Đức tin đến bởi sự người ta nghe, mà người ta nghe, là khi lời của Đấng Christ được rao giảng.

September 12, 2012

5. Nhận thức luận với Socrates

Hành Trình Nhận Thức Duy Niệm của Nhân Loại


(PHẦN V)

Nhận thức luận – với Socrates






Chương III:
Nhận thức luận, hữu thể luận, đồng nhất luận, tam đoạn luận,
phép loại suy với Socrates, Platon và Aristote






Socrates (~ 469 - 399 BC)

Một cách chính yếu, triết học lấy Socrates làm khởi điểm cho lịch sử triết học. Triết học tiền Socrates, ngoại trừ Parménide đặt ra vấn đề của hữu thể luận, các nhà bác học khác, như Thalès, Anaximène, hay Héraclite…thiên về nghiên cứu thế giới tự nhiên hay vật lý. Như chính Aristote đã diễn giải, khởi nguồn, tất yếu nhận thức con người nhằm tìm hiểu sự vận động của vũ trụ, đó là vật lý. Nhưng nếu người ta phải bàn về một bản chất của sự vật trước khi nó vận động – nghĩa là môn bản thể luận ra đời – cũng là hữu thể luận, thì môn triết học sẽ phải chào đời. Socrates được xem là ông tổ của nhận thức luận (Espistémology), là người đầu tiên đưa “con người là thước đo vạn vật” vào chân lý của nhận thức để tìm kiếm sự thật. Platon là người dùng thước đo đó, tiếp theo Parménide, bàn định nhà nghề hóa rộng hơn – cao hơn – ý nghĩa hơn về hữu thể luận (Outologie). Còn Aristote là người khởi xây kỹ thuật nhà nghề cho triết học với luật Đồng nhất (Le principe d’Identite) và Tam đoạn luận (Syllogisme).
Ba triết gia vĩ đại nhất này đã tạo nên nền móng căn bản cho môn triết học. Có thể nói lịch sử triết học bản thể luận chính thống chỉ là sự khởi nguồn chảy tiếp từ ba mạch nước này. Và mọi cuộc cách mạng của triết học hiện đại cũng không thoát khỏi dấu vết tìm cách nhảy qua ba bức tường trên. Cho dù, sau này Descartes có tuyên ngôn một luồng gió mới cho cái tôi chủ trị Cogito “Tôi tư duy nghĩa là tôi hiện hữu” thì vẫn có bóng dáng của nguyên lý “Hãy tự hiểu mình”. Hay Kant thiết lập hệ thống lý trí thuần lý (raison pure) thì vẫn còn đó tính suy lý thuần khiết của Socrates hay luật đồng nhất của Aristote. Hoặc Husserl phát minh ra hiện tượng luận, chỉ là cách bóc vỏ bản thể luận mà thôi…Về tầm vóc của ba triết gia này, chính con người đầy phá phách như Nietzsche đã phải thốt lên: “Chúng ta chẳng làm được gì nhiều hơn so với công cuộc các tổ sư đã làm”.
Chính bởi nền móng căn bản, bao trùm, xuyên suốt và liên đới mật thiết của ba triết gia này, mà tôi có ý định sắp xếp họ vào chung một chương.


Phần một:
Nhận thức luận – với Socrates


I- Socrates – Con người là thước đo chân lý

Trước Socrates, phương Đông cũng như phương Tây chưa hình thành một thước đo cụ thể nào khả dĩ để tiến bước. Chẳng hạn, tư duy phương Đông lúc nào cũng đang chìm ngập trong một màn sương tương đối. Hòn đá ư? Tưởng nó nhỏ à, so với con sâu cái kiến nó có thể là cả một quốc gia lớn. Đỉnh núi ư? Con người thấy nó lớn nhưng so với con chim Bằng đầu chạm đỉnh trời đuôi tận cùng đất thì hòn núi có khác nào hòn sỏi. Và ông Hà Bá tưởng có thể vỗ ngực về những dòng sông mênh mông tràn lũ mùa mưa, nhưng than ôi bé bỏng làm sao khi những con sông của ông bị nuốt chửng vào giữa lòng biển cả.
Bùn lạnh ư? Những con Trạch vui vẻ chui luồn sâu trong đó có thấy lạnh đâu! Tuyết lạnh ư? Những con gấu Bắc Cực xát tuyết lên làn da nào có thấy gì. Người Trung Hoa còn có câu chuyện nổi tiếng về hai học giả lớn. Bên bờ sông Hào, Trang Tử nói: “Đàn cá xanh bơi lội thung dung, cá vui đó”. Huệ Tử hỏi: “Ông không phải là cá, sao biết cá vui? ”Trang Tử nói: “Ông không phải tôi, sao biết tôi không biết…!”
Nếu lên không khí này để thấy, nếu con người không đặt nền móng duy niệm tuyệt đối (cuộc sống có thể không có tuyệt đối, nhưng con người có thể tạo ra quan niệm tuyệt đối của mình) thì chẳng thể nào vận hành lý trí. Trước Socrates, Protagoras (khoảng 285 – 410 trước Jésus – Christ) đã nói: “Con người là thước đo vạn vật” (L’homme est la mesure de terctes choses). Con người là một chủ tri, là người duy nhất công bố ý nghĩa của thế giới, con người không thể nhân danh ai khác ngoài nó để nhận thức vũ trụ. So với tầm vóc con người, hòn sỏi được coi là nhỏ, và đỉnh núi được coi là lớn, tuyết lạnh so với khả năng, khả giác của con người chứ không thể so với bộ lông dầy của gấu Bắc Cực, nước sôi dù có thể mới là nhiệt độ thích hợp cho nhiều loại vi trùng, nhưng với làn da con người đó là nhiệt độ gây bỏng…
Khi con người khởi sự xác định “con người là thước đo vạn vật” thì là lúc con người khai sinh mình lần thứ hai, vượt qua sự sinh đẻ bản năng của thế giới tự nhiên, đặt mình vào trung tâm vũ trụ với thước đo từ mình. Và cái giờ phút khai sinh lần hai đó, có tên là Socrates. Bởi ông không chỉ tái sinh thước đo của Protagoras, mà còn phát triển cả một hệ thống thước đo, lấy con người công lý làm trung tâm. Muốn biến chính mình trở thành thước đo, Socrates, đã tìm đến châm ngôn ghi trên khung cửa đền Delphes: “Hãy tự hiểu mình” (connais – toi toi même).
“Tự hiểu mình”, đó là lúc con người dò tìm khả năng đầu tiên của chính mính, là thái độ phản tỉnh đầu tiên của nhận thức, là phút đầu tiên con người tạm quay mặt không ngắm nhìn vũ trụ nữa, mà ngắm nhìn chính mình, để xác định thước đo khởi thủy. Chính giây phút ấy, Socrates đã quan niệm: Vũ trụ luận thì không giúp ích gì cho tâm hồn con người, còn ngụy luận thuyết thì tuy có thực hiện được nhiều điều vĩ đại bằng cách nêu lên những tra vấn, thắc mắc những cách thức đặt vấn đề của họ lại đẩy nó lạc vào một kiến thức khác sai lạc (1).
Chính sự phản tỉnh đầu tiên của “Hữu chủ tri tự hiểu mình”, Aristote đã tấn phong Socrates là nhà tri thức luận đầu tiên:

“Socrates không triết lý về vũ trụ thiên nhiên theo toàn diện như các triết gia Tonierrs đã làm. Họ thì chú trọng đến tri thức thể chất, ngược lại Socrates theo lối tra vấn của phương pháp luận lý, như ngày nay chúng ta tiến tới tri thức khắt khe và chính xác. Vì thế Socrates quả là một lý thuyết gia về tri thức luận đầu tiên và đồng thời là một triết gia thời nay” (2).
Tầm vóc của Socrates, theo Nietzche đó là bản lề duy nhất đầu tiên mở vào lịch sử triết học. Ông nói: “Socrates là khúc quanh quyết liệt và then chốt của lịch sử thế giới”. Tại sao vậy? Chúng ta đã bàn, nhận thức đầu tiên của con người, giá trị đầu tiên của thế giới là chân lý. Bởi một lẽ hiển nhiên, nếu toàn thể vũ trụ này, mặt quả đất, mặt trời, mặt trăng, những vì sao, những dòng sông, không có thật, chỉ là ảo ảnh thì vũ trụ sẽ vô nghĩa, vô giá trị biết bao. Bởi thế, muốn tiến hành nhận biết chân lý về thế giới, chính Socrates đã thực thi mình như bản mẫu chân lý đầu tiên khơi từ mình – con người – hữu chủ tri vạn vật. Cuộc đời Socrates là bản mẫu chân lý đến mức, suốt ngày ông tiến ra quảng trường, phố xá, nơi công cộng để cùng mọi người vấn hỏi giải đáp những vấn đề ở tầm công lý.
Những vẻ ngụy biện căm ghét những luận lý chính đáng đanh thép của ông. Năm 399 (Trước Jesus Christ), ông bị nhà cầm quyền kết tội “dẫn nhập những thần linh mới”“làm hư hỏng thanh niên”. Lẽ ra ông có thể xin ân xá, nhưng ông vui vẻ chọn cái chết như chọn một bằng chứng chân lý, coi lương tâm và chân lý lớn hơn cái chết.

The Death of Socrates, Jaques-Louis David, 1787

Ông cầm bát thuốc độc vui vẻ nói:
“Quý vị đừng tưởng tiếng hót của những con chim thiên nga là tiếng hót của đau đớn. Là con cái của thần Apollon, chúng là những tiên tri, nên chúng tiên đoán được những hạnh phúc mà chúng sẽ được hưởng thụ ở cõi đời sau. Sở dĩ chúng vui hót trước khi chết hơn khi nào hết, là vì chúng vui mừng sẽ gặp lại được vị thần chúng phụng sự. Thì đối với tôi cũng vậy. Tôi phụng sự thần Apollon, và tôi cũng được đặc ân tiên đoán không kém gì chúng. Vì thế cũng như chúng, tôi phải vui mừng trước khi chết” (Phé don 84-d-85b) (3).
Chính Socrates đã khởi xây vị trí xuất phát đầu tiên của con người. Một khi điểm cốt tử như Pie- tơ rô – A rê ti nô đã thấu hiểu: “Tất cả đều là vô nghĩa, trừ khi ta dám là ta” (4) (84 – 21). Dám là ta, dám chịu trách nhiệm về ta, dám phản tỉnh ta, dám đo lường ta: đó hẳn là thước đo chính đáng đầu tiên của con người trước khi đem vào thế giới. Socrates đã dám làm vậy. Là con người đầu tiên làm vậy và ông đã trở thành bản mẫu chân lý tự thân đầu tiên theo cách mà Saint Augustine quan niệm: “Làm cho chính mình trở thành chân lý” (Vé rum tacere se ipsum)
Để trở thành con người công chính, con người của công lý và chân lý, chính Socrates là người đã tuyên xứng một lối sống hất bỏ lòng mưu lợi đổi lấy lương tâm công chính, ông nói: “Chịu đựng sự bất công còn hơn phạm sự bất công, khi đã phạm sự bất công thì đền bù tội lỗi còn lớn hơn là không đều bù tội lỗi”.
Chính tinh thần công chính của Socrates mà Platon người học trò kế tục tinh thần đó đã nói:“Công chính là mẹ đẻ của mọi đức hạnh” (la justice comme la mè re de tontes les nertus) (4). Và ông đã đổ khuôn cái thước của thầy: “Người nào nhận biết lẽ công chính thì mới đo được sự vật” (L’homme qui voit la juste mesure des choses) (5).
Socrates đã không ngừng giảng giải về phẩm chất của người công chính. Phẩm chất đó phải có trong mọi người dù một kẻ chăn cừu, một bác sĩ, hay một người lính. Người chăn cừu, chẳng hạn, việc chăn nuôi của anh ta không phải ngay tức thời ngắm đến túi tiền của những người mua thịt, mà trước mắt anh ta phải chăn nuôi chúng một cách chu đáo, cho ăn no, giữ ấm, và phòng bệnh cho tốt. Khi đàn cừu của anh vừa béo vừa sinh sôi nhiều, thì tự nhiên đó là nguồn lợi. Nguồn lợi đó tất nhiên không rót thẳng vào túi anh ta, mà nó chỉ rót qua đức tính chu đáo, cần mẫn, nhân lành, tận tâm tận lực của anh ta phủ trên mỗi đầu gia súc.
Một bác sĩ tài giỏi, giàu có cũng vậy. Bác sĩ giỏi – vì có chuyên môn cao. Nhưng phải có nhân đức thì mới đưa chuyên môn của mình vào mọi tế bào mạch máu cần chăm sóc của người bệnh. Vị bác sĩ đó nổi danh, vì tay nghề của ông, còng đức nhân ái của ông dành cho người bệnh, và một kết quả tất yếu sẽ đến, những người bệnh sẽ đền công ông xứng đáng-trả ơn những gì ông gieo cho họ. Trái lại, nếu vị bác sĩ đó chưa chữa bệnh, vừa nhìn thấy bệnh nhân đã nghĩ ngay đến cách moi tiền, chuyên môn không được lưu tâm sẽ kém cỏi, nhân đức chỉ tìm cách rót qua lỗ đồng xu sẽ chẳng thể nào lớn được. Rút cục sẽ chẳng ai đến thăm và khám bệnh.
Làm nghề thầy giáo cũng vậy. Khi chuyên tâm truyền đạt kiến thức cho học sinh, thì vừa được chuyên môn, vừa được kính trọng, vừa được đền đáp xứng đáng. Trái lại, chưa dạy đã nghĩ đến cách lấy tiền học trò, rút cục trở thành kẻ buôn mấy chữ quèn.
Đó là đức nghề nghiệp của mỗi chuyên môn, tự thân mỗi nghề nghiệp đó đã phải chứa đựng nhân đức giành cho người khác. Người chăn cừu phải nhân đức với cừu thì đàn cừu mới sinh trưởng đông đúc và đó chính là mối lợi. Người bác sĩ phải chạy chữa bệnh nhân bằng nhân đức “lương y như từ mẫu” mới mong chữa lành họ. Và người thầy phải trao cho học trò chữ nghĩa của nhân đức mới mong học trò tiến bộ. Học trò tiến bộ thì thầy mới được xem như thầy giỏi.
Đặc biệt về lẽ công chính, Socrates đã khẩu chiến quyết liệt với những con người vụ lợi. Theo họ thì, cái gì có lợi là tốt, cái gì có hại là xấu. Cái gì của ta là tốt, mọi cái của kẻ thù thì xấu. Socrates đã minh định rõ ràng: Nhiều cái có lợi là xấu, vì giống vị bác sĩ kia chẳng hạn có thể lấy tiền mà vẫn thiếu trách nhiệm với bệnh nhân, hay thầy giáo dạy không hết mình nhưng vẫn lấy đủ tiền của học trò. Và rất nhiều cái có hại cho mình, nhưng vì danh dự, vì lương tâm, vì mọi người, vì lợi ích chung, vì công lý ta vẫn phải làm. Còn về quân thù, Socrates chỉ ra, ở phía kẻ thù có thể vẫn có những đức tính tốt như: trung thực với nhau, đùm bọc lẫn nhau, khoan hồng với tù binh đối phương. Ngược lại, quân ta không có nghĩa là không còn dối trá, coi tội của đồng đội là công của mình, tàn sát tù nhân đối phương…Rút cục, ông kết luận, công lý không phụ thuộc vào lợi hay hại, quân ta hay quân địch. Mà công lý tồn tại trên lương tri và chân lý. Và có lợi cho mình mà hại đến công lý thì vẫn không làm, ngược lại có hại đến mình mà sáng tỏ công lý thì vẫn làm – làm bằng mọi giá.
Socrates là người luôn tin chắc: chân lý là yếu tố qui tụ loài người lại với nhau. Loài người không thể qui tụ lại với nhau bằng ý thích, số này thích ăn thịt lợn, số khác lại kiêng như những người theo đạo Hồi chẳng hạn. Số này muốn mưu lợi giành chiến lợi phẩm từ thắng trận, số khác cũng muốn thế và tiến hành mọi thủ đoạn chống lại. Ra chợ, người bán cá khuyên người ta ăn cá thì bổ, người bán thịt khuyên ăn thịt có nhiều ca-lo, người bán rau thì lại chê bai thịt lẫn cá đều mắc chứng khó tiêu.
Như người Trung Hoa bảo: Cùng làm thợ mộc, người đóng xe mong người ta giàu, kẻ đóng quan tài mong người ta chết. Than ôi, cùng một nghề mà con khác nhau đến vậy. “Sư nói sư phải, vãi nói vãi hay”… nhưng đứng trước sự thật, thì từ quan tòa, đến nạn nhân, từ người làm chứng đến kẻ cướp không thể nào chối cãi. Và chính Socrates đã tạo dựng hạt nhân chân lý được sản sinh từ lý trí:

“Theo tôi cái phải là chân lý phải là chính nghĩa, đó là tinh thần của tinh thần tôi. Nhưng cái mà tinh thần tạo ra từ bản thân nó như vậy, thì cái đó phải sinh ra từ tinh thần như là từ cái phổ biến, như là tinh thần hoạt động với tính cách là cái phổ biến, chứ không phải từ những dục vọng, lợi ích, hứng thú, ngông tưởng, sở thích, mục đích, khuynh hướng của nó” (6).


Theo Socrates, chỉ có tinh thần mới là cái chính nghĩa- mới đến được cái phổ quát- nghĩa là công lý- và chỉ có vậy nó mới đạt đến chân lý. Trái lại tất cả những dục vọng, hứng thú, mục đích chỉ là những cái vị kỷ, qui về lợi ích cá nhân không thể nào đạt tới chân lý. Theo ông, đó cũng là cách mà các triết gia sau này nhìn nhận. Spinoza nói: “Trực cảm là nguồn gốc của lầm lạc” (7). Mortaux viết: “Cảm giác không phải là khoa học vì trong những hoàn cảnh giác quan khác nhau tạo cho chúng ta những cảm giác khác nhau” (8). Còn Hegel thì xác định, cảm giác chỉ là thứ bị động không thể bước lên ranh giới chủ tri để thâu hái chân lý: “Không nghi ngờ gì cả “tính bị động” tồn tại trong cảm giác” (9).
Từ khởi điểm “Hữu chủ tri tự hiểu mình”, Socrates đã dựng lên con đường của tinh thần – cái sẽ tìm đến sự phổ quát – nơi hội tụ cùng chân lý. Cuộc hành trình cốt tử này sẽ được chúng ta tìm tòi tiếp ở phần sau, nay để nhấn mạnh tầm quan trọng của Hữu chủ tri, tôi xin trích dẫn. Lê-nin đã nói về Socrates như sau: “Socrates coi con người như một sinh vật đang tư duy, là thước đo vạn vật” (10). Và triết gia Kierkégaard đã tái nhìn nhận tầm vóc của chủ thể tư duy như sau: “Tư duy phải là tư duy của chủ thể: người tư duy là người tư duy chủ quan. Và nhiệm vụ của người tư duy chủ quan bao gồm tự hiểu mình trong tồn tại” (11). HM142.

II- Socrates, người nghĩ ra công thức nhân văn cốt tử lý trí = Đức hạnh = Hạnh phúc


Theo công thức nổi tiếng này, Socrates quan niệm, chỉ có lý trí mới nhắm đến cái phổ biến, chỉ có đức hạnh mới nhắm đến người khác, vì đức hạnh cho bản thân là một đức hạnh vô nghĩa, và chỉ khi lý trí cầm giữ được bản năng như điều khiển con thuyền không đắm giữa dòng sông cuộc đời, con người mới được xem như hạnh phúc.
Ông giải thích cụ thể, nếu con người không biết cầm giữ mình khi ăn uống sẽ mắc chứng tháo chảy, không những đào thải mọi cái mình ăn, còn đau ốm, gầy mòn. Trong khoái lạc tình dục cũng vậy, nếu con người không biết cân bằng giữa lạc thú và việc giữ gìn sức khỏe cường tráng, thì ngay cả thú vui đó sẽ chóng tiêu vong vào bệnh tật.
Phái ngụy biện gia, đã ào ào phản ứng, họ cho rằng: Ăn kiêng khem là khẩu hiệu của một chiếc dạ dày yếu đuối. Trong khi đó, với những con người hùng mạnh là ăn, cắn xé nhồm nhoàm những gì ngon, uống xả láng những nguồn men trong tiếng la hoan hỉ, đó, đó mới là sống, mới là thưởng thức hết cỡ hương vị cuộc đời, mới là hạnh phúc. Còn lạc thú ái ân cũng vậy, nếu không biết tận hưởng sắc đẹp – khoái lạc một cách nồng cháy thì chỉ là cách sống của mấy kẻ còm nhom bạc nhược.
Socrates: Cứ cho rằng, con người như một chiếc thùng, càng đựng được nhiều nước thì càng hạnh phúc.
Phái ngụy biện: Đồng ý.
Socrates: Vậy mọi chiếc thùng đều có giới hạn, và muốn đựng thêm nước thì người ta phải đục thủng thành thùng để nước chảy vọt ra (đó cũng là hình ảnh phóng thể của khoái lạc). Và càng đục thủng nhiều lỗ, nước chảy ra càng nhiều (khoái lạc càng nhiều), thì càng đựng được nhiều hơn nước đổ vào.
Phái ngụy biện: Đồng ý.
Socrates: Như vậy một chiếc thùng không đáy là chiếc thùng đựng được nhiều nước nhất. Nước đổ vào bao nhiêu tùy ý, đổ vào bao nhiêu ra bấy nhiêu. Và một chiếc thùng không đáy không còn là một chiếc thùng nữa.
Phái ngụy biện: Im lặng.
Socrates: Một con người cũng không còn là người nữa khi anh ta phóng thế tất cả những gì mình có để trở thành trống rỗng tuyệt đối. Vì thế, con người có lý trí, là kẻ cân bằng được lượng nước đổ vào với những vòi chảy ra. Làm sao để nước trong thùng luôn luôn còn. Một kẻ không lý trí, nhìn thấy miếng ăn, đã ăn hết mình, đến mức tháo chảy, làm hỏng dạ dày, lần sau nhìn thấy miếng ăn đã sợ, là kẻ ăn ít nhất, chứ không phải ăn nhiều. Kẻ tham khoái lạc tình dục cũng vậy, không biết giữ thân, chỉ là kẻ chóng suy tàn, yểu mệnh. Cuộc đời con người như một con đò, không những cần bánh lái của lý trí, mà còn cần lý trí điều tiết cân bằng giữa dục vọng và sự sống còn. Đó mới là hạnh phúc, sao có thể coi một con đò là hạnh phúc, ngay khi hạ thủy. Vì thiếu lý trí đã chiêm nghiệm ngay giữa thác ghềnh dục vọng?


Socrates được coi là người tiên phong mở màn tạo đạo đức duy lý. Bởi, trước ông mọi đạo đức được các tôn giáo, các lề luật các quy tắc xã hội áp đặt như những chuẩn mực võ đoán, ép buộc. Trái lại, Socrates dùng chính dục vọng để tìm kiếm đạo đức. Ở đó, khi con người muốn duy trì sống, hưởng thụ nhiều dục vọng hơn, thì con người phải tìm ra nguyên lý tồn tại của nó – nguyên lý đó là lý trí – lý trí đó là đạo đức. Nietzsche đã loan báo về con người duy lý Socrates như sau: “Socrates là tiêu biểu con người không có tính cách thần bí” (Socrates st le type de l shomme non mystque ) (la naissance de l tragadie,tr 71) ((12).
Về lý thuyết Socrates quan niệm: trí thức là nhân đức (la science vertu) ông cho rằng “người ta không thể muốn làm người ác nếu người ta có trí thức chính xác về điều thiện” (on ne fent pas vanloir son mal quand on sait de scien certaine que est le lien) ((13).
Theo Socrates thì con người không thể sống tạo đức nếu không dựa trên nền móng của chân lý. Như chiếc thuyền kia muốn nói, muốn vận động thì phải nắm bắt tuân thủ những nguyên lý thật của tự nhiên về trọng lực sức đẩy của nước, bánh lái và động lực. Mà chân lý, là cái mà chỉ có tinh thần mới đạt đến. Bởi thế mà ông đã thiết lập “tinh thần là lý tính của vạn vật”.
Ông lý giải:
“Tinh thần là nguyên nhân xếp đặt mọi sự và tôi rất hoan hỉ về bài học cao siêu ấy và thầm nghĩ rằng: nếu là nguyên nhân xếp đặt mọi sự một cách hoàn hảo hơn hết đặt để mọi sự vật vào vị trí hoàn hảo nhất. Và tôi lý luận rằng: nếu muốn khám phá ra nguyên nhân gây ra sinh trưởng hay hủy diệt hay tồn tại của một sự vật gì người ta đều phái khám phá phá ra trạng thái tồn tại hay hoạt động hay đau khổ nào hoàn hảo nhất cho sự vật ấy.”(14) (phé don 96a – 99d)
Chưa dừng ở mức tinh thần là cái xếp đặt mọi sự. Socrates còn đẩy tinh thần lên rất cao. Ông cho rắng: “Linh hồn tham dự vào đời sống thần minh và con người phải nhận thức linh hồn mình là tinh thần và như thế nó tương tự với thần minh” (15). Và “Con người phải nhận thức linh hồn mình là tinh thần và như thế nó tương tự với thần minh” (16).
Lý trí tìm đến sự thiện và chỉ có sự thiện mới là hạnh phúc đó là công thức Socrates muốn nhắc đi nhắc lại sao giảng ở mọi lúc mọi nơi ông khuyên mọi người: “Phải tự lo lắng cho mình và tìm kiếm nhân đức, sự khôn ngoan hơn là tìm kiếm lợi ích riêng tư”. Ông trình bày: “Chỉ trong linh hồn tức lý trí cuả ta mới khám phá ra được chân lý mà chân lý cùng sự thiện” (17) .
Và chính Socrates là bản mẫu kiệt cùng của chân lý và sự thật đến mức vào lúc ông chết, người học trò của Platon của ông đã khơi lời chảy và miệng ông trôi theo lời độc dược: “Một người suốt đời thực hiện nhân đức thì sẽ chết trong hy vọng tràn ngập.” (18).
Và Nietzsche đã khao khát reo lên:
Không! Không phải bát thuốc độc được trao cho Socrates mà chính Socrates đã trao mình cho thuốc độc một cái chết thật đẹp, chết như bông lúa của ánh sáng ươm mần cho cả vụ mùa. Lịch sử nhận thức chân lý của nhân loại chết như cái chết tuần nạn của chúa JESUS đóng đinh trên thập giá mong cứu chuộc cả linh hồn nhân loại ra khỏi cõi u mê lầm lạc tiến về vương chiều ánh sáng.”

III – Socrates người đầu tiên tạo ra nhận thức luận cái là ý thức thuần lý


Không ai khác chính Aristote cho rằng “Socrates là một lý thuyết gia về tri thức luận đầu tiên”. Tại sao vậy? Khác hẳn những nhà bác học trước và cùng thời với ông chỉ chú tâm nghiên cứu tìm hiểu vũ trụ, trái lại ông là người ông là người đầu tiên quay vào trong chính tinh thần mình cùng mọi người tra vấn, rút từ tinh thần bên trong ra những chân lý đó là cách ông đã dựng nên khoa biện chứng pháp. Ông luôn luôn bắt đầu từ điểm xuất phát “Người thông minh nhất là người biết mình không biết gì cả”. Ông cũng cần buộc mọi người bắt đầu từ điểm ấy và ông quan niệm: “Cái biết thực sự là từ ở bên trong”. Bởi thế trong tranh luận ông tự thú mình như một người thực hành nghề hộ sinh của mẹ ông thực hiện đỡ đẻ những ý tưởng của người khác cho đến khi họ nhận ra vấn đề bằng chính cơn đau đẻ sinh ra hài nhi ý tưởng cuả mình ông gọi đó là nghệ thuật “sản ý”. Đó là cách sống cho trí tuệ. Về mặt lý thuyết ông được đánh giá rất vĩ đại qua hai công trình chính:

1. Nhiệm vụ đặc biệt của linh hồn là tri thức như khoa học, tức là, trí thức có tính cách suy lý. Tri thức đó có tính cách bẩm sinh (inné) trong linh hồn. Đó là cách thể hiện chính bản tính của linh hồn có lý trí. Trí thức không thể từ ngoại tại mà đến được, trái lại nó phải được tiềm chứa trong nội tại của linh hồn ngay từ nguyên thủy, như một sản phẩm của thần thánh.
Theo nhiều triết gia, việc Socrates coi đặc tính căn bản nhất của tri thức bẩm sinh, đã làm cho Socrates trở thành người sáng lập ra triết lý có tính cách sang lý vĩ đại nhất, vì theo chủ trương ấy trong tác động trí thức trí khôn không lệ thuộc những sự vật ngoại tại mà lại tiềm chứa trong chính mình nguyên tắc của chân lý.
Lý thuyết ấy của Socrates đã được Platon khai triển rồi được Dercartes, Leibniz, Kant lập lại với nhiều hình thức.
Do đó có thể nói rằng lý thuyết ấy đã chi phối tất cả quá trình triết lý xưa nay (Charles Werner Pr.Gr.tr52) (19).
2. Tri thức phải có đối tượng là cái phổ biến nói khác đối tượng của tri thức không thể là những sự vật đặc thù mà phải là yếu trình chung cho tất cả những sự vật nào thuộc về cùng một chủng loại qua như sau này Aristote thiết định: chỉ có tri thức về cái gì tổng quát, chứ không có trí thức về những gì đặc thù (De science que du général, il n’ya pas de science du particulier)(20).
Trở lại tinh thần suy lý tại sao khi Socrates coi tri thức là bẩm sinh lại trở thành triết lý có cách suy lý vĩ đại nhất? Bởi đó chính là lúc mở màn khoa lý luận cùng như tiến trình suy lý thuấn khiết của nhân loại đó cũng chính là lý do đầu tiên ta mở màn đi vào đề tài chuyên luận của cuốn sách này: Hành trình nhận thức duy niệm. Để xác định tính thuần lý cốt tử của tư duy, sau này Descarte cho rằng những chân lý toán học là tuyệt đối, chẳng hạn một tam giác không thể tương đối thành tứ giác, hoặc 2+2=4 không có gì tương đối ở đó. Còn Kant cũng xác lập nền tảng mở màn triết học của ông là không có tính thuần khiết không thể có tự do khoa học chẳng hạn khi khoa học nghiên cứu một giọt rượu thì đó đích xác phải là giọt rượu, chứ không thể coi trong rượu có 50% nước, để đem một giọt nước vẩn đục một nửa vào nghiên cứu.
Suy lý bẩm sinh của Socrates là vĩ đại nhất, vì ông là người loại bỏ cái ngoại tại của thế giới bên ngoài, để tạo dựng khả năng thuần lý của tư duy. Nói một cách dễ hiểu, tư duy con người như cái thước, muốn đo vạn vật thì trước hết nó phải thẳng. Và việc thiết định nên nó thẳng là việc đào luyện chỉnh đốn đầu tiên của chính cái thước. Ông luận lý rằng:
Xưa nay, nhìn một người thấp, chúng ta luôn bảo, anh ta thấy vì so với những người cao, chúng ta liền bảo anh ta gầy vì so với người béo thì gầy. Và cụ thể hơn, chúng ta luôn chứng minh 6 nhỏ hơn 8, bằng cách đem 8 – 6 = 2. Thế là thay vì chứng minh 6 nhỏ hơn 8 hai đơn vị, chúng ta luôn chứng minh 8 lớn hơn 6.
(Bên trên chúng ta đã đề cập, phương Tây trước Socrates và phương Đông sau nhiều thế kỷ không phát triển được tư duy khoa học khi luôn luôn lùng nhùng trong suy lý duy niệm tương đối).
Socrates phát triển tiếp một người thấp so với người cao coi như là thấp vậy người cao so với đỉnh tháp sẽ thấp hay cao? Và đỉnh tháp so với các vì sao thì sẽ thế nào? Nếu cứ so sánh mãi vậy chúng ta chẳng đi đến kết quả nào. Vậy giờ chúng ta nên nghĩ người thấp – bị coi là thấp – bởi vì nhân danh cái thấp anh ta thấp. Người cao được coi là cao – vì nhân danh cái cao – anh ta cao và 6 nhỏ hơn 8, vì nhân danh cái nhỏ, số 6 nhỏ hơn và 8 lớn hơn 6, vì nhân danh cái lớn hơn, 8 lớn hơn.
Chính quá trình thuần khiết tuyệt đối này đã có công giúp Aristote sau đó xác định lập tính độc nhất tuyệt đối A = A. A là A vì chính nó là nó trong tận căn đế cũng như mọi cái thuộc về nó, chứ không phải so với cái gì khác nó ngoài nó. Và chính nguyên lý đồng nhất này đã đặt nhận thức nhân loại lên khởi điểm đầu tiên để hành trình tiến về phía trước. Và Aristote đã ghi công trạng cho Socrates rằng: Socrates đã ghi được hai điểm quan trọng một là những chứng lý diễn dịch, hai là những định nghĩa tổng quát và phổ biến (21).
Và để hiểu rõ thêm về Socrates chúng ta hãy nghe E.Boutroux nhận định:

“Kỳ cùng, tuy Socrates thất bại phần nào trong công việc ông đã khởi sự, nhưng đối với ông, không phải là một công trạng nhỏ bé khi là người đầu tiên, ông đã am hiểu rằng một tri thức đạo đức phải như thế nào và đặt những viên đá đầu tiên cho tòa nhà mà các môn đệ trứ danh của ông sẽ hoàn tất.

Như thế cũng đủ để nói lên vì sao Socrates đã chiếm một chỗ đứng vĩ đại trong lịch sử tinh thần của nhân loại và sự thán phục của biết bao thế hệ liên tiếp đối với ông.” (22)
Và chúng ta hãy nghe người học trò vĩ đại nhất Platon nói về người thầy vĩ đại nhất:
“Socarte là người thông thái nhất trong thời đại của mình. Tôi có thể nói chắc chắn rằng tất cả những con người mà tôi biết cùng thời ông, ông là người thông thái nhất, công chính nhất và tốt nhất” (il ‘etait le plus sage, le plus just, et le meilleur)(23)


[Còn tiếp]


Nguyễn Hoàng Đức







Chú thích:


  1. Lê Tôn Nghiêm: Socrate,ca dao 1975, tr 27
  2. Lê Tôn Nghiêm: Socrate,ca dao 1975,tr 119
  3. Lê Tôn Nghiêm: Socrate,ca dao 1975,tr 107
  4. Sđd (GPO), tr 55
  5. Sđd (GPO), tr 55
  6. Sđd (KTH) , tr 309
  7. Sđd (PM), tr 109
  8. Louis-ma rie mortau x:l hom me at le monde (HM) parais 1977, tr 82
  9. Sđd (BKTH), tr 324
  10. Sđd (BKTH), tr 309
  11. Sđd (HM), tr 142
  12. Sđd (socrate), tr 96
  13. Sđd (socrate), tr 132
  14. Sđd (socrate), tr 99
  15. Sđd (socrate), tr 105
  16. Sđd (socrate), tr 105
  17. Sđd (socrate), tr 36
  18. Sđd (socrate), tr 107
  19. Sđd (socrate), tr109,110,103
  20. Sđd (socrate), tr 113 114
  21. Sđd (socrate), tr 37,38
  22. Sđd (socrate), tr 136
  23. Sđd (GPO),trang 25
Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

4. Chân Lý

Hành Trình Nhận Thức Duy Niệm của Nhân Loại


(PHẦN IV)


Chân Lý



Trước khi đi vào nhận thức triết học, con người luôn luôn phải bước qua cổng thành Chân lý. Nói thế không có nghĩa, chân lý là đặc ân hay nguyên tắc riêng có của triết học. Một chiếc tên lửa của ngành vật lý chẳng hạn, nó không thể bay khi không đảm bảo những sự thật về trọng lực – vận động – và nhiên liệu. Ngành hóa học cũng sẽ không thể tác thành nổi dù một phân tử nước (H2O) nếu họ trộn 2 nguyên tử chưa thành Hydro với một nguyên tử Oxy rởm. Ngay trong đời sống hàng ngày từ việc nhỏ nhất đến việc lớn nhất cũng đều phải bám sát chân lý. Một người đến cửa hàng dây điện cầm vào cả cuộn dây cũng không hề sợ, vì anh biết rằng ở đó không có điện; nhưng vào trường hợp chỉ có một mẩu dây điện đính trên tường, thì anh lại cầm bút thử điện thử xem có điện không? Bởi nếu anh không thận trọng sẽ bị điện giật. Nước chưa sôi không thể pha trà, bởi thế, khi sản xuất những bình đun kín người ta phải gắn đồng hồ đo nhiệt độ để xem nước đã ở khoảng 100o. Hai người va chạm nhau, kéo nhau ra tòa, người nói thế này, người nói thế kia, bởi thế tòa mới cần đến người thứ ba làm chứng cho sự thật, để phân giải theo sự thật.
Con người sống, làm việc, hay nghiên cứu các ngành khoa học hiển nhiên điều phải tuân thủ những điều kiện và nguyên tắc chân lý. Nhưng đó là chân lý tự thân. Có thể so sánh các loài vật đều có sinh dục thì mới sản sinh – duy trì – phát triển, nhưng đó là sinh dục bản năng, và chúng chưa bao giờ có bộ môn “khoa học tình dục”. Các ngành khoa học nhắm đến những mục đích đặc thù, và chân lý là nguyên tắc hiển nhiên để lần tìm chân lý. Bởi thế, có thể nói, chỉ có triết học mới là ngành khoa học gần như trọn vẹn và duy nhất tìm tòi thẳng vào bản chất của chân lý. Cũng có thể nói, triết học là khoa học về chân lý (trong khi đó, các ngành khoa học khác là những khoa học nhắm đến những đối tượng riêng rẽ của mình dựa trên tinh thần chân lý.)
Vào lúc khởi đầu triết học Hy Lạp, trước Công nguyên, triết gia Aristotes đã nói: “Tình yêu chân lý là đức hạnh lớn nhất”. Theo ông, chân lý không chỉ là tiêu chuẩn thiết yếu của nhận thức, mà mở màn, đó là đức hạnh. Tại sao là đức hạnh? Trước ông, triết gia Platon đã lý giải, mọi chân lý, mọi vẻ đẹp, mọi cao thượng ở đời sẽ trở nên vô nghĩa nếu không mang đức hạnh. Hai nhà triết học cùng nghiên cứu chân lý chẳng hạn, cái gì sẽ xảy ra, nếu vào ngày cuối cùng phát giác ra vấn đề mới của chân lý, một nhà triết học hất bỏ đồng nghiệp của mình công bố phát minh của người kia thành của mình? Hai họa sỹ cùng treo tranh lên tường triển lãm, giá trị cái đẹp sẽ ra sao nếu ngày trao thưởng người ta đánh thó trao cho bức tranh xấu hơn giải cao hơn và ngược lại? Trước tòa án cũng vậy, công lý ở đâu, nếu quan tòa hay kẻ làm chứng bị mua chuộc đã công bố cái không xảy ra là sự thật? Điều đó, cho thấy phát minh ư, tài năng ư, sẽ chẳng là gì nếu con người sống ngoài đức hạnh về chân lý? Chính bởi đức hạnh về một chân lý tối cao, mà Boileau quả quyết: “Không gì đẹp bằng sự thật, chỉ cái thật mới đáng yêu”.
Cái thật – đó là chân lý – là cái khởi đầu mọi sự – và chính sự khởi đầu đặt căn bản trên sự thật đó, là cái duy nhất có thể đạt đến tột cùng. Nhà tư tưởng Krisnamurti nói: “Người ta không thể nào phủ nhận một sự kiện. Người ta chỉ có thể phủ nhận ý kiến về sự kiện”. Một cách tràn đầy hơn, trong Kinh Thánh, Chúa Trời phán bảo: “Không có gì bưng bít mà không bị lộ tẩy, không có gì dấu diếm mà chẳng bị vạch trần. Điều gì thầy nói cho chúng con trong bóng tối hãy công bố nơi sáng sủa. Sự gì chúng ta nghe thì thầm trong tai hãy nói trên mái nhà”. (Kinh Mathews)
Vậy chân lý là gì? Tiếng Latin là Véritas, tiếng Pháp bắt nguồn từ đó là Vérité, một cách giản dị hơn tiếng Anh gọi là Sự thật với từ Truth.
Chân lý là sự thật! Một cách giản dị trực tiếp và hiện thực, trí óc con người (cả loài vật) chỉ tiếp nhận cái gì là thật. Chẳng hạn, kiến trúc là ngành cổ nhất của con người vì việc đầu tiên con người phải tìm chỗ trú hay xây dựng tổ ấm, người ta buộc phải chọn hang nào không quá ẩm mốc để khỏi viêm phổi, nơi nào an toàn không bị thú dữ, rắn rết bọ cạp tấn công, nếu dựng nhà thì phải biết cách dựng cây cột cho thẳng để nhà không xiêu vẹo, đổ nát. Khi tìm thức ăn cũng vậy, người ta buộc phải nhận biết lá nào độc, cây nào ăn được. Gặp thú hoang thì con nào vô hại, con nào phải tránh. Hoặc nước mát nhưng có thể gây chết đuối, lửa nóng lại làm chín thức ăn.
Tóm lại, một cách thiết thân, trí óc chỉ thâu nạp những gì là thật, những bản tin thật, và những gì đã lấy ra khỏi những lớp hình thức đánh lừa, giả ngụy. Triết gia Lagneau nói:“Tư duy chỉ có thể có được đối tượng là thực tại1. Morfaux lý giải như sau: “Tư tưởng chỉ có thể đạt tới từ một trực giác đơn giản, cái thể hiện như “thật” trong một “hiển nhiên”, cái là riêng rẽ trong khi nó là “tư tưởng” hay hình ảnh của yếu tính2. .
Chân lý là sự thật. Nhưng sự thật đó thế nào? Chẳng hạn như triết gia Descartes minh giải, khi chúng ta nhúng một chiếc que xuống nước, thấy nó bị cong to ra, và ngắn lại. Nhưng sự thực không phải vậy, chiếc que vẫn thẳng, nghĩa là sự thật của nó vẫn thẳng, chỉ có con mắt của ta bị tính khúc xạ của nước đánh lừa. Hay từ xa, chúng ta nhìn thấy một tháp chuông nhà thờ, trông nó tròn, nhưng lại gần thì nó vuông góc, sở dĩ có sự nhầm lẫn đó vì từ xa mắt chúng ta không nhìn ra nổi cạnh góc vuông. Sự thật của một chiếc gậy trong tầm tay, của một tháp chuông trong tầm mắt còn có khả năng gây lạc hướng như vậy, thử hỏi những sự thật tinh vi dấu sau vô vàn hiện tượng phức tạp, hay xa xôi vời vợi như các vì tinh tú, thì còn dễ lạc hướng đến đâu? Bởi thế muốn tìm đến chân lý, trí óc con người phải biết gạt bỏ những ảo ảnh lạc hướng, những giả trang che đậy, để tìm ra cốt lõi của sự thật. Hegel nói: “Bản chất là chân lý của tồn tại3. Có thể hiểu, bất cứ sự vật nào, sự thật đích thực về nó phải quy về bản chất mang sự thật của nó – đó chính là cái làm cho nó tồn tại như là chân lý- và trong chân lý.

Nhưng muốn tiến đến sự thật, đặc biệt là sự thật bởi chủ tri con người và cho con người. Con người không còn cách nào khác hơn là xúc tiến lý trí của mình mong tiếp cận – thâu tóm sự thật của đối tượng. Các nhà thực chứng, nghĩa là những con người chủ trương nắm bắt sự thật bằng Chứng – Nghiệm – Thực, như Leibniz và Hume đã đưa ra hai điều thật:
  1. Những cái tiên thiên (priori) được hiểu nhắm đến kinh nghiệm và sự phân tích (analytic).
  2. Những cái hậu thiên (prosterior) và còn là sự tổng hợp (synthetic) 4.

Nghĩa là đứng trước một sự vật, bằng giác quan, như thị giác, thính giác, xúc giác, khứu giác, vị giác, con người mở đầu tiếp nhận nó, sau đó có kinh nghiệm về nó và trí óc phân tích để phân loại, phân hạng, phân biệt… Còn “hậu thiên”là con người tổng hợp mọi phân tích của mình để tìm ra sự thật. Từ những nhà thực chứng, có thể rút ra: Thí nghiệm, thể nghiệm, ứng nghiệm, trải nghiệm là cách mà con người muốn đi vào để tìm ra chân lý.

Con người dùng nhận thức của mình để tìm hiểu sự vật – thật sự như là sự vật, là con đường từ lý trí chủ quan gặt lấy chân lý khách quan. Trong “Từ điển triết học phương Tây hiện đại”, triết gia Moore chỉ ra: “Chân lý phải là sự phù hợp của phán đoán với bằng chứng và nhiệm vụ của triết học là phân tích bản chất của sự phù hợp đó5.
Đến đây, chúng ta đang đi vào trung tâm của vấn đề chân lý. Ngay buổi rạng sáng của triết học Hy Lạp, Parménide đã xác định: “Trên con đường chân lý, người ta tuyên bố sự đồng nhất của hữu thể và tư duy6.
Theo cách đó, thì khi tư duy có khả năng đồng nhất nhận thức của mình với bản chất của sự vật, nói cách khác, khi tư duy và sự vật tìm được tiếng nói chung về bản chất của sự vật, thì chân lý xuất hiện. Một cách đồng tình, Aristote cũng xác định: “Chân lý tương xứng, xứng thể giữa thức và thể.”
Kế tiếp đó Hegel cũng khẳng định tính tất yếu của tồn tại chân lý trong và với ý thức: “Cái gì thực là cái có lý, cái gì có lý là thực”.
Hegel còn chỉ rõ hơn, ngay cả khi ý thức chưa xuất hiện để thấu hiểu bản chất sự vật, thì bản thân sự vật vẫn thai nghén chân lý tự thân của nó.
Chân lý và thực tại luôn luôn song hành.” (La vérité et la réalité sont toujours marche)7.
Còn Boieau thì diễn giải cụ thể hơn về chân lý: “Chân lý sự hòa hợp giữa tư tưởng với đối tượng của nó”.
Trong “Bút ký triết học”, Lenin đã lĩnh hội về chân lý như sau: “Chân lý đó là cái khách quan, đó là quan hệ độc lập với người quan sát. Trên thực tế đó là cái được mọi người thừa nhận, đó là cái làm đối tượng cho kinh nghiệm phổ biến, cho sự đồng ý phổ biến”(trang 494)
Tại sao chân lý luôn đòi hỏi hai thành phần sự vật và chủ tri? Bởi vì:

  1. Sự vật: Là đối tượng tự thân cung cấp cho con người “địa chỉ” hiểu biết về chính nó.
  2. Chủ tri: Là nhận thức của con người định hướng tìm hiểu bản chất của sự vật. Thế giới không có con người, thế giới vẫn tồn tại một cách khách quan, nhưng vô cảm – vô tri, bởi vì theo các triết gia thì “thế giới chỉ có ý nghĩa trong và bởi tinh thần” (le monde n’a de sens que dans et par la’esprit) 8. Một cách rõ ràng, Lenin diễn giải: “Con người cần phải công nhận: Chân lý mà con người có thể đạt được là một chân lý của con người. Với chữ này, chúng ta không muốn nói rằng chân lý đó là tương đối, theo ý nghĩa hoài nghi chủ nghĩa của chữ ấy. Mà muốn nói rằng chân lý phụ thuộc vào kết cấu của loài người và chỉ có giá trị đối với loài người mà thôi9.

Chân lý, đến đây, với chúng ta tưởng đã lộ hiện ra khá rõ ràng đó là: nhận biết đan kết đồng nhất với sự vật hay thực tại. Nhưng con đường của chân lý còn gian nan lắm, mà dường như mọi nỗ lực trên mới chỉ là bước khởi đầu. Pascal nói: “Chân lý bên này dãy Pyrénees là ngộ nhận ở bên kia”. Các nhà triết học thường dẫn dụ, người ở bên này con sống thường gọi người bên kia là “bên ấy”, người bên kia lại gọi nói họ đúng là “bên này”. Bên này hay bên ấy, bên ấy hay bên này không tùy thuộc thực thể địa lý mà phụ thuộc vào chỗ đứng của mỗi bên.
Và có một chuyện rất điển hình về chân lý:
Ngày kia, có hai hiệp sĩ tới từ hai phía đối diện, lúc gặp nhau, cùng lúc họ đều thấy một chiếc gia huy treo trên cành cây. Hiệp sĩ bên này nói “mặt nó bằng vàng”. Hiệp sĩ bên kia nói “mặt nó bằng bạc”. Hai bên cãi nhau, rồi lăn vào hỗn chiến.

Sau nhiều hiệp hai người cùng ngã ngựa và ngã về hai hướng của nhau. Nhìn lên, hiệp sĩ “bạc” thấy gia huy mặt vàng, và hiệp sĩ “vàng” thấy gia huy mặt bạc. Thế là chiếc gia huy có hai mặt cả vàng lẫn bạc. Nhưng do chưa kịp nhìn kỹ cả hai phía, hai bên đã vội vàng cãi cọ và ẩu chiến lẫn nhau. Họ đánh nhau để bảo vệ “cái đúng” từ phía mình.
Các triết gia cũng xác định, chưa nói đến những gì to tát và huyền bí, chỉ cần đặt một bao diêm trước mặt, chúng ta cũng không thể nào nhìn thấu cả sáu mặt của bao diêm, bởi lẽ ánh mắt của ta chỉ rọi từ một phía. Vậy thì chân lý dù chỉ là nhận thức của chúng ta đồng nhất với hữu thể, nhưng chính chúng ta còn chưa đồng nhất với nhau – nghĩa là chưa mang “giá trị có ý nghĩa chung” thì làm sao có thể thâu hái chân lý phổ quát như là công lý?
Đó mới chỉ là thái độ sai lầm tự nhiên, nông nổi, bồng bột, tuy vậy vẫn là vô tư. Nhưng có một thái độ nguy hiểm hơn, đó là cách con người cố tình che đậy chân lý, đánh lạc hướng sự thật, thậm chí giết người diệt khẩu mong vùi chôn chân lý.
Nhà văn Exupéry nói: “Chân lý cho kẻ này là xây dựng, nhưng cho kẻ kia nó lại là sử dụng”.Chẳng hạn, như chúng ta biết ngay khi phát hiện về nguyên tử được tìm kiếm, thì nhiều thế lực chưa vội vàng xây dựng nó cho dân sinh mà lập tức sử dụng nó như một thuốc nổ siêu công phá để tàn hại con người, răn đe đối phương.
Trước một tòa án cũng vậy, không phải lúc nào sự việc cũng được xử theo công lý, đúng người, đúng tội, mà sự thật đã bị rất nhiều thế lực của tiền tài, quyền vụ khủng bố bóp méo. Rõ hơn, trong tương quan giữa ông chủ và người làm thuê, ông chủ thì muốn bóc lột nhiều hơn, người làm thuê thì muốn ăn bớt công đoạn, bớt nguyên liệu… giá trị sản phẩm là cái hai bên hội tụ nhưng bị phân thân thành hai vụ lợi, thử hỏi làm sao họ có thể nhất trí được về sự thật “công ăn việc làm”?
Trong chiến tranh, người ta thấy không ít lần, hai bên đều gõ trống khua chiêng về sự chiến thắng của mình, để tìm cách khích lệ các chiến binh hãy đánh nhau tiếp. Đặc biệt với quân đội Đức trong chiến tranh thế giới II chỉ còn mấy ngày nữa là đội quân tan rã, vậy mà Hitle, giới Chóp bu và tướng tá vẫn bưng bít và làm ra vẻ một sự thật; quân ta đang chiến thắng, sắp khải hoàn.
Trong văn chương, nghệ thuật, hay các ngành kinh doanh tồn tại không ít thói “khen vờ chê giả” mong tạo ra những giá trị giả ngụy, và chôn vùi những giá trị thật. Những dẫn dụ trên rất ít ỏi để minh chứng sự khó khăn của con người khi muốn đồng nhất với chân lý, bởi chính con người là cái tạo ra giá trị công lý, do vụ lợi, ngụy trá, ngụy biện cho mình, đã muốn biến sự thật không phải thành chân lý, mà thành miếng mồi cho mình sử dụng. Không chỉ chân lý xã hội cái bị mưu cầu lợi ích của người nay lẫn người kia, nhóm này hay nhóm khác, quốc gia này và quốc gia nọ bị bóp méo thành sử dụng mà với tự nhiên cũng vậy. Chúng ta thử hình dung, loài người cần bảo vệ môi trường sống, nhưng những kẻ săn ngà voi, đàn gỗ quý và lấy mật cá heo sẽ biện hộ thế nào để tiếp tục tàn phá thiên nhiên vụ lợi cho mình?
Chân lý không chỉ hiện ra một cách khó khăn khi chính chủ tri con người nhiều khi vụ lợi đã tự đánh lạc hướng mình. Mà khó khăn hơn, một cách thành thật, con người bị mắc vào những éo le, những mâu thuẫn, những nghịch lý trong việc nhìn ra chân lý.
Chẳng hạn, một vấn nạn rất lớn của đức tin, đó là Thượng Đế. Có nhà triết học nói: Cái tôi nhìn thấy thì tôi tin, điều đó chẳng có nghĩa gì. Chỉ khi nào tôi không thấy mà vẫn tin, thế mới là Đức Tin. Thêm nữa, nếu như phải tin về một Thượng Đế vô lượng, vô biên, toàn văn thì cách chi để con mắt giới hạn của ta có thể thấy ngài. Vả lại muốn thấy ngài như thấy một muôn mặt của trần gian là vô hình trung đã kéo phẩm chất thánh thần xuống phẩm chất thế tục.
Những người uyên bác như Newton và Einstein, rút cục đều tin vào Chúa khi so sánh cái giới hạn của Khoa học với vũ trụ vô biên. Newton nói: “Khoa học chỉ là một chút đá cuội và vỏ sò trên bãi biển”. Còn Einstein thì bảo: “Mọi nghệ thuật và khoa học chân chính đều bắt đầu từ đức tin.” Như vậy, chân lý không chỉ đến từ lý trí phổ quát, khả nghiệm, khả giác, khả lý mà như nhà bác học Pascal đã vạch ra một con đường khác của chân lý: “Chúng ta đi đến chân lý không phải bằng lý trí mà bằng con tim”.
Chưa hết, chân lý không phải chỉ là cái bộ phận, nó còn là cái toàn thể. Dòng sông khởi từ nguồn nhưng chảy về biển cả, ở nguồn hay ở cửa biển nó vẫn là sông. Một bé gái xét toàn thể sẽ là một bà già, vậy cô bé là lúc nào đây? Hay là tất cả? Và bé đó tất nhiên phải chết, vậy cuộc sống của bé có bao gồm cả cái chết? Nếu nói, cuộc sống của bé không bao hàm cái chết, thì tại sao khi chết, ảnh của “bé – bà” được treo trên bàn thờ, được nhớ, được cúng, được tham dự vào suy nghĩ, sinh hoạt của người sống?
Một con người đang sống, không phải chết đứng, mà đang vận động, một sợi tóc hôm nay còn xanh mai đã bạc là bởi nó vận động trong từng tích tắc. Chính thế, mà mở màn “định lý vạn vật”, Heraclite đã nói: “Tất cả đều vận động, không ai có thể tắm hai lần trong một dòng sông, vì lần hai ta bước xuống, nước đã chảy khác đi.” Và chính bản thân ta cũng thay đổi khác trước, để không còn giống mình lần một khi bước xuống dòng sông. Nếu Aristote cho rằng: “Hữu thể là hữu thể đang có”, thì đến Hegel cho rằng: “Hữu thể là quá trình toàn thể”. Bởi thế, theo Hegel chân lý không chỉ đang có mặt, mà còn đang trở thành (có lẽ giống một cô bé sẽ trở thành thiếu nữ). Hegel nói: “Tất cả chân lý đều đang trở thành10. Và Lenin đã lĩnh hội ý của Hegel như sau: “Lịch sử khoa học cho chúng ta thấy chân lý trong cái sinh thành của một sự phát triển; chân lý chưa hình thành nhưng nó đang hình thành (có lẽ) chân lý không bao giờ hình thành, nó sẽ hình thành thêm mãi?11.
Chân lý không phải chỉ là sự thật của sự vật trong khoảnh khắc nó là, mà là toàn bộ quá trình nó hình thành để hoàn thành, giống như dòng sông không thể chỉ chảy chỗ nọ không chảy chỗ kia, mà chảy trọn vẹn cả dòng trôi, sau khi phát kiến mọi chân lý đều đang trở thành, Hegel tổng quan: “Chân lý là toàn thể” (Das wahr is’t das gang) 12.
Vì chân lý là quá trình trở thành, là toàn thể từ đầu đến cuối, nghĩa là vô hạn, trong khi đó con người chỉ là giới hạn không thể có nổi toàn năng – toàn trí để nắm bắt chân lý toàn bộ. Husserl nói: “Lịch sử của chân lý là lịch sử của nhận thức chân lý”. Theo đó, có thể coi, chân lý cũng vận động tiến triển như lịch sử của loài người. Emile Bréhier có một cách nói tương tự: “Bản chất của triết học là tìm kiếm chân lý chứ không phải nắm giữ chân lý”. Và có một quan điểm chia sẻ tính vận động của chân lý: “Chân lý không còn là chân lý khi ta cho rằng đã nắm được nó. Thực sự chân lý chính là cái thoát khỏi sự chiếm đoạt của ta13.
Đến đây, sau một hành trình, chân lý có vẻ đang nở rộ để thoát khỉ chính bản thân nó. Chân lý là hữu thể? Là thực tại? là đang hình thành? Hay toàn thể? Là những vấn nạn không dễ chút nào. Nhưng con người không thể lẩn trốn cuộc hành hương chân lý, bởi như Saint Augustine nói: “Chúng ta sẽ chẳng thu lượm được gì nếu không quên mình tìm đến mùa gặt chân lý”. Hay như Nietzsche công báo: “Một lôi cuốn vì đại sát cánh với chúng ta có thể là lôi cuốn to lớn nhất: lôi cuốn về chân lý”.
Con người không thể không muốn sống thật, yêu thật, hạnh phúc thật, nhận thức thật, có phẩm chất thật, mang giá trị thật; bởi thế con người chắc hẳn luôn luôn tìm tòi sự thật, bản chất thật, ý nghĩa thật, nội dung thật. Nhưng cái gì là thật? Khi mà từ nội dung cho đến hình thức, từ chủ tri con người đến đối tượng luôn chòng chành – biến dịch – vận động – thay đổi – đang hình thành mà chưa hoàn thành?
Về câu hỏi này Descartes đã giúp chúng ta. Ít nhất, để khởi sự, ông nói: “Ý chí là chân lý”. Đúng vậy, con người không thể tìm ra sự thật nếu mở mà không có ý chí đi tìm sự thật. Sau đó phải là thái độ dấn thân kiên trì để tìm ra sự thật. Không một phát minh nào không cố gắng tìm tòi mà có được, không một định lý nào có thể hạ sinh trước nhận thức không cố gắng của con người, không một chân lý nào tự bóc trần lộ hiện trước thái độ thờ ơ không bóc vỏ của nhận thức con người.
Bởi thế, Saint Augustine đã công bố một thái độ không sợ sai dấn thân vì chân lý: “Nếu tôi nhầm vậy tôi có. Nghĩa là sở dĩ tôi nhầm là vì tôi sẽ thiết yếu liên tục đến chân lý”. Và giáo hoàng Pius XII cũng chia sẻ quan điểm tương tự: “Ngay cả trong chủ nghĩa sai nhầm, vẫn có thể ẩn giấu một yếu tố chân lý”.
Để kết thúc chương chân lý, để làm minh bạch phần nào giúp tâm trí không bị trôi dạt qua hệ thống ốc đảo phức tạp của chân lý, tôi xin tóm lược toát yếu sau:
I – Về tinh thần chủ tri, tính chất công lý, hay phạm vi xã hội, không gì hơn lời phán sau của người Latin: Sự đồng ý của những kẻ khôn ngoan là bằng chứng của chân lý.
II – Về tính kỹ thuật chân lý được mở màn từ:

  1. Hữu thể và chân lý là một (triết kinh viện)
  2. Thực tại là chân lý.
    Platon nói: “Thực tại là thế giới của phân nửa chân lý” (La réalité était un monde de demi vérités) 14. Và sau cả quá trình hình thành triết học hơn hai thiên kỷ, Hegel vẫn cùng quan niệm:“Chân lý và thực tại luôn luôn song hành” (La vérité et la réalité sont toujours en marche) 15.
  3. Chân lý biến thiên
    Về một chân lý đang vận động, chúng ta hãy tham chiếu một ý tưởng trong Bách khoa thần học: “Chân lý là tương quan bộ phận và khả biến, nó phụ thuộc vào cách thức trong đó chủ thể lĩnh hội nó; và nó đổi thay tùy theo hoàn cảnh của nơi chốn và thời gian16.
  4. Chân lý đang trở thành và hoàn thành trong toàn thể: đây là ý tưởng của Hegel mà chúng ta đã đề cập bên trên.





Nguyễn Hoàng Đức







Chú thích:


  1. Sđd (CR), tr 5
  2. Sđd (CR), tr 47
  3. Sđd (BKTH), tr 139
  4. Sđđ (AA), tr 207
  5. Sđd (THPTHĐ), tr 602
  6. F.Tomlin: Les Grandes Philosophes de l’occident (GPO), Payot Paris 1951, tr 231
  7. Sđd (AMP), tr 130
  8. Sđd (BKTH), tr 503
  9. Nguyễn Hữu Hiệu: Con đường sáng tạo (CĐST), tr 281
  10. Lê Thành Trị: Hiện tượng luận về biện minh (HTLHS Sài Gòn 1969, tr 47)
  11. Theo Phenomenon de la perception, tr 270
  12. Sđd (GPO), tr 224
  13. Sđd (GPO), tr 231
Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...