Đức tin đến bởi sự người ta nghe, mà người ta nghe, là khi lời của Đấng Christ được rao giảng.

September 12, 2012

Tương Quan Giữa Triết Học và Tôn Giáo

I. Về nghi vấn thứ nhất: phân mục Triết Học có phải là một xa xỉ phẩm?


Chúng tôi không phủ nhận, nhu cầu quan trọng, cần thiềt và cấp bách hàng đầu cho số rất đông người Việt Tin Lành vẫn là những hiểu biết về Kinh thánh, thần học và linh đạo.

Nhưng đồng thời trong mấy chục năm vừa qua, với sự phát triển mãnh liệt của kỹ nghệ thông tin và với sự tiếp cận đích thân với những trào lưu tư tưởng của các nền văn minh văn hóa trên thế giới, người Việt Tin Lành trong nước và ngoài nước đều thấy có nhu cầu bức bách và thiết thân cần phát huy TƯ DUY của mình: một đàng là để bắt kịp những suy tư của thời đại, tiếp đến là để đem lại cho những hiểu biết về Kinh thánh, thần học, linh đạo của mình một sức thuyết phục bổ sung, bên cạnh đức tin, truyền thống và có thể cả những tập tục thường mang tính ước lệ và không nhất thiết phải là trường cửu.

Hình thức diễn tả và phương tiện phát huy một nền TƯ DUY bao quát, cơ bản và mang tính phê phán như thế hẳn là có thể và cần thiết nhờ vào sự đóng góp của suy tư triết học.

II. Về nghi vấn thứ hai: Suy tư triết học có mang tính khách quan cho người có tôn giáo cũng như người không tôn giáo?


Phải nhìn nhận rằng, mối tương quan giữa triết học và tôn giáo không phải là một tương quan đơn giản. Triết học và tôn giáo là hai lĩnh vực sinh hoạt tinh thần khác nhau trong đời sống: Triết học thuộc lĩnh vực tư duy của lý tính tự nhiên, còn tôn giáo lại thuộc lĩnh vực tâm linh, cảm tính, niềm tin và có thể cả thiên khải. Nghi vấn về tính khách quan ở đây được đặt ra, là bởi có thể chăng niềm tin tôn giáo sẽ ảnh hưởng đến suy tư của lý tính, và ngược lại có thể chăng tư duy của lý tính sẽ chi phối đến niềm tin? Và nếu có ảnh hưởng lẫn nhau, thì những ảnh hưởng đó có làm mất đi tính khách quan của mỗi lĩnh vực sinh hoạt tinh thần nầy không?

Cuộc sống bình dân của người có tôn giáo thường chỉ dựa vào niềm tin, truyền thống và tập tục. Rất ít khi một tín đồ bình dân suy nghĩ một cách có phê phán và độc lập về những cơ sở và những lý lẽ nền tảng cho cuộc sống hành đạo thường ngày của mình. Ngược lại, người không tôn giáo, nhất là trong những xã hội thế tục hóa ngày nay, lại thường xem tâm linh, tín ngưỡng, tôn giáo là những lĩnh vực xa rời cuộc sống thiết thực và đích thực.

Khi được tiếp cận với nền tri thức rất rộng lớn của nhân loại trong không gian và trong lịch sử, hẳn ta đã nhận thấy những người am thông Kinh thánh và thần học cũng đều là những người đã từng rất thông giỏi trong suy tư triết học, bởi triết học đã đem lại cho họ những nếp tư duy tinh tế và cơ bản để xây dựng vững chắc và có phê phán những hệ thống Kinh thánh và thần học của họ.

Còn đối với những người không tôn giáo thường đánh giá rất cao và rất chính xác các nền khoa học tự nhiên và cả ngành triết học, nhưng đồng thời hẳn ta cũng biết ông tổ của nền triết học khai sáng Đức, Immanuel Kant, sau ba tác phầm Phê Phán vượt tầm thế kỷ, cũng đã cho xuất bản tác phẩm Tôn giáo trong biên giới của lý tính đơn thuần, và trên bia mộ cho đến hiện thời của ông ở Königsberg có ghi khắc câu nói lừng danh: "Bầu trời đầy sao trên tôi và giới luật đạo đức trong tôi". Với những thực kiện này, Immanuel Kant cho thấy chỗ đứng biên giới của lý tính: không chứng minh được sự hiện hữu của Thượng đế, nhưng cũng không thể phủ nhận sự hiện hữu của Thượng đế, nhưng phải để một khoảng trống cho niềm tin tôn giáo. Triết gia lớn Karl Jaspers khi bàn về tác phẩm Tôn giáo trong biên giới của lý tính đơn thuần của Kant nói trên, đã giải thích: "Ven bờ biên giới của lý tính là sự bất khả quan niệm và là một huyền nhiệm. Những điều bất khả quan niệm không có nghĩa là những điều phi lý, nhưng là những điều mà lý tính cảm nghiệm như là biên giới của lý tính và được đón nhận trong ánh sáng của lý tính" (K.Jaspers, Những triết gia lớn, München/Zürich 1997, 511; xem thêm: Lưu Hồng Khanh: Triết Học Nhập Môn, Nxb Trẻ, Sàigon 2005, chg I: Suy tư triết học,18-100; ở đây: 62-70).

Bên cạnh những suy tư mang tính triết học của Kant nói trên, nhà khoa học thiên tài Albert Einstein cũng đã đưa ra một tư tưởng lớn: "Khoa học không có tôn giáo thì bại liệt, tôn giáo không có khoa học thì mù lòa" (Những năm cuối đời tôi, Stuttgart 1952; in: Hans-Peter Dürr (xb): Physik und Transzendenz, Bern/München/Wien 1996, 75).

III. Góc nhỏ triết học: Thông Diễn Học (Hermeneutics).


Giới thiệu điểm giao lộ giữa Thông diễn triết học và Thông diễn tôn giáo của một trong những triết gia lớn nhất của thế kỷ XX, Paul Ricoeur (1913-2005).

Triết học là một trong những ngành khoa học rất lớn. Triết học bao gồm triết cổ, triết hiện đại, triết Đông, triết Tây. Triết học suy tư trên nhiều lĩnh vực của con người và cuộc sống: có triết học lý thuyết, có triết học thực hành. Về lý thuyết, có hữu thể luận, triết học tự nhiên, triết học nhân học, triết học tôn giáo, triết học xã hội, triết học chính trị, tri thức luận, luận lý học… Về thực hành, có đạo đức học, sáng tạo học (Hi-lạp: poièsis, từ đây phân xuất ra poetic: thi văn, sáng tạo)…

Có một lĩnh vực sinh hoạt tinh thần thuộc ngành khoa học nhân văn từ thởi Cổ đại Hi lạp với Platon và Aristoteles, rồi xuyên suốt cho đến hết thời Trung cổ ở châu Âu vào thế kỷ 15/16, đó là ngành giải thích kinh sách truyền thống và tôn giáo, cũng được gọi là khoa Giải kinh, hay Thông giải luận (Exegesis). Nhưng từ thế kỷ 17, cùng với tư trào Khai sáng, việc giải thích kinh sách được mở rộng đến mọi biểu hiện tinh thần của con người, trong những lĩnh vực thuộc các ngành khoa học tinh thần. Cũng từ đây, lần đầu tiên từ thông diễn (Hermeneutik) được thay thế bổ sung cho từ giải kinh (Exegesis). Những triết gia tiêu biểu nhất cho khái niệm thông diễn mới này là Dannhauer, Schleiermacher, Dilthey. Nhưng rồi vào giữa thế kỷ 20, lại đã có một biến chuyển lớn hơn nữa: việc thông giải không còn chỉ nhắm đến những biểu hiện của con người trong các ngành khoa học tinh thần, mà còn triệt để nhắm đến chính sự hiện hữu, sự tồn tại của con người. Triết gia chủ xướng cho khái niệm mới này là Martin Heidegger. Rồi tiếp nối Heidegger, là Gadamer, Habermas, Ricoeur…

Trên môi trường triết học ở Việt Nam, ngành Thông diễn học trong những năm gần đây đã bắt đầu được tìm hiểu, nghiên cứu, trình bày, xuất bản, cách riêng đối với Heidegger, Gadamer, và phần nào Habermas. Riêng về Ricoeur thì có được nhắc đến, nhưng cho đến nay thì hầu như chưa được triệt để nghiên cứu. Ricoeur lại là một triết gia có nhiều đặc điểm quan trọng không thể thiếu cho một nền Thông diễn học bao gồm nhiều truyền thống và văn hóa phương Tây.

Paul Ricoeur tổng hợp trong mình ba truyền thống triết học lớn ở châu Âu: truyền thống triết học nhân linh và phản tư Pháp với Marcel, Mounier, cho đến Nabert, Merleau-Ponty; truyền thống triết học khai sáng, hiện tượng, hiện hữu Đức với Kant, Husserl, Jaspers, Heidegger, Gadamer; triết học phân tích Anh/Mỹ với Wittgenstein, Rorty…

Từ những thử thách khắc nghiệt của hoàn cảnh gia đình và của xã hội châu Âu vào thời thế chiến thứ hai, Ricoeur đã bắt đầu suy tư của mình về sự ác, rồi về những lý do để hy vọng và hành động. Suy tư để tìm hiểu luôn phải bước đi trên con đường thông giải, thông diễn. Thông giải, thông diễn của Ricoeur đi từ bản văn, đến biểu tượng, ẩn dụ, dụ ngôn, truyện kể, huyền thoại, chân trời linh thiêng.

Ricoeur đọc và nghiền ngẫm thường xuyên Kinh thánh. Nhưng Ricoeur tiếp cận Kinh thánh dưới góc độ triết học. Suy tư của Ricoeur về Kinh thánh là suy tư của một triết gia và là một tín đồ Kitô-giáo (hệ phái Tin lành cải cách: Eglise Réformée), chứ không phải một triết gia Kitô-hữu . Với khía cạnh suy tư triết học về Kinh thánh như thế, Ricoeur đã tạo nên điểm giao lộ giữa Thông diễn học triết học và Thông diễn học Kinh thánh. Một đóng góp triết học quý báu cho những người có tôn giáo, đồng thời cũng là một đóng góp triết học tâm linh quý báu cho nhũng người không tôn giáo.

Cái Tôi suy tư (Cogito), đối với Ricoeur, không còn là một chủ thể độc lập tự khẳng định của Descartes, Kant, Hegel. Thực tại hiện hữu của con người không còn là một hiện thể như thế (Dasein) của Heidegger, nhưng là một bản sắc tan vỡ, vụn mảnh, đa phức, biến đổi, tự vượt, một bản sắc sinh động hướng về phía trước, xa lạ, bất ngờ, nơi khác, kẻ khác. Tác phẩm vào cuối đời diễn tả bản sắc con người mà Ricoeur hằng tìm kiếm này mang tên "Chính mình như một người khác" ("Soi-même comme un autre", Paris 1990; Bản dịch 5 chương tiếng Việt, do Trịnh Văn Tùng, Nxb Thế Giới, Hà Nội, 2002).

Chúng tôi nghĩ rằng trang mạng Triết học cùng với Điểm giao lộ giữa Thông diễn học triết học và Thông diễn học tâm linh Kinh thánh này có thể sẽ là một nơi gặp gỡ, chia sẻ và trao đổi suy tư cho nhiều bạn đọc. Và từ đó chúng tôi hy vọng có được những đóng góp tích cực của tất cả quý bạn. Cuối cùng, chúng tôi chúc nguyện người viết cũng như người đọc – có tôn giáo cũng như không tôn giáo – tìm được trên giao lộ Thông diễn học triết học qua con người và tác phẩm của Paul Ricoeur này những tư tưởng giúp khám phá những phương pháp thông diễn mới và giúp thể hiện bản sắc chính mình bằng sự tự vượt về những chân trời phía trước.

Ms.Ts. Lưu Hồng Khanh

Frankfurt/Main, CHLB Đức, 12.02.2012.

(Ghi chú: Trong các bài viết trên bảng mục Triết học thông diễn này, chúng tôi sẽ không liệt kê chức vụ và học vị của các tác giả và các dịch giả).
Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Nước Trời Trong Dụ Ngôn Của Đức Giêxu

Tác giả: Paul Ricoeur
Người dịch: Lưu Hồng Khanh



"Nước Trời giống như … "Đó thường là cách bắt đầu các dụ ngôn của Đức Giêxu, theo như các sách Tin mừng Marco, Luca, Matthêu thuật lại.

1. Những nguồn văn nào được Đức Giêxu xử dụng trong công việc giảng dạy của Ngài?

Trong công việc giảng dạy của Ngài, Đức Giêxu đã xử dụng các nguồn văn từ nhiều thể văn khác nhau đã từng được các tôn sư Do thái xử dụng trước Ngài. Như trong Cựu ước: Cây biết lành biết dữ (ST 3), Con chiên của người nghèo khó (2 Sam 12), Sách tiên tri Giôna. Dụ ngôn là một trong những thể văn đó. Ngoài ra còn có thể văn tuyên cáo và thể văn châm ngôn.

Thể văn tuyên cáo thường nói đến điểm chung kết của thời gian, của thế giới (do đó được gọi là "tận thế", "cánh chung", "thế mạt"), để dấy động lên tâm tình về sự cấp bách của một cơn khủng hoảng, trong đó con người nhất thiết phải cấp bách lấy một quyết định và thay đổi cuộc sống.

Thể văn châm ngôn thường xử dụng các nguồn văn nghịch lý, như khi Ngài đảo ngược các số phận cuộc đời: "Kẻ đứng đầu sẽ là người đứng cuối, và kẻ đứng cuối sẽ là người đứng đầu" (Mt 19:30), hoặc nguồn văn ngoa ngữ hay quá thuyết (hyperbole): "Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn là người giàu đi vào Nước Trời" (Mt 19:24). Như thế, châm ngôn gây nên sự bất ngờ, hay cả sự vấp phạm, và kêu gọi, giống như dụ ngôn, một quyết định cấp bách trong một thời gian khủng hoảng.

Trong thể văn dụ ngôn, Đức Giêxu giảng dạy bằng ẩn dụ, cũng gọi là so sánh. Tính cách biểu trưng của sự giảng dạy này đặc biệt ấn tượng trong các dụ ngôn về Nước Trời.

Không nơi đâu, Đức Giêxu nói Nước Trời là gì. Ngài chỉ nói Nước Trời giống cái gì. Chính điều đó cũng là điều rất sáng ý (instructif). Đức Giêxu không phát ngôn như một nhà thần học, Ngài không giảng dạy bằng khái niệm, nhưng bằng hình ảnh. Tất cả những gì Ngài muốn nói thì được diễn tả một cách gián tiếp, bằng cách so sánh. Và như thế Ngài làm cho mọi người đều có thể hiểu được, kẻ ngu dốt cũng như người thông minh. Ta có thể nói, biểu tượng làm ta nghĩ ngợi, bắt ta suy tư. Dụ ngôn bất ngờ bắt chộp lấy ta, làm ta kinh ngạc, gây chấn động, nêu thách thức: Dụ ngôn cho thấy điều này điều kia là định kiến (nghĩa là ý kiến hay tin tưởng được áp đặt lên con người do hoàn cảnh, tập tục, giáo dục, thời đại), đòi hỏi ta phải xem xét lại sự vật và lấy một quyết định mới.

2. Vai trò của truyện kể trong dụ ngôn:

Đặc điểm thứ hai trong dụ ngôn là vai trò của truyện kể hay trình thuật, làm dàn tựa cho sự so sánh. Nước Trời không giống như một ông vua (Mt 22:2), một người cha (Lc 15:11), một người làm công (Lc 19:12), một người chăn chiên (Jn 10:11), v.v… Nước Trời giống như điều xảy ra trong một câu truyện , trong đó nói đến một ông vua, một người cha, v.v…

Nước Trời là như câu truyện, rằng … Điều đó có nghĩa, Nước Trời không phải là một tình trạng nào đó của sự vật, một sự thể cứng nhắc nào đó, nhưng quả như là một "tấn kịch", nghĩa là một cấu kết các biến cố xẩy ra do tác động của một số người liên hệ với nhau. Điều làm nên dụ ngôn, không phải là các nhân vật, nhưng là cái bố cục được kết cấu với một điểm khủng hoảng và một điểm kết thúc. Kết thúc này có thể là "bi ai": Thí dụ câu truyện các trinh nữ mang đèn không dầu khi vị hôn phu đến, và do đó họ không được nhập đoàn lễ cưới (Mt 25:1-12)…; một khách mời bị đuổi ra khỏi phòng tiệc, vì không mang áo cưới (Mt 22:11-18). Kết thúc cũng có thể là "hài hước" (trong nghĩa kết thúc có hậu). Thí dụ: người con hoang đàng trở về nhà cha (Lc 15:17-24); con chiên đi lạc được tìm thấy lại (Lc 15:16).

Chính cái ngập ngừng lơ lửng của cái thời điểm khủng hoảng, cùng với những biến cố bất ngờ khác nhau có thể xảy ra, gây nên ấn tượng, đưa ra cảnh báo, gây ra lo âu, thúc bách phải lấy quyết định. Cái hiệu ứng này đạt được, bởi vì các diễn cảnh mô tả thật rất đơn giản, thông suốt, rất gần gũi với cuộc sống đời thường. Tự nó, chúng cũng đã nói lên ý nghĩa, không có gì cầu kỳ, bí mật, che dấu. Như thế, ẩn dụ (hình ảnh) Nước Trời được dựa trên những khía cạnh bi tráng nhất (nghĩa là đặc biệt, khác thường, bất ngờ) của cuộc sống thường nhật. Ta có thể nói, dụ ngôn là những truyện kể bình thường mà tất cả hiệu năng của ẩn dụ được tập trung vào trong một thời điểm khủng hoảng và với một kết thúc bi ai hay có hậu.

3. Đặc tính quái dị của dụ ngôn:

Đặc điểm thứ ba của dụ ngôn xem ra như là phản nghịch với đặc điểm vừa nói trên. Nếu các truyện kể đều lấy ra từ cuộc sống đời thường, chúng lại hàm chứa một yếu tố quái dị, một yếu tố mang kịch tích, gây bất ngờ:

  • Có người chăn chiên nào bỏ lại 99 con để đi tìm một con đi lạc cho đến khi tìm lại được nó mới thôi ? (Mt 18:10-14);
  • Có người cha nào đón nhận lại với tất cả xa hoa hào phóng đứa con hoang đàng đã bỏ nhà ra đi nay trở về lại? (Lc 15:11-32);
  • Có người chủ nhà nào lại xua đuổi khách mời của mình ra khỏi nhà, chỉ vì vị khách mời này mặc áo không tiêm tất? (Mt 22:11);
  • Có hạt cải nào trổ cây cao to đến độ có thể để chim trời đến làm tổ? (Mt 13:31-32).

Quả thật chúng ta đụng đầu với nghịch lý của dụ ngôn: Dụ ngôn bắt đầu một cách bình thường, để quay ra hoang tưởng. Nhưng là một hoang tưởng trong đời thường, không chút siêu phàm như trong các truyện thần tiên hay trong các huyền thoại. Sự khác thường trong bình thường, đó quả là điều làm ta bối rối và tự hỏi: tại sao người ta lại kể câu truyện đó? Không phải là để dạy cách làm vườn, nuôi gia súc hay làm kinh tế gia đình! Nhưng nếu không phải là truyện kể để kể cho vui, thì truyện kể trong cái tầm thường của nó ắt phải muốn nói lên cái gì khác. Cái "trượt" ý của truyện kể như thế chính là cái bí quyết của thể văn "dụ ngôn". Dụ ngôn ở đây muốn nói về Nước Trời, chính nhờ cái quái dị nói trên làm cho câu truyện bung ra khỏi cái khuôn khổ bình thường của truyện kể.

Nếu ta lần theo sợi chỉ suy tư này, thì ta sẽ đi đến việc nối kết dụ ngôn với hai loại thể văn khác: ngôn sứ và châm ngôn, cả hai loại này cũng hàm chứa khía cạnh quái dị: sự đột nhập một Cái gì khác được các ngôn sứ thông báo: "Con Người sẽ đến như một người ăn trộm…", hay nữa là sự đảo ngược số phận như trong châm ngôn: "Kẻ cuối cùng sẽ là người đầu tiên".

Ta cũng sẽ thấy một sự quái dị như thế trong các giới răn: "Khi người ta vả má phải ngươi, thì ngươi cũng hãy dơ ra má trái" (Mt 5:39). Một đòi hỏi bất khả thi như thế đòi buộc ta phải đặt lại vấn đề về cái khôn ngoan dân gian truyền thống nhắm giữ gìn ta khỏi những bất ngờ trong cuộc đời, và cả những châm ngôn quen thuộc bảo vệ ta khỏi những sự không dè chứng: "Nếu ngươi muốn hòa bình, thì hãy chuẩn bị chiến tranh" (châm ngôn latinh), "Hãy tự giúp minh, thì Trời sẽ giúp ngươi" (La Fontaine).

4. Thời gian trong các dụ ngôn:

Nếu đào sâu thêm, ta sẽ thấy những loại diễn ngôn như thế đều có dính dáng đến vấn đề thời gian. Nhất là dụ ngôn, bởi dụ ngôn được xây dựng trên truyện kể, nghĩa là có liên hệ đến cái gì xảy ra và điều gì người ta làm - dụ ngôn như thế nói về thời gian của Nước Trời. Chính cái<em >thời gian đólàm đảo ngược thời gian của chúng ta, làm lạc hướng, để định hướng lại thời gian của chúng ta.

Ta hãy thử lấy dụ ngôn rất đơn giản trong cấu trúc truyện kể là dụ ngôn viên ngọc quý (Mt 13:45-46). Dụ ngôn này chỉ có ba động từ, diễn tả ba "thời khắc":

  • "Ông ta tìm được viên ngọc quý",
  • "Ông ta ra đi, bán hết tất cả những gì mình có",
  • "Ông ta mua viên ngọc đó".

Ba thời khắc đó tượng trưng cho ba chiều kích thời gian khác nhau của Nước Trời:

  1. "Tìm được viên ngọc quý", là gặp được, là cảm nghiệm được thời khắc đó như một món quà bất ngờ, như một điều đột hiện lên chứ không nằm trong quyền sử dụng bình thường của chúng ta. Các dụ ngôn khác khai triển thêm ý nghĩa sự bất ngờ này với kết thúc "bi ai" (truyện 10 trinh nữ) hay kết thúc có hậu (kho báu cất giấu).
  2. Thời khắc thứ hai là thời khắc trở lại: "Ông ta bán hết tất cả những gì mình có": Tức thời, những gì xưa nay là giá trị cực điểm thì bây giờ chỉ là tưong đối, phụ thuộc, không đáng gì so với điều độc nhất cần thiết. Chính cái thời khắc trở lại này minh họa, với nghệ thuật kịch diễn, cái dụ ngôn rất quen biết về người con hoang đàng: "Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ…(Lc 15:17).
  3. Thời khắc thứ ba, "mua viên ngọc đó", là thời khắc dấn thân bằng hành động. Thời khắc này tiếp nối thời khắc trở lại (thời khắc một cách nhìn mới, một tưởng tượng mới) trờ thành thời khắc hiệu nghiệm, với thực năng thay đổi sự vật. Khi mà thời khắc thứ ba này được khai triển trong chiều kích xã hội của nó, thì thời khắc này sẽ nẩy sinh ra một loạt những biến động như được diễn tả trong dụ ngôn người Samaritanô nhân lành (Lc 10:34tt).

Như thế, một dụ ngôn nhỏ như dụ ngôn viên ngọc cũng hàm chứa hạt mầm, trong sơ đồ ba bước, tất cả thế giới của dụ ngôn. Thời gian mới (Nước Trời) được diễn tả trong đó cả ba thời khắc:

  • một biến cố bất ngờ,
  • một sự đảo ngược tất cả những trải nghiệm trong quá khứ,
  • một dấn thân trong một tương lai hành động và lịch sử mới với tha nhân.

Chính cái sơ đồ ba bước thời gian này thiết kế cấu trúc thế giới các dụ ngôn.

5. Thế giới các dụ ngôn:  

Ta hãy nhấn mạnh để kết thúc với câu nói: thế giới các dụ ngôn. Một dụ ngôn riêng lẻ sẽ không có ý nghĩa. Nhưng tất cả cùng nhau, các dụ ngôn làm thành biểu trưng cho Nước Trời.

Có những dụ ngôn nói lên món quà biếu tặng của Chúa, như các dụ ngôn hạt giống, sự lớn lên kỳ diệu, mùa hái gặt, bàn tiệc và lễ cưới: người gieo giống, hạt cải trổ sinh to lớn, những người làm thuê vào những giờ khác nhau…

Có những dụ ngôn nói lên hành trình của con người (được kêu gọi, trở lại, dấn thân xã hội) và gợi lên một nền thần học về sự tự do của con người: người Samaritanô nhân hậu, viên ngọc quý…

Có những dụ ngôn nói lên cách thức cầu nguyện: người bạn phiền hà, quan toà bất công…

Có những dụ ngôn, mang tính thế mạt, nói đến sự sống trong Nước Trời: cây lúa và cỏ lùng, lưới cá giăng ra biển hồ, người giàu chất của đầy kho lẫm, thợ làm vườn nho giết chết các đầy tớ rồi cả người con mà ông chủ gửi đến, yến tiệc…

Các dụ ngôn không chọn ra các nền thần học khả dĩ rồi tự khép mình trong đó. Nhưng dụ ngôn khai triển một mạng lưới ẩn dụ hàm chứa trong mình những tiềm năng có cơ phát sinh ra những tư tưởng thần học, mỗi ý một vẻ, một khía cạnh, một khuynh hướng. Chính vì thế, người ta có thể nói, có nhiều sự thật trong tập hợp các dụ ngôn hơn là trong mọi thứ thần học của chúng ta.





Nguồn: Études théologiques et religieuses, 51 (1976) 15-19.

Frankfurt, CHLB Ðức.
21.03.2012
Lưu Hồng Khanh
Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...