Hành Trình Nhận Thức Duy Niệm của Nhân Loại
(PHẦN I)
Dẫn Nhập
1. Tại sao tôi muốn viết cuốn chuyên luận về triết học này?
|
Nguyễn Hoàng Đức |
Người Việt nói riêng, người châu Á nói riêng rất ngại dính mắc vào những
vấn đề của triết học. Phần lớn cho rằng, triết học bao gồm những cặp
phạm trù khô khan, phức tạp, khó hiểu, chẳng liên quan gì mấy đến cuộc
đời nhãn tiền tươi rói, tinh khôi, thực chứng sức sống đang ào ạt tuôn
chảy hồn nhiên trào ra khỏi mọi khuôn thức cứng nhắc – mô phạm của triết
lý. Và nhiều người hầu như an nhiên tận hưởng bất chấp triết học, cuộc
đời vẫn sống, mọi khoa học vẫn phát triển, và mọi nghệ thuật vẫn sum suê
đâm cành, nảy lộc.
Nhưng không hẳn vậy. Tôi viết cuốn sách này dựa trên một tiền đề rất
chắc chắn, đó là bằng chứng thật của cuộc sống. Thực tế cho thấy có và
có rất nhiều những cuộc hội thảo đã diễn ra trong thế kỷ XX. Khi hai nền
văn hóa Đông – Tây đã hội nhập, khám phá lẫn nhau, trước mỗi hội nghị
bàn về đề tài cụ thể như môi trường, văn hóa, xã hội, y học, vật lý… mỗi
đại biểu đều được phát trước một chiếc thẻ phát biểu ý kiến nhưng từ
hội nghị này đến hội nghị kia, dường như thói quen đã biến thành thông
lệ, thông lệ đã biến thành định kiến khó cải thiện cũng như gột sạch, đó
là các đại biểu của bùng châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản hầu như chẳng
đưa ra ý kiến nào cụ thể có tính đề tài (thétique) hay chức năng, hay
chuyên luận; mà nói chung hội nghị nào cũng như hội nghị nào, họ đều
chung chung đưa ra những ý kiến không mũi nhọn, trung dung, vô thưởng vô
phạt, trong âm có dương, trong dương chứa âm, thế này cũng không tốt,
thế kia cũng chẳng hay, mà chúng ta nên tiến hành một khoa học bao gồm
toàn thể.
Cụ thể, sau khi giật giải Nobel trên tờ New Yorker (02/1995), nhà văn Nhật Bản Kenzaburo Oe cho rằng:
“Ngay cả ngày nay, sau 125 năm công cuộc hiện đại hóa của chúng ta, thì
trong con mắt của người châu Âu và châu Mỹ, giá trị của chúng ta vẫn bị
thờ ơ. Những người đoạt giải Nobel khác như Milosz, Walcott, Brosky được
nhiều người biết đến; còn chúng ta, người phương Tây chẳng khao khát
tìm đọc những con người sản xuất xe Honda nhiều lắm. Tôi không hiểu tại
sao. Có lẽ chúng ta chỉ là người bắt chước họ hoặc là với con mắt của
người châu Âu, chúng ta CHỈ LÀ NHỮNG NGƯỜI THỦ VAI IM LẶNG.
Tình trạng của người Nhật Bản khá là trầm trọng. Ở Mỹ chẳng hạn, tôi
thấy nhiều bạn bè tôi lo ngại về đời sống trí tuệ của người dân Mỹ, mặc
dù vậy, tôi thấy rất nhiều người thể hiện tính cách độc lập trong suy
nghĩ của họ và cũng đầy vi tế trong cư xử cũng như tìm cách thể hiện ý
tưởng của mình. Ở Nhật thì đời sống văn hóa quá ư đơn giản, hầu như toàn
bộ cách sống của xã hội là xoay quanh phương tiện truyền thông và chỉ
có vậy. Và chúng ta rất hiếm khi được nghe thấy ý tưởng của một nhà tư
tưởng hay một học giả."
Và mong rằng: Đến một ngày nghệ thuật Nhật Bản sẽ đánh rơi cái đặc tính
hàm hồ, tối tăm cố hữu của nó, để vén lộ khả năng đối mặt thật sự với
cuộc sống của con người.
Tình trạng đó thật phổ biến ở châu Á. Nó diễn ra bởi chúng ta chìm trong
chế độ phong kiến quá lâu. Ở đó, một quân vương có thể chưa biết mặc
quần đã lãnh trị cả trăm triệu người. Mỗi lời đánh rơi khỏi miệng dù
thanh hay tục đều trở thành thánh chỉ. Mọi người chỉ có mỗi một lựa chọn
là rập đầu tuân thủ. Xem một loạt phim về các triều đình phong kiến
Trung Quốc, mọi người thường chứng kiến (một cách sử cố) mỗi khi gặp khó
khăn, vua triệu quan đại thần đến xin ý kiến, thì chỉ được nghe: “
Bệ hạ sáng suốt, xin quyết định! Thần u mê không dám – không hiểu”. Rất hiếm khi, có một quan đại thần trình tấu quan điểm thì các quan lại ào ào phản đối. Vua mới bảo: “
Tại sao khi trẫm hỏi, các khanh chẳng ai có ý kiến, đến khi người khác trình bày ý kiến thì lại xúm vào bôi bác?”
Đó là một đời sống đã tê liệt mọi ý kiến xây dựng mà chỉ còn duy trì
cách thức bôi bác, bẻ hành bẻ tỏi, phá hủy mọi cố gắng tiến về phía
trước. Chính vì căn bệnh trầm kha đó mà khi đối mặt với phương Tây,
triều đình Mãn Thanh ấu trĩ đến mức thán phục vài khẩu súng như bảo bối
thần linh và sớm tan rã. Và lãnh tụ Tôn Trung Sơn, cha đẻ của
chủ nghĩa tam dân – lý thuyết cách mạng cho dân tộc Trung Hoa, đã nhìn thấu cố tật “vừa bé vừa nhỏ” của một dân tộc lớn như sau: “
Cái mà người Trung Quốc sùng bái nhất là chủ nghĩa gia tộc và chủ nghĩa tông tộc. Trung Quốc không có chủ nghĩa quốc tộc”
1.
Chúng ta thử đặt câu hỏi:
một dân tộc lớn lại chỉ sống như gia tộc và
tông tộc thì có co hẹp biên giới quốc gia thành rào giậu của gia đình?
Và tại sao thế, liệu có phải do thiếu một tư tưởng được xây nên từ sinh
hoạt triết học thường xuyên?
“
Con người là động vật có lý trí” (Aristotle). Bởi thế tinh thần
càng cao, con người càng xa rời biên giới của muông thú. Trái lại, nếu
con người chỉ tìm cách sống hơn nhau trong phẩm trật, quần áo, tiền bạc
thì cũng chẳng vượt gì hơn trong nấc thang giá trị con người. Trong phim
“
Mười ba đời vua nhà Thanh” có đoạn thời vua Đồng Trị, Từ
Hy thái hậu chỉ nhìn thấy hai nô tì gái chải đầu đẹp giống mình, đã nổi
máu ghen tị lôi ra chém. Than ôi, làm đến Hoàng thái hậu, quần áo trang
sức hơn nô tì một trời một vực, vậy mà tâm hồn cũng chỉ là thứ ngang nô
tì. Tại sao vậy? Vì phẩm chất tư tưởng còn thấp kém nên dù có xúng xính
lụa là châu báu cũng chẳng cải thiện nổi cho mình thoát ra ranh giới kẻ
hầu!
Và Tôn Trung Sơn cũng đã chỉ ra cái yếu kém của dân tộc Trung Hoa, chưa
từng có chiến tranh về tư tưởng hay tôn giáo, chỉ có mối bận tâm về gia
tộc: “
Người Trung Quốc chỉ có các nhóm gia tộc và tông tộc, không có
tinh thần dân tộc. Do đó, tuy có một Trung Quốc do bốn trăm triệu người
kết thành, trên thực tế chúng ta là một mảng cát rời rạc. Chúng ta là
một nước nghèo nhất, yếu nhất trên thế giới hiện nay, có địa vị thấp
nhất trên trường quốc tế.”
2 Ông còn rất lo ngại rằng: “
Vì người Trung Quốc phần đông là bất tri bất giác, e rằng vài nghìn năm nữa toàn thể nhân dân vẫn chưa biết giành dân quyền.”
3
Bàn về Trung Quốc và Nhật Bản, những nước lớn nhất, giàu nhất châu Á để
chúng ta có cơ sở tham chiếu đời sống tư tưởng của dân tộc. Trong những
nghiên cứu mới nhất về văn hóa dân tộc, nhà văn hóa Hữu Ngọc đã đưa ra
một nhận định cảnh tỉnh hết sức thao thức rằng: Chúng ta đã có nhiều
kiểu mẫu anh hùng lớn, chiến sĩ giỏi nhưng rất đang thiếu đức hạnh công
dân.
Đức hạnh công dân là gì? Có phải chúng ta vẫn đang sống “đèn nhà ai,
rạng nhà nấy”. Lo vun vén thói ích kỷ, lối tiểu nông, làm sao có thể xây
dựng một xã hội hiện đại – công bằng – bác ái? Theo các triết gia, thì
bản chất của bản năng, tình cảm, giác quan đều có xu hướng co cụm, ích
kỷ, tiến đến kéo bè kéo cánh, địa phương chủ nghĩa. Chỉ có lý trí mới
tìm đến tiếng nói chung, và muốn vậy buộc nó phải vượt qua sự co cụm vị
kỷ để tìm đến mọi người – tức công lý và chân lý. Từ cơ quan đến ngoài
xã hội, từ ngành này qua ngành kia, chúng ta vẫn được chứng kiến một đời
sống tư tưởng: “Thứ nhất đồng ý, thứ nhì im lặng”.
Ở đời chỉ có hai loại sản xuất chính: 1- cơ bắp sản xuất vật phẩm; 2-
trí não sản xuất ý tưởng. Vậy mà hầu khắp đời sống tinh thần của chúng
ta chẳng sản xuất được gì nhiều hơn sự “im lặng” và “đồng ý”, thử hỏi xã
hội sẽ tiến bộ bằng cách nào? Và thế giới cũng hình thành rõ rệt hai
đẳng cấp, dân tộc nào sống trong sản sinh tinh thần nhiều hơn sẽ làm ông
chủ, dân tộc nào sống theo thói quen bản năng nhiều hơn – ít động não,
sẽ làm nô bộc.
Người Việt cũng phân rõ hai hạng:
Ông cả ngồi trên sập vàng
Cả ăn cả mặc lại càng cả lo
Thằng bếp ngồi trong xó tro
Ít ăn ít mặc ít lo ít làm.
Thật quá rõ ràng, một dân tộc ít lo ít làm thì làm sao giàu mạnh? Muốn
giàu mạnh thì chỉ có một con đường làm nhiều và lo nhiều – tức vận động
tinh thần nhiều hơn để sản sinh nhiều sáng kiến hơn. Muốn thế thì không
thể ngại học, ngại tư duy.
Tư duy phải trở thành thú vui của tinh thần chứ không phải cái ách khổ
ải như nhiều người nghĩ. Giản dị như trò chơi đánh cờ, xếp chữ, hay
rubic cũng vậy, người chơi thấy vui vì được nghĩ, được tính, chứ không
phải thấy khổ. Niềm vui tư duy không phải chỉ là sự cảnh tỉnh những
người ít học, mà với tất cả chúng ta.
Theo các nhà chuyên môn chẳng hạn, dân tộc ta có rất nhiều con em đạt
giải cao trong các kì thi toán quốc tế. Thật tự hào! Nhưng cũng đáng
tiếc thay, trong rất nhiều hạt giống ưu tú đó, không bói ra nổi một nhà
toán học lý thuyết. Tóm lại, ngay cả những hạt giống tư duy đó vẫn ngại
tư duy để trở thành đại thụ tư duy. Ở các ngành khác cũng vậy. Mở đầu
chúng ta không thiếu gì những chuyên gia giỏi được đào tạo chính quy,
nhưng chẳng được mấy hồi các chuyên gia chểnh mảng cuộc truy tìm chuyên
môn, lao sang các cuộc truy lùng “ghế quản trị”. Thế là ngọn lửa tư duy
chuyên môn đành tắt lịm, nhường bước cho ngọn lửa phẩm trật xã hội – ai
cũng giống ai – nhà chuyên môn nào cũng na ná nhau theo cách thức “tìm
số ghế”.
Tình trạng còn nặng hơn trong các ngành xã hội, bởi lẽ các ngành tự
nhiên ít hay nhiều đều phải hình thành thói quen nói – làm – nghiên cứu
dựa trên các chuẩn mực của lý trí. Dẫu vậy, khoa học đối với dân tộc ta
là một lĩnh vực còn khá ngỡ ngàng khá khiêm tốn. Trái lại, ngành xã hội
nhân văn, đặc biệt với văn thơ, nở rộ như một vườn hoa dại. Hàng nghìn,
hàng vạn tập thơ ra đời mỗi năm mà dường như chẳng ép nổi một vài hạt
tinh dầu của lý trí phán định. Thế là, nạn kéo bè kéo cánh, tung hô có
đi có lại diễn ra đại trà. Sinh ra khen vờ chê giả. Nói có sách mách có
chứng, đã qua vài đại hội nhà văn toàn quốc, có cả nghìn người về dự,
chỉ đếm được lưa thưa trên đầu ngón ta vài nhà phê bình miễn cưỡng “ép
khung tuổi”. Và còn nghèo nàn hơn, tại các diễn đàn dành cho các cây bút
trẻ, người ta vừa bói vừa nhặt chẳng gom nổi một vài hạt vàng tấm của ý
tưởng hay phát kiến. Có rất nhiều, rất nhiều nhà văn, nhà thơ che chắn
thủ thế từng lời nói, chiến thuật mỗi ứng xử, để làm gì? Để tìm cách
thành đạt “ghế đánh số xã hội” hơn là vì chuyên môn văn học. Đây là kiểu
mẫu khá điển hình cho trình độ sống của chúng ta. Đó là bằng mọi cách
chúng ta vẫn tìm kế mưu sinh, cách tồn tại, cách hơn người nhiều hơn là
tìm cách sống chuyên môn để nâng cao giá trị thực của mình.
Một xã hội hùng mạnh theo triết gia Socrates là mọi người cố gắng sống
theo phẩm chất chuyên môn riêng biệt một cách cao nhất. Người chăn cừu,
hãy nuôi đàn cừu cho thật nhiều, thật béo; người thầy thuốc hãy lo chữa
chạy thật tốt cho bệnh nhân; và người viết văn hãy lo để viết thật hay…
Trái lại một xã hội sẽ vô cùng yếu ớt nếu người ta chưa làm nghề gì đã
lo kiếm được bao nhiêu và vị trí xã hội của mình sẽ đặt ở chỗ nào? Khi
chúng ta đã giành độc lập, đã có tự do mà nhà văn vẫn tự chuốc vào mình,
loay hoay ứng xử để kiếm ghế ưu tiên thay cho việc thể hiện ý tưởng
cũng như chuyên môn thì có bé nhỏ không?
Và chúng ta có thể ngẫm lại, ngay cả Từ Hi thái hậu có phẩm trật cao
nhất Trung Quốc mà không trau dồi phẩm chất tinh thần thì mặc cảm tự tôn
chưa vượt qua nổi mái tóc của đứa nô tì, thì số ghế chúng ta có lách
lên thay vì nâng cao chuyên môn mĩ học cho ngòi bút có thấm tháp gì? Làm
vậy chúng ta đã đổi cái đại trí, đại khôn, đại tài lấy cái tiểu trí,
khôn vặt và tài mọn. Trong đối thoại, người Việt ít để ý và đi đến cùng
vấn đề của nhận thức mà thường chỉ lưu tâm đến ảnh hưởng xã hội. Bởi thế
khi đối thoại căng thẳng thì thường đem tâm lý xuê xoa chân lý, đem
thái độ thay thế trình độ.
Đó là những cơ sở quốc tế và quốc nội để tôi viết cuốn sách này. Cả thế
giới vẫn nói “Triết học là khoa học của khoa học”. Vì thiếu tri thức nền
móng của triết học nên người châu Á nói chung, người Việt Nam rất ngại –
thiếu vững tâm – thiếu sở cứ để đưa ra ý tưởng.
Người Việt đa số rất ngại, rất sợ triết học bởi họ lầm tưởng rằng triết
học là thứ cao siêu, chỉ để dành cho những ai buộc phải mang sứ mệnh cao
siêu. Thực ra không phải vậy. Triết học là tình yêu sự thông thái. Nó
là niềm say mê tư duy thông thái. Nó là con đường của tư duy. Ai muốn
yêu thích tư duy tự nhiên yêu thích triết học. Và triết học là những gì
cốt tử hết sức gần gũi với mọi vấn đề cơ bản của con người. Nhiệm vụ
cuốn sách của tôi muốn đạt tới là trình bày hệ thống tư duy triết học,
những thành tựu, những ưu tư của triết học theo chiều dọc, để mọi người
có thể nhận biết triết học mạch lạc hơn, dễ hiểu hơn và không sợ hãi.
2. Không thể không học biết triết học
Chúng ra không thể không bám sát phương ngôn của Aristote: “
Con người là động vật lý tính”
(Man is animal rational). Nếu định nghĩa con người là động vật đứng
trên hai chân thì chưa đủ, bởi con khỉ cũng đi hai chân, con Kăng-gu-ru
cũng vậy, thậm chí cả con ếch cũng đỡ trọng lực toàn thân và di chuyển
bằng hai chân sau. Nếu định nghĩa con người như đẳng cấp vượt trội của
các giác quan thì than ôi, các nhà bác học đã xác nhận, mắt loài cú nhìn
tinh gấp con người cả ngàn lần, tai loài dơi nhạy bén hơn con người cả
vạn lần, và mũi loài chó thính hơn con người cả triệu lần.
Vậy chỉ còn cách định nghĩa con người vượt hẳn hơn con vật chỉ nhờ vào
lý trí của mình. Nếu không hơn hẳn các động vật khác bằng khả năng lý
trí thì con người cũng chỉ rơi xuống như một động vật chìm trong muôn
vàn động vật. Vậy lý trí là gì? Có thể tạm phân biệt 3 tầng:
- Giác quan – bản năng – xúc cảm
- Trí tưởng tượng – trên giác quan bản năng trực tiếp nhưng chưa phải nhận thức
- Lý trí: Là đời sống phán đoán đặt căn bản trên nhận thức
Nhà triết học Lép-nit-xơ đã lý giải như sau: “
Cảm tính là một khối hỗn độn không có tính chất phê phán”
4. Còn triết gia Schopenhauer thì quả quyết: “
Cuộc
sống của chúng ta đều được dẫn dắt bằng cảm giác hay trí tưởng tượng sẽ
là một cuộc sống thụ động, nó bày tỏ sự bất lực của con người”
5.
Lý trí – nhận thức – tư tưởng – công lý – chân lý, có thể coi như
những vòng tròn đồng tâm, hay những hạt nhân cùng hệ – đẳng. Trái ngược
lại với nó, những con người sống theo cảm tính thì chỉ cảm nhận cuộc
sống bởi giới hạn nhỏ hẹp của giác quan, đành tự thu mình lại – vì không
dám tự tin vào cái ta hiến cho người, cái ta chiếu vào đời, cũng như
cái ta gia nhập cùng mọi người. Bởi thế tự thân họ xa lánh mọi giá trị
phổ biến, cái chung, cái là công lý và chân lý.
Con người có nhận thức, như triết gia Platon từ trước công nguyên đã chỉ: “
Nhận thức là tiến đến tư tưởng” (connaitre c’est atteindre l’Idée)
6.
Không phải ai khác mà chính Platon đã đưa ra dẫn dụ nổi tiếng về “cái
hang” của nhận thức. Mở đầu, trí tuệ con người sống tối tăm như người
sống trong hang, không thấy rõ cái gì, bởi thế anh ta thắp lửa lên để
thấy đường đi, và chỉ có khi nào ánh dương hiện ra minh bạch anh ta mới
nhận rõ: cái gì đen – cái gì trắng, cái đỏ – cái xanh, cái xấu – cái
tốt. Về điểm này triết gia Descartes cũng khẳng định con đường của triết
học: “
Triết gia, là bắt đầu đi từ nghi ngờ, nhưng vượt qua chủ nghĩa hoài nghi”.
Chỉ khi con người nhận rõ mọi thứ, thì anh ta mới có khả năng chọn cái
hay, bỏ cái dở, dấn thân vào hành động. Trái lại, khi chưa nhận rõ hoàn
cảnh xung quanh, cứ nhắm mắt lao vào hành động, thì đó là việc làm liều
mạng, không mang nhận thức.
Bởi thế, nhận thức tất yếu liên quan đến hành động. Không hành động thì
không tạo nên thế giới này, không nhận thức thì cũng không hành động.
Triết gia Lagneau cho rằng: “
Quan niệm, phán đoán, lý trí: phán đoán là hiệp nhất của một hành động trí năng” (le jugement est l’unité de l’activité intellectuelle)
7.
Khi con người hành động, nghĩa là anh tác động việc làm của mình vào thế
giới, với mọi người, mà hành động đó khởi đầu bằng một phán đoán – lựa
chọn của lý trí, được đặt trên cơ sở của nhận thức. mà như trên chúng ta
đã bàn, lý tính bản thân nó gia nhập vào giá trị chung, chứ không phải
riêng rẽ như tình cảm, bởi thế một hành động có phán đoán của lý trí
mang nhận thức tự thân đã khoác lấy một tầm vóc cộng đồng – giữa mọi
người – bởi mọi người – vì mọi người. Lagneau nói: “
Tất cả phán đoán đều hình thành giữa một công thức nền tảng”
8.
Công thức, hàm nghĩa định lý chung được muôn người thừa nhận. Cảm tính
có thể của riêng mỗi người, nhưng còn lý trí là đã khỏi khuôn viên cá
thể bước vào ranh giới nhân loại. Bởi thế, theo triết gia Alain, ngay cả
khi con người tư duy, anh ta đã không còn cơ hội thể hiện cái tôi mà
đang buộc phải hòa mình vào nhận thức phổ quát. Ông viết:
“Không có
tư duy cô độc. Tư duy là công việc xã hội. Chân lý không phải là cái mà
cả thế giới nghĩ đến nhưng là cái cả thế giới phải nghĩ đến. Thế giới
quan chính là cái mang giá trị cho mọi tinh thần”
9.
Phán đoán là hành động hiệp nhất của trí năng. Không có trí năng con
người không thể hành động. Bởi thế, từ triết học đến các khoa học, đến
nghệ thuật, hay các ngành nghề xã hội, các chuyên gia rất coi thường
những đầu óc không có khả năng tích lũy những kiến thức minh bạch, để từ
đó đưa ra những phán đoán xác đáng cho hành động (nói đâu xa, ngay môn
thể thao bóng đá chúng ta vẫn thường xem trên tivi, những cầu thủ có khả
năng ghi bàn phải là những chân sút “quyết đoán”, “lý trí lạnh lùng”).
Một người nếu không từng hiểu 1 + 1 = 2, thì làm sao có thể tin vào 2 + 2
= 4, và làm sao có thể đi xa hơn vào các phép lũy thừa hay phân tích…
Nhận thức chắc chắn của mỗi người, có thể ví như những bánh răng của một
chiếc đồng hồ, chỉ khi các bánh răng ăn khớp vào nhau thì đồng hồ mới
vận hành, mới chắc chắn mấy giờ, mấy phút, mấy giây, rồi ngày, rồi tuần.
Trái lại, nếu chiếc đồng hồ đó lỏng lẻo, mỗi mắt răng không ăn nhập vào
nhau, thì người ta không thể nào tự tin vào những thông số mà chiếc
đồng hồ đó đưa ra.
Con người không có nhận thức, sẽ không dám phán đoán! Không dám phán
đoán sẽ không dám hành động! Nếu không nhận ra điều đó, thì bất cứ xã
hội nào cũng chỉ giống một chiếc xe cứ vận hành lại tuột xích – thành ra
cứ ì tại chỗ.
Đó cũng là đặc điểm lý giải nền văn học của nước nhà, ngót một nghìn năm
trăm năm rồi, một bộ phận lớn cứ ì ra chầu rìa quanh mấy câu tứ tuyệt,
còn lại những tác phẩm văn thơ khác thì chỉ ở tầm be bé – vừa vừa vì
thiếu hẳn ánh sáng ở địa hạt nhận thức. Để chắc chắn về một đời sống
mang giá trị có hành động của tinh thần, chẳng còn cách nào khác, chúng
ta không thể chối từ phán đoán, như Lagneau xác nhận: “
Phán đoán là
hành động trọn vẹn của đời sống trí năng, và hành động hiệp nhất; không
có trong đó phán đoán chỉ là quan niệm, hay là lý trí. Phán đoán vậy
phải được nhìn nhận như sự bắt đầu và đặc trưng của tinh thần – giống
chính tinh thần vậy”
10.
Nguyễn Hoàng Đức
Chú thích:
- Tôn Trung Sơn: Chủ nghĩa Tam Dân, Viện Thông tin khoa học xã hội 1995, tr51
- Sđđ. tr 56
- Sđđ. tr 270
- Lê nin, Bút ký triết học ( BKTH), tr84
- Charles Waner, La Philosophie moderne ( Pm Payot Paris 1954, tr 111)
- L.M. Mortaux, La Connaissance et la Raison ( CR). Armand Colin tr 53.
- Sđđ. tr 49
- Sđđ. tr46
- Sđđ. tr 64
- Sđđ. tr 50