy là vị thần giử thành. Sau đó, các tỉnh, phủ, châu, huyện đều lập miểu thờ Thành-Hoàng. Lại có người bày đặt nói rằng Thành–Hoàng mỗi ba năm một lần thay đổi, và bịa chuyện người nọ chết, người kia chết, thì đi làm Thành-Hoàng xứ nọ, xứ kia. Một người nói ra trăm người nghe và tin lấy đươc, chẳng xét lẽ thật hư. Không biết tại sao người ta dể tin dị đoan quái gỡ như vậy, còn Đấng Chân-Thần Thượng- Đế hay ban ơn xuống phước, thì họ, không chịu tin-kính, thờ phượng. Thật đáng thương thay!
12. Thổ Địa
Sách Tả truyện có chép: “Xã là chủ thổ địa, phong làm Thổ công, xưng là Thổ thần.” Nhơn đó về sau người ta thờ thần Thổ địa. Ngay thử xét: Xã là tên một chức quan có phận sự bình trị và cai quản đất nước. Vậy người cai quản đất nước là ai? Chính là ông Câu Long. Sách xưa chép rằng: “Ông Câu Long ở đời vua Xuyên Húc, làm quan cai quản đất đai, bình trị đất nước, rất có công trạng.”
Vả, hễ người ta chết rồi, thì lìa khỏi chức vị, ông Câu Long có đâu đời đời cai quản đất đai được? Người đời nay không xét kỹ, đắp tượng thổ địa, đầu sói, bụng to như ông già, lại lấy ngày 23 tháng 3 làm ngày sanh thổ địa, thật không có ý nghĩa và sai lạc lắm thay!
Người ta kính thờ Thổ địa là có ý trả ơn cho đất. Nào có biết dầu sanh ra mọi vật cần dùng cho người ta, song thảy đều do ân huệ và quyền phép của Đức Chúa Trời. Nay chẳng trả ơn Chúa mà trả ơn đất, có khác nào người kia được cha chia phần ruộng cho, không cảm ơn cha, lại cảm ơn ruộng, thật là phi lý lắm.
13. Phật Thích Ca
Kinh Phổ Diệu chép Phật tên là Như Lai, họ Thích Ca, hiệu là Mầu Ni, cha là Tĩnh Phạm Vương, mẹ là bà Gia Ma, ở nước Thiên Trúc (Ấn Độ). Ông sanh ngày 8, tháng 4, năm Giáp Dần, về đời Chiêu Vương nhà Châu.
Khi 19 tuổi, ông ra chơi bốn cửa thành, thầy người đời sanh, lão, bịnh, tử, chạnh lòng buồn bực, chán nản, bèn bỏ cả, đi tu. Khi già đau nhọt, mất ở dưới cây song thụ. Môn đồ cho rằng người đã vào Niết Bàn, bèn tôn xưng là Phật Tổ, và dạy người đời ăn chay, tụng kinh, đốt mã, phá ngục, bố thí, kiêng sát sinh, v.v. Từ đó trở đi, nhiều người tin theo, bỏ cha mẹ, anh em, vợ con, bạn hữu, cắt tóc đi tu, ăn muối dưa, mặc nâu sồng, không kể đến gia đình, xã hội, tháng ngày ở nương nhờ cửa Phật.
Đến đời Minh Đế nhà Hán, đạo Phật truyền sang Trung Hoa, lưu tệ không phải là ít. Qua đời nhà Đường, từ vua đến dân mê tín đạo Phật, ông Hàn Dũ có lòng lo lắng cho hậu vận nước nhà, bèn dâng sớ khuyên can vua rằng: “Đại chi đại nguyên xuất ư Thiên; cớ sao không thờ Trời mà lại thờ Phật, để hại cho đời sau?” Tiếc thay! Lời thẳng trái tai, ban mai dâng sớ, chiều bị đày đi, chân lý đã bị cường quyền đè ép.
Nước ta vào đời nhà Đinh mới sai sứ qua Trung Hoa thỉnh kinh thờ Phật. Từ đó đến nay, nhân dân tin theo mỗi ngày một nhiều: nào quyên tiền làm chùa, nào tô tượng, đúc chuông, mong để cầu phước. Nhưng Phật Thích Ca không có quyền giáng họa hoặc ban phước cho ai, làm thế chỉ thêm sai lạc chủ nghĩa của Phật mà thôi.
Xét kỹ lại, ông vốn là con vua mà bỏ mình tầm đạo, tâm chí rất cao thượng, chúng ta đáng cảm phục thay! Song chẳng qua cũng là một người trong thiên hạ, vẫn bị bó tay dưới quyền thiên số, không tự cứu mình được, vị tất tế độ cho ai.
Kinh Phật cũng có chép: Lúc Phật được tám tuổi, vua cha dẫn đến thiên miếu mà lạy Trời. Dường ấy, sao chúng ta không theo gương Thích Ca mà thờ lạy Đức Chúa Trời cho trúng đạo?
Vả, theo giáo lý nhà Phật, thì loài người có ba chất xấu gọi là “Tam Độc.” Phàm ai muốn đạt đến Niết Bàn, phải tự mình giải thoát khỏi ba cái độc ác, chớ Phật không tế độ ai, vì người không phải là đấng cứu thế, bèn là giáo chủ của một tôn giáo dạy luân lý và hạnh kiểm mà thôi.
Vậy có khác nào thầy thuốc kia, sau khi chẩn mạch bịnh nhân rồi, cho biết rằng: “Anh mắc ba chứng bịnh có thể tuyệt mạng được, là đau tim, đau gan, và đau phổi.” Bịnh nhân lộ vẻ lo lắng và ngỏ ý cầu cứu, nhưng người đó nói rằng: “Tôi không phương gì cứu chữa anh được, tự anh phải làm sao cho dứt ba chứng bịnh ấy, tất nhiên anh sẽ được mạnh khỏe, bình an.” Nghe qua, bịnh nhân ắt phải đau đớn và thất vọng biết bao!
Hay là có người kia đang vỡ nợ, được giấy của thừa phát lại hẹn cho một thời gian ngắn phải đem trả đủ số vốn và lời mới được bình an, bằng không, sẽ chiếu theo luật thi hành mà giam cầm. Tiếc thay! Số nợ thiếu rất nhiều mà vốn liếng trong nhà rất ít, làm sao trả nợ cho xong, nên phải bối rồi, buồn rầu, khổ sở khi được tin dữ đó.
Cũng một thể ấy, điều lành ở trong người ta rất hiếm hoi, mà điều dữ rất dư giả, nay đem cái vốn lành rất ít của mình để trang trải cố nợ rất nhiều của tội lỗi, có thể được không? Chắc ai biết suy xét cũng cho là không thể được. Như vậy, giáo lý nhà Phật dạy một điều mà người ta làm đến mãn đời cũng chưa xong.
Một mình Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa của nhân loại, có quyền giáng họa, xuống phước và cũng có quyền cứu vớt mọi sanh linh. Ngài có lòng yêu thương nhân loại hơn cha thương xót con cái không muốn ai chết mất. Thấy loài người không phương đền chuộc tội mình, Ngài bèn lập ra một phương cứu rỗi, vừa hiệp lẽ công bình vừa trọn lòng yêu thương: Ấy là Đức Chúa Giê-xu Christ đã đổ Huyết trên Thập Tự Giá chuộc tội loài người, hầu cho hễ ai nhận tội mình trước mặt Đức Chúa Trời và tin nhận Đức Chúa Giê-xu Christ làm Cứu Chúa, thì được tha thứ hết. Ấy cũng như người mắc nợ được chủ tha, người đau gặp được thầy giỏi, người đương chìm giữa biển nhờ thuyền trưởng ra tay cứu vớt.
Xin quý độc giả cứ xem hết sách này sẽ biết rõ phương pháp cứu rỗi duy nhất ấy.
14. Thuyết Luân Hồi
Con giả nhân hay nói là loài thú chạy, con anh võ hay nói lại là giống chim bay; loài vật sánh với loài người khác nhau như trời với vực, vì có câu rằng: “Thiên sinh vạn vật, duy nhân tối linh.” Thế mà nhà Phật lại đề xướng thuyết luân hồi, thật là trái lẽ.
Đức Chúa Trời đã lấy đất tạo ra loài người, hà sinh khí vào lỗ mũi, làm thành linh hồn họ. Từ đó về sau, loải người theo công lệ thiên nhiên, cha mẹ sanh con, con sanh cháu, có thân thể và linh hồn. Khi qua đời, thân thể tan nát ra tro bụi, linh hồn vẫn còn mãi mãi và phải ứng hầu trước mặt Đấng Tạo Hóa để được thưởng hoặc chịu phạt đời đời. Loài vật chẳng thế, vì không có linh hồn, nên khi chết, các thịt tan nát, giác hồn cũng tiêu diệt, chớ chẳng có đầu thai hoặc chuyển kiếp chi đâu.
Vả, Đức Chúa Trời đã định cho muôn loài giống nào sanh ra giống nấy đông đúc, và cũng chúc phước cho loài người sanh sản thêm nhiều đầy dẫy mặt đất. Đã vậy, không thể nào có luân hồi, chuyển kiếp được.
Nhà Phật lại nói: “Khi người ta chết rồi, kẻ thiện được sanh lại làm người, kẻ ác phải sanh làm súc vật.” Vậy trong thế gian người thiện vốn ít, người ác quá nhiều, theo lý thuyết ấy, e rằng trong vòng 100 năm, ắt chẳng còn loài người trên mặt đất nầy nữa! Nhà Phật cũng nói: “Đời này ăn bốn lạng thịt, kiếp sau phải đề thịt nửa cân.” Dường ấy, trên đời nhiều người ăn thịt, ít kẻ không ăn, suốt một đời người ăn biết bao nhiêu là thịt, nếu phải trả nợ, thì trả đến kiếp nào cho xong? Sợ e loài người phải tuyệt diệt hết! Huống chi thánh hiền đời xưa đều có ăn thịt, vậy, cũng phải trở lại làm súc vật để trả nợ sao?
Có người hỏi: Nếu không có luân hồi, sao có kẻ giàu, người nghèo, kẻ sang người hèn?
Đáp: Phải biết rằng cảnh ngộ ở đời, mỗi người một khác. Ông Mạnh Tử có nói: “Không có người làm quan, lấy ai cai trị người làm ruộng? Không có người làm ruộng, lấy ai nuôi người làm quan?” Đó là thông nghĩa trong thiên hạ, có quan hệ gì đến luân hồi? Ai tin cậy Cứu Chúa, làm lành, dầu gặp cảnh nghèo hèn, song linh hồn vẫn được lên Thiên Đàng; ai trái nghịch Chúa, làm điều dữ, dầu được hưởng phú quý, nhưng linh hồn phải sa xuống hỏa ngục, sự giàu sang nghèo hèn trước mắt có chi đáng trọng, đáng khinh? Mong rằng quí vị để biết trước cội rễ loài người và muôn vật, sẽ không bị sai lạc vì thuyết luân hồi nữa.
15. Quan Âm
Kinh Quan Âm chép con gái thứ ba vua nước Diệu Trang là Diệu Thiện, xuất gia đi tu, ở Chùa Bạch Tước. Khi vua cha nghe biết, bèn lấy lửa đốt chùa, bà Quan Âm, tức là Diệu Thiện, tay cầm cành dương rưới nước, ngồi chết ở trên hoa sen. Người ta nói rằng bà hóa thân thành Phật.
Song xét địa dư các nước hiện nay, ta không thấy nước Diệu Trang đâu cả. Nhà Phật nghĩ đàn bà rất dễ khuyến dụ, bèn làm tượng Quan Âm, nói là có phép cứu khổ cứu nạn, để mọi người cúng bái, cầu phước, cầu lợi. Kết quả nhiều người đua nhau mê tín, không biết đã bị sai lầm; người không con thì cầu Quan âm bồng con, người nào mắc khổ thì cầu Quan Âm ngàn mắt ngàn tay. Than ôi! Chỉ có một Đấng đủ quyền cứu khổ cứu nạn, ấy là Chúa của trời, đất, muôn vật, sao không tìm cầu Ngài, mà lại đi cầu Quan Âm hữu danh vô thực?
16. Diêm Vương
Đức Chúa Trời dựng nên Thiên Đàng để tiếp người lành, dựng nên hỏa ngục để chứa người dữ. Sự thưởng, phạt tùy theo ý chỉ công minh của Ngài, không ai can thiệp được. Thế mà nhà Phật nói địa ngục có mười tám trùng, có mười vị Diêm Vương cai quản, tức là: họ Tào, họ Ma, họ Vu, họ Tiết, họ Xương, họ Tiêu, họ Bao, họ Khấu, họ Hàn, v.v... Như vậy, mười vị chỉ cai quản mười trùng, còn tám trùng nữa lấy ai cai quản?
Họ Bao nói đó tức là ông Bao Chửng, cũng gọi là Bao Công, làm quan Khai Phong phủ ở triều vua Nhân Tôn nhà Tống, xử đoán rất ngay thẳng, không tư vị ai, dầu hoàng thân, quốc thích mà phạm tội, cũng trị thẳng tay, chớ chẳng sợ kẻ có quyền thế. Diện mạo của ông nghiêm khắc. Thuở đó người ta sợ ông lắm, nên đặt biệt hiệu là Diêm la Bao lão. Về sau ông chết, có kẻ đã đặt điều nói rằng ông ấy xuống làm Diêm Vương dưới địa ngục, coi sự chết và sự sống ở trên dương gian. Nói thế là vô lý! Nay thử hỏi: Trước khi chưa có Bao Công, lấy ai cai quản địa ngục? Và Bao Công cai quản sự sống và sự chết của kẻ khác, vậy ai cai quản sự sống, chết của Bao Công?
Kinh Thi chép rằng: "Sợ oai Trời," lại rằng: "Lớn thay Thượng Đế!" Vậy, xin quí vị hãy kính sợ một mình Đức Chúa Trời, là Đấng cai quản sự sống, chết của loài người.
17. Bà Chúa Ngọc và Bà Liễu Hạnh
Ở nước Việt Nam ta miền Bắc hay thờ bà Liễu Hạnh Công Chúa, miền Nam hay thờ bà Chúa Ngọc.
Về bà Chúa Ngọc, tục truyền rằng: Ở miền biển, sát chơn núi Khánh Hòa, có hai ông bà không con, làm nghè trồng dưa; một buổi sáng kia, ra thăm vườn, thấy một nàng con gái đẹp đương xách nước tưới dưa, bèn bắt về làm con. Được mấy năm, trong nhà xẩy ra sự bất hòa, nàng bèn nhảy xuống giếng trầm mình, hóa làm khúc gỗ kỳ nam, trôi qua Bắc hải. Thái tử ở Bắc hải vớt khúc gỗ ấy đem về, lại hóa ra nàng con gái, rồi cùng Thái tử kết làm vợ chồng. Khi được mấy con, nàng lại phân ly trở về chốn cũ, hiển thánh tại đó. Nhiều phụ nữ mê tín đua nhau thờ nàng, cũng gọi là Thiên Y Thần nữ.
Còn bà Liễu Hạnh nguyên là con gái ông Lê Thái Công ở tỉnh Nam Định. Khi sanh bà ra, ông có thấy chiêm bao rằng người con gái đó là một vị công chúa trên trời đầu thai, nên đặt tên là Giáng Tiên, sau có chồng, có con, được 21 tuổi thì chết. Khi bà chết rồi, người làng xóm đồn rằng: Giáng Tiên linh lắm, hiện về nhiều nơi. Họ bèn lập miếu mà thờ, tôn hiệu là Liễu Hạnh Công Chúa.
Sự tích của hai bà nầy rất hoang đường, như bà Chúa Ngọc là người sao lại hóa làm khúc gỗ, khúc gỗ sao lại hóa ra người? Ấu chẳng qua là đồng bóng mơ hồ ở chốn thôn quê gần miền biển.
Còn bà Liễu Hạnh, đời sanh hoạt của bà bất quá là của một phụ nữ tầm thường, chớ trên trời có công chúa nào đầu thai xuống? Chẳng qua thân phụ của bà vốn mê tín thuyết luân hồi, rồi nằm thấy chiêm bao, hoạc bày chuyện ra để nâng cao giá trị của con gái mình.
Thế mà phụ nữ miền Bắc phần nhiều mê tín bà là chúa tiên độ mạng; phụ nữ miền Nam nhận bà Chúa Ngọc làm mẹ sanh, thật sai lầm lắm! Sao không thờ Đức Chúa Trời, là Đấng cầm quyền sanh tử, nhờ Ngài độ mạng và cứu linh hồn cho các bà?
18. Đạo Nho và Đạo Tin Lành
Hỏi: Nghe mấy lời giảng luận trên đó, đã biết Tin Lành là đạo chánh rồi, song đạo Nho cũng là chánh, không đáng theo hay sao, mà phải theo đạo Tin Lành?
Đáp: Ông Khổng Tử là người sáng lập đạo Nho, khi luận về đạo có nói rằng: "Trời mạng gọi là tánh, noi tánh gọi là đạo." Khi dạy thầy Tử Hạ về Đức Chúa Trời là Đấng Chủ Tể, thì nói rằng: "Chết sống có mạng, giàu sang tại Trời." Về cương thường, luân lý, ông dạy nhiều điều đáng làm mẫu mực cho nhân quyền, xã hội; nhưng khi có kẻ bội thiên nghịch lý, ông không có quyền đổi họ ra lành để làm trọn những lời dạy dỗ quí báu ấy.
Còn Đức Chúa Giê-xu là Con Một của Đức Chúa Trời; sự dạy dỗ của Ngài vượt quá các bậc thánh hiền. Lời Ngài sống và linh động, có quyền thay đổi lòng người, khiến họ cải tà quy chánh. Lại Ngài đã hy sinh tánh mạng trên cây Thập tự là giá chuộc tội cho mọi người. Ngài cũng đã sống lại, nên có quyền cứu kẻ nào hết lòng tin cậy Ngài.
Nói cho cùng, ông Khổng Tử là một nhà hiền triết dạy đời, còn Đức Chúa Giê-xu là Cứu Chúa của cả nhân loại. Vậy hễ ai đã học đạo Nho cho biết cách ở đời, thì nay cần phải tin Đức Chúa Giê-xu để làm phương cứu rỗi.
Vả, muốn hiểu thấu lẽ ấy, cần phải xét rõ nghĩa chữ Nho là gì. Nho là một danh từ để xưng kẻ có học, hiểu thấu cổ, kim, và phân biệt biệt tà chánh. Khổng, Mạnh cùng các bậc thánh đế, minh vương đời xưa cũng chỉ thờ một Đức Thượng Đế mà thôi, chớ không thờ tà thần, ấy là đạo Nho thật. Còn Nho đời nay, phần nhiều miệng đọc thánh hiền mà chẳng làm theo, mạnh ai nấy nói, gặp gì cũng tin, chẳng phân biệt chánh tà, hùa theo thế tục, đốt nhang đèn, vàng bạc, làm chay, cầu phước, cầu lợi trước mặt tà thần. Những người như thế mà gọi là nho, thật làm mất giá trị đạo Nho củ thánh hiền đời xưa lắm thay!
Chúng tôi theo đạo Tin Lành thì chẳng thế. Chúng tôi được Chúa đổi lòng, dẹp dị đoan, trừ tà thuyết, vâng theo Lời Chúa, đi đường chánh đáng, coi người trong bốn biển như anh em một nhà, yêu thương, hòa hiệp, đồng kính một Chúa, thờ một Thần, điều lành thì khuyên nhau, điều quấy thì răn nhau, sống ở đời nầy được sự vui mừng, bình an, thiên thượng trong lòng, đến khi qua đời, linh hồn được lên Thiên đàng, hưởng phước vĩnh sanh. Vậy, quí vị hãy mau tỉnh thức, quay về cùng Chúa Thánh mà tiếp nhận đạo Tin Lành, ắt được ơn cứu rỗi chẳng sai.
19. Thờ Lạy Ông Khổng Tử
Hỏi: Nghe lời các ông nói, biết các ông có học sách Khổng Tử, các ông lại xưng mình là Nho thật, thế sao không thờ lạy ông Khổng Tử?
Đáp: Ông Khổng Tử làm sách để dạy đời sau, chỉ khuyên người ta lấy lòng kính sợ Đức Thượng Đế, chớ có hề bảo ta thờ lạy ông đâu. Như ông nói rằng: "Giao xã chi lễ, sở dĩ tự Thượng Đế dã," nghĩa là: "Lễ tế giao, tế xã là để thờ Đức Thượng Đế, " chớ không hề nói: "Để mà thờ ta." Lại nói: "Hoạch tội ư Thiên, vô sở đảo dã." Vậy thì ông vẫn kính sợ Đức Chúa Trời biết là dường nào! Cũng có nói: "Thiên sanh đức ư dư." Ông Khổng đã bởi Trời sanh, sao quí vị không thờ lạy Trời (tức là Đức Chúa Trời), mà lại thờ lạy ông Khổng Tử?
Có kẻ nói rằng: Khổng Tử là thầy của muôn đời, nên phải thờ lạy ông. Nếu vậy, Khổng Tử cũng còn có thầy nữa, như sách Tam Tự kinh chép rằng:" Trích Trọng Ni, sư Hạng Thác." Đã thờ lạy ông thì phải thờ lạy thầy của ông nữa. Cứ như thế mà truyền mãi lên, ắt biết thờ lại ai? Rồi cũng phải thờ lại một Thầy Cao Cả của muôn vạn thầy khác, tức là Đức Chúa Trời vậy.
Nếu ông Khổng Tử còn sống, chắc phải đồng thanh với Thánh Phao Lô, la lên khi thấy người ta hiệp lại để thờ mình, rằng: "Hỡi các bạn sao làm điều đó? Chúng ta chỉ là loài người, chúng ta giảng Tin Lành cho các ngươi, hầu cho xây bỏ các thần hư không kia mà trở về cùng Đức Chúa Trời hằng sống, là Đấng dựng nên trời, đất, biển và muôn vật ở trong đó." (Công vụ 14:15) Chúng tôi trọng lời dạy dỗ của ông Khổng Tử và thờ lạy Đức Thượng Đế. Còn đối với ông chúng tôi chỉ tôn kính mà thôi; vì ai thờ lạy Khổng Tử, chẳng những đặng tội với Đức Chúa Trời, mà còn mang lỗi với ông nữa.
20. Thờ Lạy Tổ Tông
Hỏi: Đức Chúa Trời vẫn đáng thờ lạy rồi, song tổ tông đã sanh ra ta, ta cũng chẳng nên quên, như lời thầy Tăng Tử có nói: "Thận chung truy viễn, dân đức quí hậu hĩ." Nay các ông không thờ tổ tông là cớ làm sao?
Đáp: Muốn rõ lẽ ấy, trước phải hiểu nghĩa chữ tổ tông là gì. Chữ tổ là "bổn" cội, tông là "côn" rễ; cội rễ của loài người gọi là tổ tông. Nay bắt từ bổn thân ta mà kể lên cho đến nguyên tổ, rồi hỏi ai sanh ra nguyên tổ của loài người? Ai cũng phải trải lời: Ấy là Trời sanh ra. Vậy, đã biết Đức Chúa Trời là Cội Rễ và Tổ Tông của loải người thì kính thờ Đức Chúa Trời tức là kính thờ tổ tông, không kính thờ Đức Chúa Trời tức là quên bỏ tổ tông vậy.
Sách Nho có câu: "Mộc hữu bổn, thủy hữu nguyên." Cây không rễ không sanh ra nhành lá, nước không nguồn thì cạn dòng. Loài người không có nguyên tổ lấy đâu mà sanh người đời nay? Các ông thờ lạy tổ tông được mấy đời? Thờ trong nhà chẳng qua được hai ba đời, trong họ chẳng qua đôi mươi đời, trước đôi mươi đời đó, há không có tổ tông xa hơn nữa sao? Nếu không có tổ tông xa, ai sanh ra tổ tông gần? Thế mà các ông chỉ thờ tổ tông gần, chớ không thờ tổ tông xa, thì có hiệp lẽ chăng?
Nói cho hết lẽ, chớ thật không có thể thờ hết thảy bao nhiêu đời tổ tông của loài người được. Vả, theo điều răn của Đức Chúa Trời ngoài Ngài ra, không nên thờ ai cả. Cho nên chúng tôi chỉ thờ một mình Đức Chúa Trời, là Tổ Tông của tổ tông chúng ta.
Đây xin cắt nghĩa mấy chữ "Thận chung truy viễn" là thế nào. Thận chung nghĩa là khi cha mẹ lâm chung, làm con phải hết lòng cẩn thận, trông nom cho cha mẹ qua đời êm ái, sau đó, phải chôn cất hẳn hoi. Truy viễn nghĩa là tưởng nhớ công ơn và noi theo lời dạy bảo của tổ tông, cha mẹ. Các ông chỉ thờ tổ tông đôi mươi đời, không gọi là truy viễn được. Muốn truy viễn, phải truy đến Cội Rễ của loài người. Cội Rễ ấy là Ai? Là Đức Chúa Trời vậy.
Vả, các ông lấy sự cúng giỗ để tỏ lòng hiếu kính tổ tông, nhưng tiếc thay, khi cha mẹ còn sống, lắm người bận việc sĩ, nông, công, thương, hoặc sa đắm tửu, sắc, yên, đổ, bỏ cha mẹ già yếu ở nhà, mưa mai không biết, nắng chiều nào hay, đồ ngon ngọt cũng không, lễ thần hôn cũng thiếu! Một mai cha mẹ qua đời, liệm cứng vào hòm, thắp hương đèn, đốt vàng mã, đặt bò, heo trước quan tài, rồi vái rằng: "Vong hồn cha mẹ sống thì khôn, thác thì thiêng, về hưởng của lễ này."
Làm như thế, các ông cho là tỏ lòng hiếu, thật ra chẳng có hiếu gì trong đó. Vì đồ cúng dọn ra chẳng thấy ông bà về ăn, để lâu thiu vữa, ruồi bu kiến đậu, nào có ích gì? Nếu tổ tông có về ăn thật, một năm chỉ cúng tế đôi ba lần, còn những ngày khác, tổ tông ăn ở đâu? Chỉ cúng tế tổ tông gần mà thôi, còn tổ tông xa không được cúng tế, há chẳng đói khát sao?
Chúng tôi theo đạo Tin Lành trên chỉ thờ một mình Đức Chúa Trời, dưới hiếu kính cha mẹ, hằng ngày cung hiến sự cần dùng cho cha mẹ khi mạnh khỏe, lo chạy thuốc thang khi già yếu; đến khi cha mẹ qua đời, chôn cất tử tế, và ghi nhớ công ơn luôn luôn. Ấy là chúng tôi thực hành câu "thận chung truy viễn" vậy.
21. Mộc Chủ, Bài Vị
Hỏi: Các ông nói mình thờ Đức Chúa Trời tức là kính tổ tông, mà các ông không lập mộc chủ, bài vị, thì sao gọi là kính tổ tông được?
Đáp: Kính tổ tông hay không chẳng ở sự lập mộc chủ, bài vị, vì bài vị là theo tục lệ bày ra, chớ chẳng phải do mạng lịnh của Chúa. Người đời xưa tế tổ, lấy cháu làm thần thi, kẻ đứng tế kính thần thi như kính tổ. Về sau người ta nói rằng lập thần thi thì thường khi cha mẹ phải lạy con, anh phải lạy em, làm cho luân thường đảo ngược, bèn đổi đi mà lập mộc chủ, bài vị. Vậy, biết rằng lễ nghi của người ta đặt ra, rất dễ thay đổi tùy ý mình. Hai điều ấy không nên cả, song đem so sánh, thì lập thần thi còn là huyết mạch của tổ tông, hơi có ý nghĩa, chớ như mộc chủ, bài vị là một khúc gỗ, là vật vô linh tánh, đem mà thay vì tổ tiên, còn có ý nghĩa gì?
Không nên lập mộc chủ, bài vị vì có khi xúc phạm tổ tiên. Thường thấy nhiều nhà bày mộc chủ, bài vị ra giữa bàn thờ, bụi bậm dính vào, mạng nhện giăng bủa, lâu ngày đen như mò hóng, trong rất tồi tệ. Lại có nhà trước giàu, sau nghèo, khi giàu thì sắm khám để mộc chủ tổ tiên ở trong, khi nghèo thì bán cả khám, đem mộc chủ đi gởi bà con hàng xóm. Chúng tôi là người có đạo thật, chỉ coi những vật ấy như khúc gỗ, dầu thế nào nữa, cũng chẳng lấy làm quan trọng; còn các ông đã nhận mộc chủ, bài vị là nơi vong linh tổ tiên mình nương tựa, trông thấy quang cảnh ấy, há chẳng lấy làm thương tâm lắm sao? Tổ tông vẫn nên nhớ, nên kính, song nên kỷ niệm trong lòng mình, chớ không nên lập mộc chủ, bài vị mà thờ.
Không nên lập mộc chủ, bài vị vì có khi xúc phạm tổ tiên. Thường thấy nhiều nhà bày mộc chủ, bài vị ra giữa bàn thờ, bụi bậm dính vào, mạng nhện giăng bủa, lâu ngày đen như mò hóng, trong rất tồi tệ. Lại có nhà trước giàu, sau nghèo, khi giàu thì sắm khám để mộc chủ tổ tiên ở trong, khi nghèo thì bán cả khám, đem mộc chủ đi gởi bà con hàng xóm. Chúng tôi là người có đạo thật, chỉ coi những vật ấy như khúc gỗ, dầu thế nào nữa, cũng chẳng lấy làm quan trọng; còn các ông đã nhận mộc chủ, bài vị là nơi vong linh tổ tiên mình nương tựa, trông thấy quang cảnh ấy, há chẳng lấy làm thương tâm lắm sao? Tổ tông vẫn nên nhớ, nên kính, song nên kỷ niệm trong lòng mình, chớ không nên lập mộc chủ, bài vị mà thờ.
22. Đốt Giấy Tiền, Vàng Bạc
Hỏi: Vẫn biết giấy tiền, vàng bạc đã đốt rồi, không biến ra tiền bạc được, song làm như thế để tỏ lòng hiếu thảo, thì có hại gì?
Đáp: Các ông nói thế hèn chi thiên hạ chê chúng tôi rằng: "Người theo đạo Tin Lành chẳng biết hiếu là gì. Cha mẹ chết, không đốt được một tờ giấy." Thế là các ông lấy sự đốt giấy làm hiếu, và chỉ chúng tôi không đốt giấy là bất hiếu. Song trái lại, đốt giấy mới là bất hiếu đó. Vả, đời xưa chưa bày ra giấy tiền, vàng bạc, lấy gì mà đốt? Các thánh hiền như Nghiêu, Thuấn, Khổng, Mạnh, đều là bất hiếu hay sao? Thầy Mạnh có năm tội bất hiếu: 1) Lười biếng, chẳng nuôi nổi cha mẹ; 2) Cờ bạc rượu chè, chẳng nuôi nổi cha mẹ; 3) Chăm của cải, vợ con mình, chẳng nuôi nổi cha mẹ; 4) Buông lung theo ham muốn của tai mắt, làm nhục đến cha mẹ; 5) Ưa đánh nhau với người khác, làm nguy đến cha mẹ. Ông chẳng hề nói không đốt giấy là bất hiếu. Không vâng lời thánh hiền, không noi đạo tiên vương, lấy ý riêng mình bày ra sự đốt giấy tiền, vàng bạc để phỉnh dối cha mẹ, tổ tiên, ấy mới là bất hiếu. Nên biết rằng người ta chết rồi, mỗi linh hồn đều chịu thưởng phạt trước mặt Đức Chúa Trời: Hễ ai tin Đức Chúa Giê-xu Christ, thì được lên Thiên đàng; ai không tin Chúa và làm dữ, phải xuống hỏa ngục. Ở Thiên đàng hưởng phước đời đời, chẳng dùng tro giấy ấy làm gì; ở hỏa ngục chịu khổ đời đời, tro giấy ấy cũng không ích lợi gì cho kẻ đó. Vả lại, người sống ở đời có thân thể, phải dùng những vật hữu hình, phải dùng tiền để sắm ăn, sắm mặc và giữ gìn mạng sống. Còn như chết rồi, thân thể chôn dưới đất, chỉ có linh hồn là thể vô hình, bấy giờ không còn ăn uống, cưới gả nữa, dùng tiền làm gì? Thế thì đốt giấy tiền chỉ là lãng phí vô ích. Có lắm người đốt giấy tiền chẳng phải vì lòng hiếu thảo đâu, nhưng thật cốt để cầu phước, muốn tổ tông phù hộ cho làm ăn thạnh lợi, con cháu giàu sang đó thôi. Muốn thế mà làm như thế, là sai lầm lắm. Thử nghĩ, lúc ông cha còn sống, vẫn muốn con cháu được thạnh vượng giàu sang, nhưng chưa chắc đã làm được y như ý nguyện. Rất đỗi có khi thấy con cháu đau yếu gần chết, lòng rất đau thương, mà cũng không biết làm thế nào cứu được. Vả, khi còn sống, mắt thấy, tai nghe, miệng nói, mà còn chẳng giúp cho con cháu khỏi nghèo, khỏi chết thay, huống chi khi đã chết rồi, làm thế nào phù hộ được? Sách Luận ngữ có câu: "Chết sống có mạng, giàu sang ở Trời," chớ chưa từng nghe chết sống, giàu sang do đốt giấy bao giờ. Hơn nữa, làm người ở đời, không tin nhận Đức Chúa Giê-xu Christ, chẳng chăm làm lành, mà chỉ theo sự giả dối để cầu phước, thật là thiếu suy xét quá.
23. Thế Nào Là Hiếu Thật
Hỏi: Nói tóm lại, sự thờ cúng tổ tiên là một điều hiếu, bỏ đi sao được?
Đáp: Thầy Tăng Tử nói rằng: "Giết trâu tế mộ chẳng bằng giết con gà, con heo lúc cha mẹ sanh tiền." Vì cha mẹ chết rồi, có tế trâu, cũng không ăn được; chi bằng có lòng hiếu thảo lúc cha mẹ còn sống, con gà cũng đủ làm vui. Thế mà có một số người cứ ở bạc lúc cha mẹ sanh tiền, ở hậu lúc cha mẹ quá cố, như tục ngữ có câu: "Sống một miếng chẳng cho ăn, chết làm văn tế ruồi," thật là lạ lắm. Cái hiếu của người theo đạo Tinh Lành chẳng ở sự cúng tế suông, mà ở hành vi thiết thực. Đương khi cha mẹ còn, thì phụng dưỡng cho đẹp lòng người, thảo thuận cho vừa ý người; nếu cha mẹ chưa tin Đức Chúa Giê-xu, thì điều cần yếu nhứt là khuyên lơn người tin Chúa để được cứu rỗi linh hồn. Khi cha mẹ qua đi, thì sự khâm liệm, an táng, tùy gia phong kiệm mà làm cho phải lẽ. Không chuộng những thầy quẻ, thầy địa, coi ngày giờ, tìm long điểm huyệt, cùng các nghi lễ giả dối vô ích. Còn phần mộ người thì năng đi thăm viếng; nếu có hư hỏng thì sửa sang. Vả, thế nào là hiếu thật? Cha mẹ hiền, mình phải noi theo chí người, ấy là "đạt hiếu" như Võ vương đời xưa. Cha mẹ chẳng hiền, mình phải tránh bỏ điều lỗi của người, ấy là "đại hiếu" như vua Thuấn đời xưa. Do lòng hiếu ấy mà ở tử tế cùng anh em, làm ơn cho họ hàng, rồi do yêu bà con mà đem lòng yêu người xa lạ, làm nên công nghiệp lớn, có ích lợi cho quốc gia, xã hội. Cái hiếu ấy đem so sánh với cái hiếu cúng tế tổ tiên, rõ ràng thật, giả khác nhau như trời với vực.
24. Không Lạy Xác Chết
Hỏi: Nghe những lời biện luận đó, sự không thờ mộc chủ, không đốt giấy, cũng có lý. Song khi cha mẹ chết, đã khâm liệm rồi, con cháu phải lạy để tỏ lòng thương tiếc mới phải; các ông không lạy là cớ làm sao?
Đáp: Sau khi cha mẹ qua đời rồi, linh hồn lìa khỏi thể xác, hoặc vào Thiên Đàng để được cứu rỗi, hoặc sa xuống địa ngục nếu còn mang lấy tội khiên. Còn thi hài để lại đó, không cử động, hay biết gì nữa, lạy mà làm chi? Dầu con cháu lạy mòn đầu gối đi nữa, người chết đó cũng không hề động lòng thương xót mà trả lời. Vả, lúc cha mẹ còn sống, nếu các ông muốn lạy, cũng không lạy người khi đương ngủ. Khi ngủ, linh hồn vẫn còn trong thân thể, các ông còn chẳng lạy thay, huống chi khi chết rồi, linh hồn đã ra khỏi thề xác, không còn cảm biết chi hết, thì lạy làm gì?
25. Đức Chúa Trời
Hỏi: Các ông theo đạo Tin Lành, kính thờ Đức Chúa Trời; vậy Đức Chúa Trời là Ai?
Đáp: Đức Chúa Trời chẳng phải là trời, chẳng phải là đất, chẳng phải lý, chẳng phải khí, chẳng phải tánh, chẳng phải người, chẳng phải vật, chẳng phải quỉ thần, bèn là Đấng Chủ Tể dựng nên trời, đất, muôn vật và loải người. Ngài làm Chúa của muôn dân, Vua của muôn vua, không đầu tiên, không cuối cùng, trọn tài, trọn tri, trọn lành, chí tôn, không ai sánh kịp. Xin nghĩ: Con có cha, nhà có chủ, nước có vua, sông có nguồn, thân thể có đầu, cây có rễ. Nếu con không có cha, bởi ai sanh dưỡng? Nhà không có chủ, lấy ai chủ trương? Nước không vua, lấy ai cai trị? Sông không nguồn, phải tắt. Thân thể không đầu, sống sao được? Cây không rễ, ắt phải khô héo. Không có Đức Chúa Trời, ắt cũng không có trời đất, loài người và muôn vật. Người quân tử xem ngọn biết gốc, xét lẽ biết nguồn, nên hễ thấy trời, đất, muôn vật và loài người, phải biết có một Đấng Tạo Hóa, tức là Đức Chúa Trời, không còn hồ nghi chi nữa.
26. Đức Chúa Trời Trọn Tài, Trọn Trí, Trọn Lành
Hỏi: Sao có thể nói rằng Đức Chúa Trời là Đấng trọn tài, trọn trí, trọn lành?
Đáp: Đức Chúa Trời từ trong hư không mà dựng nên trời, đất, muôn vật, không dùng tài liệu, không nhọc lòng, nhọc sức, dạy có liền có, dạy nên liền nên, bảo sanh ra liền sanh ra, bảo chết liền chết, cho nên xưng Ngài là trọn tài. Đức Chúa Trời không những dựng nên trời, đất, muôn vật, mà lại biết mọi đặc tánh của muôn vật trong trời đất nữa. Bởi vậy, Ngài mới có thể sắp đặt muôn vật cho đúng chỗ và giữ gìn muôn vật lâu dài. Sự lành, dữ của muôn dân thiên hạ, cùng ý tưởng kín giấu trong lòng mọi người, Ngài đều biết rõ cả, nên xưng Ngài là trọn trí. Đức Chúa Trời là Gốc muôn sự lành, là Nguồn muôn sự tốt, không kém thiếu chút nào; sự đẹp đẽ của trời, đất, muôn vật đều bởi Đức Chúa Trời mà đến, cho nên xưng Ngài là trọn lành
27. Đức Chúa Trời Dựng Nên Người Dữ
Hỏi: Đức Chúa Trời là Đấng trọn lành, sao lại dựng nên có kẻ dữ?
Đáp: Đức Chúa Trời là Đấng Chân Thần, phú tánh cho người ta vốn là tốt. Ấy như thầy Mạnh Tử nói rằng: "Tánh người vốn lành, cũng như tánh nước hay chảy đến chỗ thấp. Không có người nào là người chẳng lành, không có nước nào là nước chẳng chảy đến chổ thấp." Đức Chúa Trời lại ban cho người có tự chủ, chọn lành hay theo dữ là tùy ý mỗi người. Vì có tự chủ ấy, nên vẫn biết khen điều lành, chê điều dữ; nếu chẳng có tự chủ, thì có thiết gì tu đức, lập công? Người làm dữ là bởi quyền tự chủ mình, chớ chẳng phải Đức Chúa Trời dựng nên có người dữ đâu. Ví như cha mẹ sanh con, ai cũng muốn cho hiền lành, tử tế. Song ngộ có đứa ngỗ nghịch, chẳng vâng lời dạy dỗ, ấy là tại nó, chớ cha mẹ có hề muốn vậy đâu.
Có người lại hỏi: Vì cha mẹ trần gian không có quyền, nên dầu muốn con nên người, cũng khó được; còn Đức Chúa Trời là Đấng Toàn Năng, không việc chi làm chẳng được, sao chẳng khiến loài người trở nên tốt, đúng như ý chỉ trọn vẹn của Ngài.
Đáp.- Dầu Đức Chúa Trời có quyền làm mọi sự, song Ngài không muốn coi chúng ta như nô lệ, bắt ép phải làm điều này hay là điều kia; cũng không muốn đối đãi chúng ta như loài thảo mộc vô tri, đặt đâu ở đó, khiến sao hay vậy; nhưng Ngài coi loài người cao quí hơn vạn vật, vì đã ban cho linh tánh, ý chí, quyền tự chủ, lương tâm biết phân biệt điều thiện, điều ác, tự do lựa chọn mỗi người một đường. Và đến ngày cuối cùng, ai nấy sẽ được thưởng hay bị phạt tùy theo công việc mình đã làm lúc sanh tiền.
28. Chân Thần Sinh Ra Thú Dữ
Hỏi: Chân Thần là Đấng Trọn Lành, sanh ra muôn vật để nuôi người, sao lại sanh những loài thú dữ, loài rắn, loài sâu để hại người như vậy?
Đáp: Những loài thú dữ, loài rắn và loài sâu ấy tuy làm hại người mà cũng làm ích cho người. Sự hiểu biết của chúng ta hẹp hòi, nên không rõ sự ích lợi của nó. Tỉ như xương cọp, mật gấu, rắn rít, bò cạp, có khi dùng làm thuốc chữa bịnh. Đấng Chân Thần đã tạo nên nó, để càng tỏ rõ quyền năng của Ngài và vẻ tốt đẹp trong trời đất. Ví như có sáng, không tối, thì làm sao thành ngày, đêm? Có trắng, không đen, thì sao chia được năm sắc? Có ngọt, không đắng, thì sao chia được năm mùi? Cho nên muôn vật, không luận lớn, nhỏ, tốt xấu, đều làm ích cho ta; có loài thú lành để giúp ta làm lành mà được thưởng, có loài thú dữ để răn ta làm dữ mà bị phạt; chỉ tại mình không tìm xét lẽ ấy mà thôi.
Kinh Thánh có chép rằng: “Vì muôn vật đều là từ Ngài, bởi Ngài, và hướng về Ngài, vinh hiển cho Ngài đời đời vô cùng!” (Rô Ma 11:36)
Vả, lúc ban đầu, mọi loài thú vật phục tòng người, sau vì người phạm tội, không phục tòng Đức Chúa Trời, nên một số thú vật biến đổi ra hung dữ và làm hại người. Sau nầy trong Nước Hòa Bình do Đức Chúa Giê-xu thành lập trên mặt đất, các thú dữ lại đổi ra hiền lành và phục tòng người ta.
29. Một Chúa Cai Quản Cả Trời Đất Muôn Vật
Hỏi: Theo lời các ông nói, chỉ có một Đức Chúa Trời. Vả, trời đất rộng như thế, muôn vật nhiều như thế, một mình Chúa cai trị sao nổi?
Đáp: Trời đất muôn vật chỉ có một Chúa thôi, cũng như nước chỉ có một vua, nhà chỉ có một chủ, thân thể chỉ có một cái đầu. Nếu nước có hai vua, thì nước loạn; nhà có hai chủ, thì nhà phải chia rẽ; thân thể có hai đầu, thì thành ra quái vật.
Thầy Mạnh Tử nói rằng: “Trời không có hai mặt, dân không hai vua.” Bởi đó suy ra, trời đất chỉ có một Chúa Chí Tôn mà thôi, không thể có hai được.
Có người lại nói: Phải, trong nước chỉ có một vua, nhưng cũng phải có bá quan để vua trị nước; thế thì dẫu chỉ có một Đức Chúa Trời, cũng cần có các thần khác để giúp Ngài cai quản vũ trụ chớ!
Xin đáp.- Vua dưới đất không thể sánh với Chúa trên trời được; vì vua cũng là người, không thể ở khắp mọi nơi, hiểu hết mọi sự, làm được mọi việc, nên cần phải nhờ bầy tôi làm tai, mắt, vi, cánh để cai trị đất nước. Nhưng Đức Chúa Trời là Chúa Cao Cả, là Đấng Toàn Năng, biết thấu hết mọi sự, làm được mọi việc, ở khắp mọi nơi, nghe, thấy các việc nhỏ, lớn, kín giấu hay tỏ tường, như thánh hiền có câu rằng: “Đức Chúa Trời coi người, người đừng hai lòng” và “Người đời nói riêng, Trời nghe như sấm.” Như vậy, cần gì có thần khác làm tai, mắt cho Ngài để cai trị trời đất? Một mình Ngài cai quản và bảo tồn vũ trụ cho đến ngày nay, theo quyền phép tối thượng của Ngài. Chúng ta đáng nên thờ phượng một mình Ngài mà thôi, không cần thờ thần nào nữa.
30. Chân Thần Bởi Đâu Sanh Ra?
Hỏi: Trời đất, muôn vật đều bởi Chân Thần tạo nên, vậy chỉ có một Chúa, lẽ ấy rõ rồi. Nay xin hỏi: Chân Thần bởi đâu sanh ra?
Đáp: Chân Thần là Nguồn Gốc của mọi loài, song tự mình không có nguồn gốc; là Đầu Tiên của muôn vật, song tự mình không có đầu tiên. Nếu Chân Thần còn phải sanh ra bởi một Đấng nào, thì không phải là Chân Thần độc nhất vô nhị nữa.
Vả, Đức Chúa Trời sanh ra muôn vật, bắt từ muôn vật mà kể lên đến Đức Chúa Trời, ấy là cùng tột, hết chỗ kể rồi. Vậy hỏi ai sanh ra Đức Chúa Trời, thật là vô lý. Ví như đếm số: vạn từ số ngàn, ngàn từ số trăm, trăm từ số chục, chục từ số một; số một là đầu của các số, không thể hỏi còn số gì trên số một được. Lại như xem cây, hoa, lá ra bởi nhành, nhành ra bởi thân cây, thân cây ra bởi rễ, rễ tức là cội của cây, nhành, hoa lá; không thể hỏi dưới rễ còn gì nữa, vì là tột rồi. Cũng một thể ấy, Đức Chúa Trời như là số một của các số, rễ của cả cây, có lẽ nào còn hỏi được rằng: Ai sanh ra Đức Chúa Trời?
Nay thử xét phổ hệ của loài người: Người ta sanh ra bởi cha mẹ, cha mẹ sanh ra bởi ông bà, ông bà sanh ra bởi cố, cứ thế mà kể lên mãi đến ông kỵ và đến cao cao tổ, viễn viễn tổ, ở đời thượng cổ, chắc không thể kể hết được. Rốt lại, phải chịu rằng khi mới dựng nên trời đất, chắc có một người nam và một người nữ, rồi lần lần sanh hạ đông đúc thế nầy; người nam và người nữ ấy là nguyên tổ của loài người. Nguyên tổ ấy bởi ai sanh ra? Thưa, do Đức Chúa Trời tạo nên. Vậy thì Chân Thần không những là Cội Rễ của trời, đất, muôn vật, mà cũng là Tổ Tông của loài người; dường ấy, người ta không kính thờ Ngài sao nên?
31. Chân Thần Không Có Cuối Cùng
Hỏi: Chân thần không có đầu tiên, nhưng làm Đầu Tiên của muôn vật, thì đã rõ rồi. Xin hỏi: Chân Thần không có cuối cùng là nghĩa làm sao?
Đáp: Phàm vật gì đã có cuối cùng, ắt phải có đầu tiên. Như xác thịt của loài người và của cầm thú, đã có sanh ra, thì có chết. Nhưng Chân Thần là Đấng không hình, không tượng, đã không có đầu tiên, thì không có cuối cùng. Vậy, chúng ta nên xưng Ngài là Đấng trọn tài, trọn trí, vô thủy, vô chung, hằng sống đời đời vô cùng.
32. Không Nhìn Thấy Chân Thần Ðược
Hỏi: Có người nào đã thấy Đức Chúa Trời chăng?
Đáp: Nên biết rằng Đức Chúa Trời mà chúng tôi thờ lạy chính là Đức Thượng Đế mà các sách Tứ Thư, Ngũ Kinh hay nói đến. Đức Chúa Trời không hình, không tượng, như Kinh Thi chép rằng: “Các việc trên trời không tiếng, không hơi.” Lại sách Trung Dung có chép: “Xem mà chẳng thấy, lắng mà chẳng nghe, cho nên người quân tử răn giữ chổ mình chẳng thấy, e sợ chổ mình chẳng nghe.” Nếu chẳng có một Đấng Chân Thần không hình, không tượng, vậy chỗ nguời quân tử răn giữ, e sợ đó là gì? Vả, lấy lẽ mà suy, dầu không thấy, cũng phải tin có Đấng Chân Thần Chủ Tể; cũng như ta dầu chưa thấy tổ tông mình đời trước, song há dám bảo rằng đời trước không có tổ tông sao?
Người thông sáng chỉ suy lẽ mà biết đền cội rễ. Như thấy nhà biết có người thợ xây dựng; thấy sáng, biết có mặt trời; thấy khói, biết có lửa; thấy pháp luật trong nước, biết có chánh phủ; thấy trời, đất, muôn vật, biết có Đức Chúa Trời. Giả sử không có tổ tông, làm sao có con cháu? Không có thợ, làm sao có nhà? Không có mặt trời, chắc chắn không có ánh sáng; không lửa chắc không khói; không chánh phủ, chắc không có pháp luật. Cũng vậy, nếu không có Đức Chúa Trời, thì trời, đất, muôn vật bởi đâu mà có?
Kinh Thánh chép rằng: “Kẻ ngu dại nói trong lòng rằng: Không có Đức Chúa Trời” (Thi thiên 14:1). Nguời khôn lấy lẽ mà suy, hễ hữu lý thì tin, vô lý thì không tin. Như người Việt Nam ta ai cũng công nhận Hùng Vương là tổ của nước mình, song có ai đã từng thấy Hùng Vương chưa? Chỉ lấy sử ký làm chứng, lấy lý mà suy, và tin quyết có Hùng Vương vậy. Nay nói rằng có một Chân Thần, tức là Đức Chúa Trời cai quản cả trời, đất, người, vật ấy là lấy lý mà suy, lấy Kinh Thánh làm chứng mà tin rằng có. Người khôn ngoan há không tin như vậy sao?
33. Đức Chúa Trời Tức Là Thượng Đế
Hỏi: Nước Việt Nam xưa nay sùng thượng đạo Nho, trong sách Nho chưa hề nói đến Đức Chúa Trời là Chân thần, sao các ông lại bày đặt ra như vậy?
Đáp: Trên kia đã nói, Đức Chúa Trời mà chúng tôi thờ lạy đó tức là Thượng Đế mà trong các sách Tứ Thư, Ngũ Kinh hay nói đến. Còn danh hiệu Chân Thần thì nghĩa cũng không khác gì danh hiệu Thượng Đế. Vì thế gian có nhiều thần giả, nên thêm chữ “Chân” để biết riêng ra mà xưng là Chân Thần; vua các nước lớn xưng là đế, nên thêm chữ “Thượng” để tôn Ngài mà xưng là Thượng Đế.
Kinh Thi lại có câu: “Khắc phối Thượng Đế.” Thầy Chu Tử giải rằng: “Thượng Đế là Đấng Chủ Tể trên trời.” Kinh Thi lại chép: “Hữu Hoàng Thượng Đế.” Thầy Trình giải rằng: “Nói về hình thể, thì gọi là Trời; nói về quyền chủ tể, thì gọi là Thượng Đế.” Hai lời giải ấy cùng một nghĩa với danh hiệu Chân Thần; bởi vậy, Đấng Chân Thần mà chúng tôi kính thờ ngày nay tức là Đức Thượng Đế mà các thánh hiền kính thờ đời xưa.
Tiếc thay, người đời hay phạm điều răn thứ ba của Chúa, lấy danh Ngài làm chơi, thật là tội lớn lắm. Có kẻ xưng Ngọc Hoàng là Thượng Đế, có kẻ xưng Chân Vũ là Thượng Đế, có kẻ xưng Lão Quân là Thượng Đế, có kẻ xưng Hiệp Thiên là Thượng Đế; cho nên chúng tôi phải dùng danh hiệu Chân Thần để phân biệt với các tà thần. Vả, Lão Quân sanh đời nhà Châu, Ngọc Hoàng sanh đời nhà Hán. Hiệp Thiên sanh đời Hậu Hán, Chân Vũ đến đời triều Minh mới phong. Những người ấy đều có sống, có chết, là người thường như chúng ta, có lẽ nào xưng là Thượng Đế được? Trước khi sanh các ông ấy ra, đã có trời, đất, muôn vật, thì làm chủ tể trời, đất, muôn vật sao được?
Xét trong Ngũ Kinh, Tứ Thư, chỉ thấy các bậc Thánh hiền kính thờ Đức Thượng Đê, chớ chưa thấy ai thờ Lão Quân, Ngọc Hoàng, là các tà thần. Như trong Kinh Thi có chép lời vua Thang nói rằng: “Ta sợ Đức Thượng Đế,” và lời Võ Vương nói rằng: “Ta kính vâng Đức Thượng Đế để ngăn loạn lạc.” ông Khổng Tử nói rằng: “Lễ tế giao, tế xã để thờ Đức Thượng Đế.” Còn nhiều câu nói đến Thượng Đế nữa, không thể kể hết, chỉ dẫn sơ mấy câu để làm chứng rằng các bậc thánh hiền ấy chỉ kính thờ, tin cậy một Đấng Chân Thần Thượng Đế mà thôi, và cũng tỏ ra rằng chúng tôi tin đạo thật, thờ Đức Thượng Đế, tức là Đức Chúa Trời, là hiệp theo lời dạy của thánh hiền vậy.
34. Thiên Đàng, Hỏa Ngục
Hỏi: Các ông tin có Thiên Đàng là nơi hạnh phước để thưởng người lành, có hỏa ngục là nơi cực khổ để phạt người dữ, song trong sách Ngũ Kinh, Tứ Thư không hề nói đến hai nơi đó; vậy tại sao các ông lại tin?
Đáp: Người đời nay đọc sách đời xưa, không chịu xét cho rõ nghĩa, rồi nói rằng người đời xưa chưa hề nói đến Thiên Đàng, hỏa ngục, ấy là lầm to. Nay hãy xem Kinh Thi nói rằng: “Tam hậu tại thiên” lại nói rằng: “Văn vương trắc, giáng tại Đế tả hữu.” Nghĩa hai câu ấy là: ”Ba vua ở trên trời,” và: “Văn vương lên xuống ở bên tả, bên hữu Thượng Đế,” tức là nói về Thiên Đàng đó. Vì nơi tốt đẹp, vui vẻ trên trời không lấy gì mà đặt tên được, nên gọi là Thiên Đàng để tỏ ý được phước. Xem các câu sách dẫn trên đây, đủ biết người đời xưa đã nhận là có Thiên Đàng rồi.
Có Thiên Đàng thì phải có hỏa ngục, vì hễ có thưởng, tất nhiên phải có phạt. Những người tôn thờ Đức Chúa Trời và tin nhận Đức Chúa Giê-xu đã được lên Thiên Đàng rồi, còn những người gian ác, vô đạo há cũng lên Thiên Đàng sao? Chắc phải xuống hỏa ngục chớ. Hỏa ngục là nơi ma quỷ và linh hồn những kẻ dữ bị hành phạt đời đời không hề giảm bớt, không hề thoát khỏi.
35. Linh Hồn Bất Diệt
Hỏi: Người ta chết như đèn tắt, có linh hồn đâu để mà được thưởng hay chịu phạt?
Đáp: Người ta khác với loài cầm thú vì có linh hồn. Linh hồn bởi Đấng Chân Thần phú cho, người ta nhờ nó mà có sự hay biết và phân biệt điều lành, điều dữ. Linh hồn ở trong thân thể cũng như người trong nhà; khi linh hồn lìa khỏi, thì thân thể tan nát, mà linh hồn cứ còn mãi. Nếu nói khi người ta chết, linh hồn bèn tiêu tan, thế thì người làm lành được ích gì và người làm dữ bị hại gì? Vậy, làm lành sao bằng làm dữ còn hơn?
Xưa kia ông Nhan Hồi làm lành mà chết yểu, Đạo Chích làm dữ mà sống lâu, nếu nói không có linh hồn, còn ai thiết làm lành như Nhan Hồi? Có kẻ nói rằng người ta làm lành không phải vì linh hồn, nhưng là vì danh tiếng để muôn đời. Nhưng thân nầy chết thành ra đất, dầu có danh tiếng ngàn thu đi nữa, há có bù lại được cái khổ lúc sinh tiền sao? Hơn nữa, ta thường thấy kẻ lành bị cực khổ, kẻ dữ được sung sướng; nếu nói không có linh hồn, thì ra sau khi chết không có báo ứng, há chẳng phải cho người ta tự do làm dữ hay sao? Vậy nên phải tin rằng linh hồn bất diệt, và lưới Trời không sao lọt được.
Người đời không biết sự báo ứng cho linh hồn, nên khi làm lành, thì mong được báo trả cho phần xác và cho con cháu mình; nếu không được như vậy, ý chí làm lành của họ nguội lần, rồi có khi đổi ra làm ác. Lỗi tại không biết mình có linh hồn.
36. Thiên Sứ, Ma Quỉ, Và Linh Hồn Người Ta
Hỏi: Người ta chết làm ma quỉ, ma quỉ cũng có thể đổi kiếp làm người ta, cái lẽ ấy có thật không?
Đáp: Thiên sứ, người ta, và ma quỉ là ba loài khác nhau; nhiều người không rõ căn do, hay nói lẫn lộn. Thiên sứ và ma quỉ đều không hình, không tượng. Trước khi Đức Chúa Trời dựng nên loài người, đã dựng nên các thiên sứ để sai khiến. Trong hàng thiên sứ, có một vị tên là Satan, cậy mình tài năng rất cao, sanh lòng kiêu ngạo, đã kết đảng làm phản Chúa. Đức Chúa Trời bèn phạt cả đảng thiên sứ kiêu ngạo đó, bắt sa xuống hỏa ngục chịu khổ đời đời, tức là ma quỉ. Còn các vị thiên sứ khác không vào đảng phản nghịch ấy, thường được chầu trước mặt Đức Chúa Trời.
Sau khi Đức Chúa Trời phạt đảng ác quỉ ấy rồi, Ngài mới dựng nên loài người giống như hình ảnh của Ngài: Một người nam tên là A-đam, và một người nữ tên là ê-va. Ngài đã tạo nên thân thể, và hà hơi sống cho; do đó, người trở nên một loài sanh linh, tức là có linh hồn. Đức Chúa Trời truyền dạy loài người phải kính mến và vâng lời Chúa, sẽ được hưởng phước vô tận. Nếu ai rời bỏ Chúa và làm dữ, khi chết rồi, linh hồn phải sa xuống hỏa ngục, là chổ Đức Chúa Trời sắm sẵn cho ma quỉ, để chịu khổ đời đời, chớ không được đầu thai chuyển kiếp nữa đâu.
Lai lịch của thiên sứ, ma quỉ, và linh hồn người ta là như thế.
37. Ma Quỉ Ở Thế Gian
Hỏi: Những người tà thuật xưa nay hay làm được nhiều điều quái lạ, nếu chẳng có ma quỉ giúp cho, chắc không làm được như thế. Vậy, biết ma quỉ vẫn ở thế gian này cám dỗ người ta, sao Chúa không cấm nó đi, bắt phải ở luôn dưới hỏa ngục?
Đáp: Vì kỳ hạn Chúa phạt ma quỉ chưa đến, nên Chúa cho nó ở tạm thế gian, đi dông dài mọi nơi để cám dỗ người theo tà, hay rèn thử người theo chánh; chủ ý nó muốn hãm hại loài người, hầu chung số phận sau cùng với nó. Nhưng Đức Chúa Trời là Đấng Toàn Năng, dùng dịp ấy để làm ích lợi cho người ta như sau đây:
1. Nhiều người không tin có ma quỉ; vậy, khi ma quỉ nhập thân người mà làm việc kỳ quái, thì họ mới nhận ra rằng có ma quỉ. Và, hễ nhận có ma quỉ, ắt phải tin có Đấng Chân Thần; thành thử nhờ vậy mà người ta tỉnh thức, tránh ma quỉ để tìm kiếm Đức Chúa Trời.
2. Nếu Đức Chúa Trời không tiếc các thiên sứ nghịch mạng mà định chúng phải chịu khổ hình đời đời nơi hỏa ngục, lẽ nào lại bỏ qua không hình phạt kẻ trái nghịch cùng Ngài? Do đó, người đời ăn năn, trở lại thuận hiệp với Chúa.
3. Ma quỉ cũng dùng để rèn thử người làm lành, như lửa luyện vàng, càng luyện, vàng càng cao. Nếu không có ma quỉ cám dỗ, sao biết được ai là người trung thành với Chúa?
Vả, dẫu ma quỉ được phép cám dỗ người ta phạm tội, nhưng không có quyền ép người ta làm ác; nghe nó hay không là tùy lòng của người ta. Hơn nữa, Đức Chúa Trời giúp đỡ người ta đối địch cùng ma quỉ, ban cho lẽ thật Tin Lành và dạy cho họ cách thắng chúng nó. Chúng ta là chiến sĩ của Chúa, ở đời này phải đắc thắng ma quỉ để thẳng đường lên Thiên đàng; vậy nên phải tỉnh thức cầu nguyện, nhờ sức toàn năng của Đức Chúa Trời để khỏi sa vào chước cám dỗ của ma quỉ, và đánh trận tốt lành mà lãnh mão triều thiên sự sống.
38. Sự Công Bình Của Đức Chúa Trời
Hỏi: Đức Chúa Trời rất công bình, hễ thiện thì thưởng, hễ ác thì phạt; vậy, làm sao có người lành lại chịu khổ sở, người dữ lại được sung sướng? Như thế, sự công bình của Ngài ở đâu?
Đáp: Làm lành được thưởng, làm dữ phải phạt, ấy là lẽ nhất định, không nghi ngờ gì nữa. Kinh Thi có chép: “Noi lành thì được lành, theo nghịch thì mắc dữ, như bóng và vong.” Lại rằng: “Đạo Trời xuống phước cho kẻ lành, xuống họa cho kẻ dữ.” Luật thưởng lành, phạt dữ ấy đời nào cũng vậy, khôn hề thay đổi. Song phải biết rằng Đức Chúa Trời xuống họa không phải chỉ ở đời này thôi, song còn hình phạt linh hồn ở đời sau.
Vả, thiện là thể nào, cũng khó biết lắm. Nếu ai không phạm một điều răn nào, từ ý tưởng cho đến lời nói, việc làm đều hiệp ý chỉ Đức Chúa Trời mới gọi là thiện thật, nếu có một chút không hiệp không phải là thiện đâu. Vì vậy, có nhiều việc ta cho là thiện, mà Đức Chúa Trời lại cho là ác, vì Ngài vẫn biết tận đáy lòng. Ta đã không biết rõ thiện, ác, làm sao đoán được thưởng, phạt là sai hay đúng?
Còn lẽ nầy nữa: Đức Chúa Trời xem vinh hoa phú quí và hoạn nạn bần cùng ở đời này chẳng qua là tạm, chứa phải là phước thật hay hoạ thật; phước thật và họa thật là ở đời sau. Vậy nên có người thật gian ác đáng tội, song có một đôi việc lành, Chúa lấy vinh hoa phú quí đời này là phước tạm, mà thưởng cho một đôi việc lành ấy; sau khi người ấy chết, Ngài mới lấy hình phạt đời đời nơi hỏa ngục mà báo trả tội ác cho người.
Trái lại, người tin Chúa rất hiền lành, cũng có đôi chút tội lỗi, Chúa lấy hoạn nạn bần cùng, là họa tạm, mà phạt đôi chút tội lỗi ấy để người tỉnh thức; khi người ấy qua đời, Ngài mới lấy phước thật đời đời nơi thiên đàng mà thưởng cho người. Thế thì, Chúa há chẳng công bình sao? Cho nên có người ác sống được sung sướng, chết rồi chịu khổ hình, và có người tin Chúa sống cam khổ nạn, chết rôi được phước đời đời.
Người đời không rõ lẽ thưởng, phạt thể nào, không biết họa, phước thể nào là thật giả nên oán Đức Chúa Trời không công bình. Nào có biết rằng: Ngọc có giồi mài mới nên của báu, người có khốn cùng, vất vả mới hay kính thờ Đức Chúa Trời và tin nhận Đức Chúa Giê-xu để được thưởng được phước lành nơi Thiên Quốc. Ví như người không học hành, không tài nghệ, mà muốn làm nên danh phận, có thể được sao? Chúng tôi là môn đồ Đức Chúa Giê-xu, lúc sống ở đời lo rao đạo thật, bị bắt bớ, vu cáo, khổ sở đến điều; thế mà chúng tôi cứ nhịn nhục cho đến cuối cùng, ngõ hầu được phước Thiên Đàng đời đời.
39. Sự Nhân Từ Của Đức Chúa Trời
Hỏi: Người ác ở đời thường làm hại người thiện; Đức Chúa Trời là Đấng công bình, sao không giết hết người ác để báo thù cho người thiện?
Đáp: Đức Chúa Trời rất công bình, nhưng cũng rất nhân từ. Sự công bình muốn hình phạt, song sự nhân từ muốn tha thứ. Đức Chúa Trời có lòng hiếu sanh, nên trời đất, muôn vật và loài ngưòi nhờ sự nhân từ của Ngài mà được dựng nên. Đức Chúa Trời lại có quyền thưởng, phạt. Linh hồn mọi người chịu Ngài phán xét, ấy là lúc Ngài thi hành sự công bình. Chúa lấy sự nhân từ đãi người ta, có kẻ gian ác mà Ngài cũng khoan dung, cốt ý mong họ ăn năn, tin nhận Cứu Chúa Giê-xu, bỏ dữ làm lành, hầu cho linh hồn được cứu. Thế mà nhiều người ác châm rễ trong tội quá sâu, dẫu có đạo thật dạy dỗ, đến chết cũng chẳng vâng theo; sau khi họ chết, Chúa bèn lấy sự công bình mà hình phạt họ. Nếu phạt người ác khi còn sống, e có hại cho ngưòi thiện. Vì nếu cha dữ mà sinh con lành, thì phạt cha, ắt con đơn chiếc. Suy ra anh em, vợ chồng cũng vậy. Vì như nhổ cỏ thì hại đến lúa, lể gai thì châm đến thịt; chi bằng chờ khi lúa với cỏ lùng đều lớn lên, lúa thì “thâu trữ vào kho, còn cỏ lùng thì đốt trong lửa chẳng hề tắt.”
Vậy, biết Đức Chúa Trời gồm cả nhân và nghĩa, chúng ta phải cảm ơn Ngài và e sợ hình phạt của Ngài, mau mau tỉnh biết, ăn năn, kính thờ Đức Chúa Trời, tin cậy Đấng Cứu Thế, để linh hồn được cứu rỗi đời đời.
40. Chúa Sinh Người Có Thứ Bậc
Hỏi: Đức Chúa Trời rất công bình, nếu Ngài đem của cải trong thế gian này chia đều cho mỗi ngưòi, để ai nấy như nhau, không có kẻ giàu, người nghèo, há chẳng tốt hơn lắm sao?
Đáp: Đức Chúa Trời sanh loài người, có kẻ giàu, người nghèo, mới thành ra thế giới được. Ngài thường lấy sự nghèo hoặc giàu mà báo trả cách ăn ở của người ta: Nếu người mà giữ gìn lòng thành, làm việc nhân đức, ăn cần ở kiệm, chẳng nài khó nhọc, ắt có thể trở nên giàu được; còn nếu là người giàu mà ăn ở hung ác, hãm hại người lành, buông lung xa xỉ, hoang dâm quá độ, vẫn có thể trở nên nghèo. Sự giàu và nghèo xoay vần như vậy đó.
Đức Chúa Trời sanh chúng ta ra, mỗi người đều có tay, chân, tai, mắt và trí khôn để làm ăn. Trong thế gian có bốn nghề: sĩ, nông, công, thương. Ví bằng Đức Chúa Trời sanh ra người nào cũng giàu cả, ai là kẻ làm thợ và cày ruộng? Không ai làm thợ, thì đồ dùng lấy ở đâu? Không ai cày ruộng, thì thóc lúa lấy ở đâu? Không có đồ dùng và gạo ăn, người ta sẽ như cầm thú. Lại nếu Đức Chúa Trời sanh ra người nào cũng nghèo cả, lấy ai thuê thợ, lấy ai bỏ tiền kinh doanh? Không người thuê thợ, không người bỏ tiền kinh doanh, kẻ nghèo chắc không chỗ nương nhờ và phải khốn cực lắm. Cho nên Chúa khiến có nghèo, có giàu, người giàu có của, kẻ nghèo có công, nương nhau mà sống. Người xưa có nói: “Quân tử nhọc lòng, tiểu nhân nhọc sức,” chớ có lẽ nào lại đem của cải chia đều cho mọi người?
Vả lại, Đức Chúa Trời dựng nên loài người cũng như thợ gốm nắn nên những chậu lớn, nhỏ, tùy theo việc cần dùng. Cái chậu không thể trách thợ gốm rằng: “Sao đã làm nên tôi như vậy?” Vậy thì, Đức Chúa Trời dựng nên người ta có giàu, có nghèo, chúng ta há nên oán trách Ngài sao? Biết thế, mình giàu hay nghèo, hoặc gặp cảnh ngộ nào, đều vui lòng theo ý Chúa. Sách luận ngữ chép rằng: “Người quân tử lo đạo, chẳng lo nghèo,” có ý hay lắm. Ai có ý ấy, để nhận đạo của Đức Chúa Giê-xu.
41. Thờ Lạy Đức Chúa Trời Cách Nào?
Hỏi: Muốn thờ lạy Đức Chúa Trời phải làm thế nào?
Đáp: Thờ lạy Đức Chúa Trời không cần phải xây đền, trổ tượng vì Ngài ở khắp mọi nơi; không cần phải dùng hy sinh, lễ vật và hương đèn vì Ngài rất giàu có. Đức Chúa Trời không ở trong đền do tay người xây cất. Ngài lấy trời làm ngai, lấy đất làm bệ chân, không dùng đến vật người ta cần dùng, nhưng lấy muôn vật ban cho loài người. Bởi vậy, Ngài chỉ thích người ta lấy tâm thần mà thờ lạy Ngài, bất luận chỗ nào, lúc nào cũng được cả.
Vì lòng của mỗi người tự nhiên tội lỗi, ô uế, chẳng xứng đáng làm nơi ngự của Đức Chúa Trời nên trước hết mỗi người phải nhận biết tội lỗi của mình là đáng gớm ghiếc, hết lòng thống hối ăn năn, rồi nhờ công lao huyết báu của Đức Chúa Giê-xu làm giá chuộc tội cho mình. Như vậy, lòng được sạch, nhiên hậu mới lấy đức tin đến gần Đức Thượng Đế mà hòa hiệp với Ngài được. Phải tin cậy Đức Chúa Giê-xu, là Đấng dắt đem người ta đến cùng Đức Chúa Trời. Ngài phán rằng: "Ta là Đường Đi, Lẽ Thật, và Sự Sống; chẳng bởi ta, thì không ai đến cùng Cha" (Giăng 14:6). Từ đó về sau, trước mỗi bữa ăn, phải cảm tạ ơn Chúa nuôi nấng mình; cầu Chúa ban phước cho món ăn, để khi mình ăn vào thì thân thể được mạnh mẽ, hầu làm việc cho hết bổn phận. Hoặc ở trong phòng riêng, chổ thanh vắng, quì xuống mà cầu nguyện. Hoặc cùng người nhà nhóm lại mỗi ngày hai buổi, sáng sớm và ban tối, để hát ngợi khen Chúa và đọc một vài đoạn Kinh Thánh. Xong rồi, một người đứng lên cầu nguyện, còn những người khác thì hiệp một ý cùng nhau. Đến Chúa nhật đi vào nhà thờ, nhóm họp với anh chị em tín hữu, trước thờ phượng Chúa, sau nghe mục sư giảng dạy, tỉnh thức, yên ủi, lại hát ngợi khen và cầu nguyện. Đại khái các thờ lạy Đức Chúa Trời là như thế.
42. Đức Chúa Giê-xu Cao Trọng Hơn Các Thánh Hiền
Hỏi: Đức Chúa Giê-xu có phải là một vị thánh hiền ở ngoại quốc chăng?
Đáp: Danh Giê-xu có nghĩa là "Cứu Thế." Vì Con Đức Chúa Trời xuống thế gian cứu loài người, nên đặt là Giê-xu. So sánh với các thánh hiền, Ngài lại càng tôn trọng hơn bội phần, cứ xem tài năng, sự dạy dỗ, và công lao của Ngài thì biết.
Tài năng.- Dầu thánh hiền có tài hơn quần chúng tột vời, song chỉ là người trần gian, sự khôn ngoan, thông biết có chừng, có hạn, còn có nhiều lẽ mầu nhiệm họ chưa biết rõ ràng. Vả lại, họ đều phải nhờ học mà biết, chẳng phải sanh ra đã biết. Duy Đức Chúa Giê-xu, sanh ra đã có sự khôn ngoan, thông biết như Đức Chúa Trời.
Sự dạy dỗ.- Các thánh hiền dạy người ta sửa mình, lo nhà, trị nước, cùng là cương thường, lễ nghĩa, v.v., đều là việc xử mình, đãi người, và là việc trước mắt. Còn sự thờ phượng Đức Chúa Trời, sự chuộc tội, sự sống lại, sự phán xét thế gian, là những việc thuộc về Chúa và đời sau, họ chưa hề nói đến, cho nên chưa kể là trọn vẹn. Vậy, không sánh với Đức Chúa Giê-xu được, vì các lẽ thánh hiền nói đến, Ngài cũng đã nói đến, còn các lẽ thánh hiền chưa nói, Ngài đã tỏ ra rồi.
Công lao.- Thánh hiền chỉ lấy đạo dạy dân, chỉ lấy thân mình dắt người làm thiện, chớ không thể hy sinh thân mình để cứu người khỏi tội.Đức Chúa Giê-xu lấy đạo dạy cả thiên hạ, lấy thân mình dạy người làm điều thiện, và cũng hy sinh thân mình để chuộc người ta khỏi tội, khiến cho nên thánh và được cứu linh hồn. Ngài chỉ phán một tiếng mà kẻ mù thấy được, kẻ câm nói được, kẻ đau lành mạnh, kẽ chết sống lại, thậm chí biển đương sóng gió cũng yên lặng như tờ. Những việc lạ ấy Đức Giê-xu làm được cả, còn thánh hiền có làm được không? Đức Chúa làm những phép lạ ấy không phải như người khác làm tà thuật đâu; Ngài không làm trong tối tăm mà làm giữa nơi sáng láng; không phải phù phép, mà làm bằng quyền năng của Đức Chúa Trời. Ngài làm như thế không phải vì lợi cho mình, song là vì thương xót người ta; không phải muốn cho ai nấy khen lạ, song muốn cho ai nấy tin nhận Ngài là Đấng Cứu Thế để được cứu rỗi linh hồn.
Xem như thế, đủ biết Đức Chúa Giê-xu cao trọng hơn hết các thánh hiền trong thiên hạ.
43. Đức Chúa Giê-xu Chuộc Tội Loài Người
Hỏi: Đức ChúaGiê-xu đã là là Con Đức Chúa Trời làm sao lại bị người ta đóng đinh trên cây Thập Tự?
Đáp: Mọi người thế gian xưa nay đều có tội, đáng bị hình phạt. Cũng có người muốn lập công đức để chuộc tội, song không thể được, vì tội trước dồn dập đã nhiều, đền bù chưa xong, tội sau lại cứ thêm nhiều nữa; dầu cả đời mình làm hết bổn phận, cũng chẳng có một chút công đức thừa ra để đền bù tội lỗi. Ví như người mắc nợ đã nhiều, sau dầu mua bằng tiền mặt, cũng không khỏi mắc nợ. Vậy, Đức Chúa Giê-xu chịu chết trên cây Thập tự là để chuộc tội cho mọi người.
Có kẻ nói rằng: "Người ta có tội, Chúa tha thì tha, bằng chẳng tha thì phạt, sao lại khiến Đức Chúa Giê-xu chuộc thay làm chi?"
Xin đáp: Đức Chúa Trời vừa công bình, vừa có lòng yêu thương loài người. Nếu loài người có tội màphạt hết, thì không trọn lòng yêu thương; còn nếu tha hết không phạt, thì mất lẽ công bình. Vậy, Ngài khiến Đức Chúa Giê-xu chịu chết chuộc tội cho loài người, được trọn cả lòng yêu thương và lẽ công bình.
Đời xưa, nước Hy Lạp có một vua trách thái tử rằng: "Ta đã ra lịnh ai trái luật mà hành dâm sẽ bị móc mắt. Nay con phạm lịnh ấy, nếu cứ phép gia hình thì ta bất nhẫn, còn vị tìnhtha con, ta còn ra lịnh cấm ai? Nếu con có lòng ăn năn đổi lỗi, ta tự móc một mắt thế cho con." Vua bèn móc một con mắt của mình và truyền móc một con mắt của thái tử. Sau đó, thái tử cảm ơn cha mình mà trở nên vua hiền.
Đức Chúa Trời đãi chúng ta cũng như vậy; chỉ tiếc một điều là có nhiều người không biết ăn năn bỏ lỗi, nhờ cậy ơn Ngài như thái tử kia. Xưa nay có nhiều trung thần, nghĩa sỹ chịu chết vì nước, thiên hạ đều khen ngợi; huống chi Đức ChúaGiê-xu chịu chết vì muôn dânmuôn đời, chúng ta đáng cảm ơn, kính thờvà tin cậy nơi Ngài là dường nào!
44. Sự Tích Đức Chúa Giê-xu Là Thật
Hỏi: Các ông nói rẳng Đức Chúa Giê-xu chết và sống lại, nhưng các sự ấy có chắc thật không?
Đáp: Sự tích Đức Chúa Giê-xu là thật cả vì có nhiều chứng cớ hiển nhiên.
Một: Kinh Thánh Cựu Ước chép trước Đức Chúa Giê-xu, phần hơn một ngàn năm phần mấy trăm năm, thế mà các Đấng tiên tri đã được Đức Chúa Trời soi bảo, dự ngôn về Chúa Cứu Thế giáng sanh nơi nào, là dòng dõi ai, chịu chết, sống lại và lên trời thể nào, thảy đều ứng nghiệm nơi Đức Chúa Giê-xu.
Hai: Trước kia, Đức Chúa Trời e người ta không rõ giáo lý chuộc tội, nên từ lâu đời đã truyền lịnh dâng bò, chiên làm tế lễ để chỉ bóng về ơn chuộc tội. Về sau, Đức Chúa Giê-xu hi sinh mạng sống trên cây thập tự để làm ứng nghiệm sự dạy dỗ ấy, nghĩa là chính mình Ngài trở nên Chiên Con của Đức Chúa Trời để làm Tế Lễ chuộc tội cho loài người.
Ba: Khi Đức Chúa Giê-xu sống lại và lên trời dạy các môn đồ làm chứng về sự sống lại, thì họ làm chứng chắc chắn, dầu bị hình phạt, đánh khảo, thậm chí bị giết, cũng cẳnhg chối. Nếu chẳng phải chính mắt mình đã xem thấy Chúa sống lại, họ dại gì liều mạng sống để làm chứng về sự sống lại của Ngài?
Bốn: Người Do Thái nhơn vì ghen ghét mà giết Đức Chúa Giê-xu, các môn đồ thường tố cáo tội ấy; kết quả dòng dõi dân ấy tan lạc khắp thiên hạ, (Tuy nhiên, ngày nay một phần Do Thái đã trở về khôi phục tổ quốc, lấy quốc hiệu là "quốc gia Do Thái" chứng tỏ lời tiên tri trong Kinh Thánh là thật và Đức Chúa Giê-xu sắp tái lâm) chịu biết bao cơn hoạn nạn, bắt bớ, tàn sát, thật đúng như lời tổ phụ họ đã thề nguyền: "Xin huyết Người (Đức Chúa Giê-xu) lại đổ trên chúng tôi và con cái chúng tôi!" (Ma-thi-ơ 27:25).
Năm: Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước nhiều chổ chép những biến cố liên quan đến các nước; nay đem đối chiếu với sử ký các nước, thấy đều phù hợp.
Sáu: Các nơi, các chỗ Kinh Thánh chép liên quan đến Đức Chúa Giê-xu, bây giờ có nhiều người đến nước Do Thái tra xem cổ tích, thảy đều còn cả.
Bảy: Người văn minh đi khắp hoàn cầu, thấy sự gì, vật gì ở đâu cũng đều tìm tòi, tra xét; nếu đạo Đức Chúa Giê-xu chẳng phải là đạo thật, họ theo làm gì?
Tám: Các nhà bác học khảo cứu sách vở kỹ lắm; thế mà xét Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước không thấy điều gì khả nghi cả, mặc dù sách ấy cách nhau hơn một ngàn năm và do nhiều tác giả ghi chép.
Chín: Môn đồ của Chúa buổi đầu tiên chỉ có vài trăm, đều là người thấp thỏi, và lại bị nhiều tên bắt bớ, tàn sát. Nếu chẳng phải Đức Chúa Giê-xu đang sống trên trời vừa giúp họ, chắc họ bị tận diệt rồi, há dễ đạo Tin Lành đã được truyền bá khắp cả thế gian như ngày nay?
Mười: Người đời nay tin Chúa đều tôn trọng Kinh Thánh, và các ăn nết ở đều không chổ nào chỉ trích được. Họ lại còn lo khuyên con cháu cũng tin theo Ngài. Vả, các nước theo Tin Lành của Đức Chúa Giê-xu đều được biết rằng đạo lý của Ngài rất có quyền. Còn có nhiều chứng cớ khác nữa chép trong Kinh Thánh Tâu Ước, khiến người ta không thể không tin.
45. Ai Tin Chúa Phải Chịu Lễ Báp Têm Và Vào Hội Thánh
Hỏi: Tin Đức Chúa Giê-xu là đủ rồi sao còn phải chịu lễ báp têm và vào Hội Thánh?
Đáp: Người có tội tin nhận Cứu Chúa Giê-xu thì tuân lời Ngài mà chịu lễ báp têm để tỏ ra mình là môn đồ Ngài. Ấy cũng như kẻ nhập tịch làm công dân nước nào phải vâng theo luật lệ nước ấy. Đức Chúa Giê-xu có phán rằng: "Ai tin và chịu lễ báp têm sẽ được rỗi; nhưng ai chẳng tin sẽ bị đoán phạt" (Mác 16:16). Cho nên ai đã tin Đức Chúa Giê-xu phải chịu lễ báp têm và vào hội thánh.
Chịu lễ báp têm là chịu dìm mình trong nước, rồi lên khỏi nước; làm vậy để tỏ ra rằng bởi đức tin, mình đã cùng Đức Chúa Giê-xu đồng chết đồng chôn và đồng sống lại.
Vào Hội Thánh nghĩa là những tín đồ của Đức Chúa Giê-xu hiệp lại lập nên một Hội, chẳng phải kết bè kết đảng, cầu lợi cầu danh nhưng chỉ để làm ích cho linh hồn mình và rộng truyền đạo Chúa mà thôi. Đức Chúa Giê-xu dạy người ta vào hội thánh có nhiều ý hay:
Một là thêm sự hiểu biết. Người mới hối cải như con trẻ mới sanh, còn non nớt, dễ bị cám dỗ. Vào Hội Thánh có mục sư, giáo sư đem Kinh Thánh dạy cho, nhơn đó, sự hiểu biết thêm lên, đức tin được mạnh mẽ, thắng được ma quỉ cám dỗ.
Hai là đức tin vững vàng. Người ta dầu ăn năn trở lại cùng Chúa, song lòng tin dễ nguội lạnh và lui đi. Vào Hội Thánhsẽ có mục sư yên ủi, giáo hữu khuyên răn, nhơn đó đức tinh mạnh mẽ vững bền.
Ba là lập Nước Đức Chúa Trời trên thế gian. Người ta nếu chưa trừ hết tánh ác thì dâu lên trời lòng cũng chẳng vui. Cho nên phải ở trong Hội Thánh, học tập chân lý, làm theo mạng lệnh của Chúa, giữ lòng thánh sạch để mai sau về Nước Chúa, chẳng những được cứu rỗisong còn được phần thưởng vinh hiển. Hội Thánh lại có quyền thay mặt Chúa tiếpkẻ tin vào Hội, truất kẻ giả dối ra khỏi Hội, khiến các tín đồ vâng giữ điều đáng vâng, làm sự phải làm, để biệt riêngkhỏi thế tục và treo gương sáng cho người đời cùng soi.
Bốn là hiệp sức truyền đạo. Người tin Chúa đã được cứu, ắt có lòng yêu thương, muốn cứu đồng bào, đồng loại. Song riêng từng người một thì khả năng chưa đủ, của cải có chừng, không làm việc lớn được. Vào Hội Thánh nhiều người hiệp sức, góp của, có thể truyền Tin Lành đến cácxứ xa.
Vì các lẽ trên nên ai tin Đức Chúa Giê-xu phải chịu lễ báp têm và vào Hội Thánh.
46. Người Nam Người Nữ Đều Phải Tin Chúa
Hỏi: Người nam tin Chúa đã đành, sao người nữ cũng tin Chúa làm chi?
Đáp: Đạo dối thì dầu nam, nữ cũng phải tránh xa, song đạo thật thì nam, nữ đều nên vâng giữ. Nếu đã biết đạo Đức Chúa Giê-xu là thật, mà cho là người nam nên theo, còn người nữ không cần theo, thế có khác gì nói rằng người nam nên ăn cơm Trờimà sống, còn người nữ nên nhịn đói mà chết?
Người nữ há chẳng phải là nhân loại sao, mà bảo rằng không cần đạo Tin Lành, không cần tin nhận Cứu Chúa Giê-xu Christ?
47. Đạo Chúa Có Mười Điều Răn
Hỏi: Trong đạo Chúa có mấy điều răn?
Đáp: Có Mười Điều Răn như sau nầy:
1. Chớ có thần nào khác ngoài Đức Chúa Trời.
2- Chớ làm tượng chạm cho mình, cũng chớ làm tượng nào giống những vật trên trời, dưới đất, hoặc trong nước dưới đất; chớ quì lạy trước những hình tượng đó.
3- Chớ lấy Danh Đức Chúa Trời mà làm chơi.
4- Phải nhớ ngày yên nghỉ để làm nên ngày thánh.
5- Phải hiếu kính cha mẹ.
6- Chớ giết người.
7- Chớ phạm tội tà dâm.
8- Chớ trộm cướp.
9- Chớ làm chứng dối nghịch cùng kẻ lân cận.
10- Chớ tham nhà của kẻ lân cận, cũng đừng tham vợ người, hoặc nô tỳ, bò lừa hay là vật chi thuộc về kẻ lân cận.
4- Phải nhớ ngày yên nghỉ để làm nên ngày thánh.
5- Phải hiếu kính cha mẹ.
6- Chớ giết người.
7- Chớ phạm tội tà dâm.
8- Chớ trộm cướp.
9- Chớ làm chứng dối nghịch cùng kẻ lân cận.
10- Chớ tham nhà của kẻ lân cận, cũng đừng tham vợ người, hoặc nô tỳ, bò lừa hay là vật chi thuộc về kẻ lân cận.
Mười Điều Răn này chính Đức Chúa Giê-xu Christ đã thay người làm trọn và dạy tóm tắt trong hai điều là: "Ngươi hãy hết lòng, hết linh hồn, hết ý mà yêu mến Chúa, là Đức Chúa Trời ngươi. Ấy là điều răn thứ nhất và lớn hơn hết. Còn điều răn thứ hai đây, cũng vậy: Ngươi hãy yêu kẻ lân cận như mình. Hết thảy luật pháp và lời tiên tri đều bởi hai điều răn đó mà ra." (Ma-thi-ơ 22:37-40)
48. Tín Đồ Ăn Ở Không Hợp Đạo
Hỏi: Từng thấy có người xưng mình là theo Chúa mà làm nhiều điều tội lỗi, gian ác như kẻ chưa tin. Nếu những kẻ ấy mà được gọi là thánh đồ, thì người thế gian ai chẳng phải là thánh?
Đáp: Nay chúng tôi chỉ luận đạo tà hay chánh, thật hay giả, chớ không luận về người theo đạo đó là thiện hay ác. Đạo thành vốn dạy người ta ăn năn tội, tin theo Chúa, bỏ dữ, làm lành, cải tà qui chánh, để được cứu rỗi linh hồn. Tiếc thay! Có một số người vò lòng tư dục, mượn danh thánh đồ để được thiên hạ tin dùng, hầu dễ bề thi hành các thủ đoạn gian dối. Những hạng ấy thật chẳng đáng gọi là thánh đồ.
Song sự trạng đó cũng chẳng làm hại đạo Tin Lành được. Ví như chánh phủ đặt ra hình pháp để răn nhân dân, muốn cho ai nấy làm lành, lánh dữ. Thế mà có những kẻ bất lương, không kể pháp luật ra gì, cứ giết người lấy của, làm những điều ác, thì cũng không thể nhơn đó mà kể hình pháp của chánh phủ đặt ra là bất thiện.
Vậy, nếu có người xưng mình là tín đồ mà việc làm không hợp với đạo Chúa, thì đó là kẻ giả hình, không đáng kể. Nhưng mọi người cần phải tự xét lòng mình, ăn năn, đầu phục Đức Chúa Trời, kính sợ vâng lời Ngài, để được cứu rỗi, hưởng phước vĩnh sanh.
49. Đạo Thật Chẳng Luận Gốc Từ Đâu
Hỏi: Đạo Đức Chúa Giê-xu dẫu thật, song vốn là đạo ngoại quốc, theo mà làm gì?
Đáp: Vàng chẳng chọn đất nào, hễ ròng là quí. Đạo chẳng nệ phương nào, hễ thật nên theo. Như Khổng Tử sanh ra bên Trung hoa mà giáo lý của ông truyền đến nước ta. Thầy Mạnh Tử nói vua Thuấn là người Đồng Di, vua Văn là người Tây Di, thế mà người Trung Hoa đền tôn làm thánh nhân, chẳng có ai phi nghị.
Đến như đạo Phật từ Ấn Độ truyền sang, dạy sự hư vô tịch diệt, thế mà cũng có nhiều người theo đạo ấy. Còn đạo Tin Lành có nguồn gốc, câu nào cũng chân thật, chỉ đường cứu rỗi, đổi người ác ra người thiện, mà lại cho là đạo ngoại quốc, không nên theo, là cớ làm sao?
Vả, đạo của Đức Chúa Giê-xu gốc từ Đức Chúa Trời, ra từ phương Đông, truyền sang phương Tây, và hiện nay lan tràn khắp thế giới,là đạo chung cho muôn dân. Các đạo tất cũng có điều hay, lẽ phải, song chẳng qua do ý tưởng của người ta lập ra, ví như cái đèn, chỉ soi sáng một nơi. Còn Đạo Chúa như mặt trời soi khắp mọi nơi. Thế thì không nên cho là đạo ngoại quốc mà không tin theo.
50. Chớ Lấy Theo Đạo Tinh Lành Làm Khó
Hỏi: Để được cứu rỗi linh hồn, chúng tôi nên theo đạo Chúa song khó lắm, làm thể nào?
Đáp: Khó tin hay khó giữ, hai điều ấy không gọi là khó được.
Đạo Chúa có nguồn gốc, có chứng cớ rõ ràng. Thử xem trong cõi thiên nhiên: Trời cao đất rộng, nhật nguyệt vận hành, ngôi sao mọc lặn, gió thổi, mây bay, mưa tuôn, nước động, bốn mùa thay đổi, muôn vật phát sanh, nước biển khi lên khi xuống, khí trời khi nóng khi lạnh, thì biết chắc có một Đấng Chủ Tể; ấy là dễ mà tin.
Vả, người ta linh hơn vạn vật, song cũng không khỏi chết; xác thịt mục nát, linh hồn còn hoài, được thưởng hay chịu phạt, vui hay khổ đời đời chẳng đổi. Khổ hình ở thế gian còn nhẹ hơn khổ hình ở hoả ngục, vì chết là hết đau; còn bị hình phạt nơi hỏa ngục phải chịu đau đớn cả ngày lẫn đêm một cách tự cảm biết, không thể thoát được. Nước biển tiêu đi mỗi năm một giọt, còn có ngày tiêu hết; nhưng khổ hình nơi hỏa ngục thì vẫn còn hoài. Như vậy mà còn nói tin Chúa là khó, để dành chịu khổ hình đời đời kiếp kiếp hay sao?
Chúng tôi thấy người thế gian cầu danh, cầu lợi, chịu khổ rất nhiều: Nào kẻ muốn thi đỗ, cố công đènsách bao nhiêu năm; kẻ mong được thóc lúa, phải khó nhọc cày sâu cuốc bẫm; kẻ buôn bán kiếm lời dầm sương phơi nắng, lội suối qua đèo, sao chẳng lấy làm khổ, mà lại lấy tinđạo làm khổ? Phải biết rằng hễ không tin Đức ChúaGiê-xu thì sẽ khổ muôn phần. Hãy xem, người có hào phú không biết kiêng sợ ai, ỷ nhiều của, buông lung gian ác cho đến nỗi tan nát nghiệp nhà. Có kẻ nghèo không giữ phận, trộmcướp làm càn, cho đến nỗi bị tù đày. Người ta chỉ cần hết lòng thờ phượng Đức Chúa Trời, nhờ cậy công lao của Đức Chúa Giê-xu thì được tha tội, được rỗi linh hồn, được vui vẻ, bình an, gia đình được trên thuận dưới hòa, cuối cùng hưởng phước Thiên Đàng mãi mãi. Ngoài cách ấy, không còn phương pháp nào khác.
51. Phải Tin Theo Chúa Mới Được Phước
Hỏi: Trong số những người không tin theo Đức Chúa Giê-xu, cũng có nhiều người lành, dầu chẳng thờ lạy Đức Chúa Trời, chẳng nhờ cậy Đức Chúa Giê-xu, song tánh nết hiền hậu, làm nhiều việc từ thiện, những người ấy sẽ hưởng phước Thiên Đàng được chăng?
Đáp: Không được! Xin hãy nghe lời thí dụ này: Ai muốn được chánh phủ ban thưởng, phải trung thành với chính phủ, vâng giữa luật pháp nhà nước; còn muốn được cha mẹyêu mến, phải vâng lời và thảo kính cha mẹ. Nhược bằng ở với Tổ quốc chẳng trung, ở với cha mẹ chẳng hiếu, thì chẳng những không được thưởng, được yêu, mà lại bị hình phạt, ghét bỏ nữa.
Vậy, có người công dân không hề làm điều dữ, được hàng xóm láng giềng khen ngợi, song không chịu trung thành với chính phủ, thì có được thưởng chăng? Lại có một người con ăn ở hiền lành, bạn bè đều mến, nhưng không thảo kính cha mẹ, thì cha mẹ có yêu chăng? Chắc là chính phủ và cha mẹ không thương những người ấy.
Đức Chúa Trời đối với kẻ chẳng tin cũng vậy, ai chẳng thờ lạy Đức Chúa Trời, nhờ cậy Đức Chúa Giê-xu, thì dẫu làm nhiều điều lành đi nữa, Ngài cũng chẳng cho hưởng phước Thiên Đàng. Người đời nay làm lành chẳng phải do thật lòng hối cải mà làm, song nhiều khi chỉ vì muốn được danh tiếng. Muốn danh tiếng mà được danh tiếng, ấy là đã được người đời báo đền rồi, không thể mong được Chúa đền bù cho nữa. Ai hiểu thấu lẽ ấy, nên vội vàng tìm vào cửaân Điển của Chúa Cứu Thế, là Đức Chúa Giê-xu.
52. Phải Kíp Tin Theo Chúa
Hỏi: Nghe biện luận đã nhiều, biết rằng đạo Tin Lành của Đức Chúa Trời là thật, không chỗ bài bác được, có thể làm cho những kẻ ngủ hoá thức, kẻ dữ nên lành, ai tin và làm theo, lúc sống được an vui, chết sẽ được hưởng phước đời đời; song bây giờ tin theo ngay không tiện, đợi đến sang năm có được không?
Đáp: Nói thế là chưa nghĩ kỹ. Hễ ngày nay nghe hiểu, nên tin ngay đi; giờ nầy tỉnh biết, nên theo ngay đi; sao lại đợi đến sang năm?
Ví như một người giàu có từ thiện kia rao rằng sẽ bố thí trong ba ngày; ai đến trong kỳ đó, thì được phần; ai đến trễ thì không được chi hết. Người không được là tại mình đến chậm, chớ chẵng phải người hứa không cho. Cũng một thể ấy, "Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất, mà được sống đời đời." Ai tin thì được cứu chắc chắn, bằng ai không tin thì bị định tội, ấy là tại mình; không phải tại Chúa không cứu.
Thương thay, có người đã thông hiểu đạo lý mà chẵng quyết tin theo, tháng lụn ngày qua, dồn dập tội lỗi, ngày chết đến nơi, không còn mong chi được nữa! Nếu thế, sao lại đợi đến sang năm? Huống chi đều rất thiết yếu cho chúng ta không gì bằng sự cứu rỗi linh hồn: Kẻ được cứu rỗi đời đời vui vẻ, ca hát ngợi khen Chúa; còn kẻ hư mất đời đời phải chịu đau đớn, nghiến răng, khóc lóc. Nếu thế sao lại đợi đến sang năm? Nguời ta ai cũng phải chết, mà không biết chết khi nào. Vậy tại sao lại đợi đến sang năm? Sanh mạng người ta rất mỏng manh, như chuông đồng treo sợi chỉ, một mai chỉ đứt, rơi xuống vực sâu vớt lên không được! Vậy sao lại đợi đến sang năm?
Thương thay, có người đã thông hiểu đạo lý mà chẵng quyết tin theo, tháng lụn ngày qua, dồn dập tội lỗi, ngày chết đến nơi, không còn mong chi được nữa! Nếu thế, sao lại đợi đến sang năm? Huống chi đều rất thiết yếu cho chúng ta không gì bằng sự cứu rỗi linh hồn: Kẻ được cứu rỗi đời đời vui vẻ, ca hát ngợi khen Chúa; còn kẻ hư mất đời đời phải chịu đau đớn, nghiến răng, khóc lóc. Nếu thế sao lại đợi đến sang năm? Nguời ta ai cũng phải chết, mà không biết chết khi nào. Vậy tại sao lại đợi đến sang năm? Sanh mạng người ta rất mỏng manh, như chuông đồng treo sợi chỉ, một mai chỉ đứt, rơi xuống vực sâu vớt lên không được! Vậy sao lại đợi đến sang năm?
Có câu phong dao rằng: "Người đời ví thể phù du Sớm còn, tối mất, công phu lỡ làng!"
Trong một giờ đồng hồ, cả thế giới nầy không biết bao nhiêu người chết; biết đâu rằng chính mình ta lại không ở trong số ấy? Thế thì sao lại đợi đến sang năm?
Vậy, xin liệt quí đồng bào hãy tin theo Đức Chúa Giê-xu Christ cùng chịu Đức Thánh Linh cảm động, lìa bỏ ác dục thế gian, ra khỏi nơi chết, vào nơi sống, bỏ đường tà, theo đường chánh, sớm chiều cầu nguyện, thờ lạy Đức Chúa Trời, nhờ cậy công lao Đức Chúa Giê-xu trên Thập tự giá để được cứu rỗi, kẻo chết rồi, ăn năn không kịp!
b†a