Tác giả:
Người dịch:
Người dịch:
"Nước Trời giống như … "Đó thường là cách bắt đầu các dụ ngôn của Đức Giêxu, theo như các sách Tin mừng Marco, Luca, Matthêu thuật lại.
1. Những nguồn văn nào được Đức Giêxu xử dụng trong công việc giảng dạy của Ngài?
Trong công việc giảng dạy của Ngài, Đức Giêxu đã xử dụng các nguồn văn từ nhiều thể văn khác nhau đã từng được các tôn sư Do thái xử dụng trước Ngài. Như trong Cựu ước: Cây biết lành biết dữ (ST 3), Con chiên của người nghèo khó (2 Sam 12), Sách tiên tri Giôna. Dụ ngôn là một trong những thể văn đó. Ngoài ra còn có thể văn tuyên cáo và thể văn châm ngôn.
Thể văn tuyên cáo thường nói đến điểm chung kết của thời gian, của thế giới (do đó được gọi là "tận thế", "cánh chung", "thế mạt"), để dấy động lên tâm tình về sự cấp bách của một cơn khủng hoảng, trong đó con người nhất thiết phải cấp bách lấy một quyết định và thay đổi cuộc sống.
Thể văn châm ngôn thường xử dụng các nguồn văn nghịch lý, như khi Ngài đảo ngược các số phận cuộc đời: "Kẻ đứng đầu sẽ là người đứng cuối, và kẻ đứng cuối sẽ là người đứng đầu" (Mt 19:30), hoặc nguồn văn ngoa ngữ hay quá thuyết (hyperbole): "Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn là người giàu đi vào Nước Trời" (Mt 19:24). Như thế, châm ngôn gây nên sự bất ngờ, hay cả sự vấp phạm, và kêu gọi, giống như dụ ngôn, một quyết định cấp bách trong một thời gian khủng hoảng.
Trong thể văn dụ ngôn, Đức Giêxu giảng dạy bằng ẩn dụ, cũng gọi là so sánh. Tính cách biểu trưng của sự giảng dạy này đặc biệt ấn tượng trong các dụ ngôn về Nước Trời.
Không nơi đâu, Đức Giêxu nói Nước Trời là gì. Ngài chỉ nói Nước Trời giống cái gì. Chính điều đó cũng là điều rất sáng ý (instructif). Đức Giêxu không phát ngôn như một nhà thần học, Ngài không giảng dạy bằng khái niệm, nhưng bằng hình ảnh. Tất cả những gì Ngài muốn nói thì được diễn tả một cách gián tiếp, bằng cách so sánh. Và như thế Ngài làm cho mọi người đều có thể hiểu được, kẻ ngu dốt cũng như người thông minh. Ta có thể nói, biểu tượng làm ta nghĩ ngợi, bắt ta suy tư. Dụ ngôn bất ngờ bắt chộp lấy ta, làm ta kinh ngạc, gây chấn động, nêu thách thức: Dụ ngôn cho thấy điều này điều kia là định kiến (nghĩa là ý kiến hay tin tưởng được áp đặt lên con người do hoàn cảnh, tập tục, giáo dục, thời đại), đòi hỏi ta phải xem xét lại sự vật và lấy một quyết định mới.
2. Vai trò của truyện kể trong dụ ngôn:
Đặc điểm thứ hai trong dụ ngôn là vai trò của truyện kể hay trình thuật, làm dàn tựa cho sự so sánh. Nước Trời không giống như một ông vua (Mt 22:2), một người cha (Lc 15:11), một người làm công (Lc 19:12), một người chăn chiên (Jn 10:11), v.v… Nước Trời giống như điều xảy ra trong một câu truyện , trong đó nói đến một ông vua, một người cha, v.v…
Nước Trời là như câu truyện, rằng … Điều đó có nghĩa, Nước Trời không phải là một tình trạng nào đó của sự vật, một sự thể cứng nhắc nào đó, nhưng quả như là một "tấn kịch", nghĩa là một cấu kết các biến cố xẩy ra do tác động của một số người liên hệ với nhau. Điều làm nên dụ ngôn, không phải là các nhân vật, nhưng là cái bố cục được kết cấu với một điểm khủng hoảng và một điểm kết thúc. Kết thúc này có thể là "bi ai": Thí dụ câu truyện các trinh nữ mang đèn không dầu khi vị hôn phu đến, và do đó họ không được nhập đoàn lễ cưới (Mt 25:1-12)…; một khách mời bị đuổi ra khỏi phòng tiệc, vì không mang áo cưới (Mt 22:11-18). Kết thúc cũng có thể là "hài hước" (trong nghĩa kết thúc có hậu). Thí dụ: người con hoang đàng trở về nhà cha (Lc 15:17-24); con chiên đi lạc được tìm thấy lại (Lc 15:16).
Chính cái ngập ngừng lơ lửng của cái thời điểm khủng hoảng, cùng với những biến cố bất ngờ khác nhau có thể xảy ra, gây nên ấn tượng, đưa ra cảnh báo, gây ra lo âu, thúc bách phải lấy quyết định. Cái hiệu ứng này đạt được, bởi vì các diễn cảnh mô tả thật rất đơn giản, thông suốt, rất gần gũi với cuộc sống đời thường. Tự nó, chúng cũng đã nói lên ý nghĩa, không có gì cầu kỳ, bí mật, che dấu. Như thế, ẩn dụ (hình ảnh) Nước Trời được dựa trên những khía cạnh bi tráng nhất (nghĩa là đặc biệt, khác thường, bất ngờ) của cuộc sống thường nhật. Ta có thể nói, dụ ngôn là những truyện kể bình thường mà tất cả hiệu năng của ẩn dụ được tập trung vào trong một thời điểm khủng hoảng và với một kết thúc bi ai hay có hậu.
3. Đặc tính quái dị của dụ ngôn:
Đặc điểm thứ ba của dụ ngôn xem ra như là phản nghịch với đặc điểm vừa nói trên. Nếu các truyện kể đều lấy ra từ cuộc sống đời thường, chúng lại hàm chứa một yếu tố quái dị, một yếu tố mang kịch tích, gây bất ngờ:
- Có người chăn chiên nào bỏ lại 99 con để đi tìm một con đi lạc cho đến khi tìm lại được nó mới thôi ? (Mt 18:10-14);
- Có người cha nào đón nhận lại với tất cả xa hoa hào phóng đứa con hoang đàng đã bỏ nhà ra đi nay trở về lại? (Lc 15:11-32);
- Có người chủ nhà nào lại xua đuổi khách mời của mình ra khỏi nhà, chỉ vì vị khách mời này mặc áo không tiêm tất? (Mt 22:11);
- Có hạt cải nào trổ cây cao to đến độ có thể để chim trời đến làm tổ? (Mt 13:31-32).
Quả thật chúng ta đụng đầu với nghịch lý của dụ ngôn: Dụ ngôn bắt đầu một cách bình thường, để quay ra hoang tưởng. Nhưng là một hoang tưởng trong đời thường, không chút siêu phàm như trong các truyện thần tiên hay trong các huyền thoại. Sự khác thường trong bình thường, đó quả là điều làm ta bối rối và tự hỏi: tại sao người ta lại kể câu truyện đó? Không phải là để dạy cách làm vườn, nuôi gia súc hay làm kinh tế gia đình! Nhưng nếu không phải là truyện kể để kể cho vui, thì truyện kể trong cái tầm thường của nó ắt phải muốn nói lên cái gì khác. Cái "trượt" ý của truyện kể như thế chính là cái bí quyết của thể văn "dụ ngôn". Dụ ngôn ở đây muốn nói về Nước Trời, chính nhờ cái quái dị nói trên làm cho câu truyện bung ra khỏi cái khuôn khổ bình thường của truyện kể.
Nếu ta lần theo sợi chỉ suy tư này, thì ta sẽ đi đến việc nối kết dụ ngôn với hai loại thể văn khác: ngôn sứ và châm ngôn, cả hai loại này cũng hàm chứa khía cạnh quái dị: sự đột nhập một Cái gì khác được các ngôn sứ thông báo: "Con Người sẽ đến như một người ăn trộm…", hay nữa là sự đảo ngược số phận như trong châm ngôn: "Kẻ cuối cùng sẽ là người đầu tiên".
Ta cũng sẽ thấy một sự quái dị như thế trong các giới răn: "Khi người ta vả má phải ngươi, thì ngươi cũng hãy dơ ra má trái" (Mt 5:39). Một đòi hỏi bất khả thi như thế đòi buộc ta phải đặt lại vấn đề về cái khôn ngoan dân gian truyền thống nhắm giữ gìn ta khỏi những bất ngờ trong cuộc đời, và cả những châm ngôn quen thuộc bảo vệ ta khỏi những sự không dè chứng: "Nếu ngươi muốn hòa bình, thì hãy chuẩn bị chiến tranh" (châm ngôn latinh), "Hãy tự giúp minh, thì Trời sẽ giúp ngươi" (La Fontaine).
4. Thời gian trong các dụ ngôn:
Nếu đào sâu thêm, ta sẽ thấy những loại diễn ngôn như thế đều có dính dáng đến vấn đề thời gian. Nhất là dụ ngôn, bởi dụ ngôn được xây dựng trên truyện kể, nghĩa là có liên hệ đến cái gì xảy ra và điều gì người ta làm - dụ ngôn như thế nói về thời gian của Nước Trời. Chính cái<em >thời gian đólàm đảo ngược thời gian của chúng ta, làm lạc hướng, để định hướng lại thời gian của chúng ta.
Ta hãy thử lấy dụ ngôn rất đơn giản trong cấu trúc truyện kể là dụ ngôn viên ngọc quý (Mt 13:45-46). Dụ ngôn này chỉ có ba động từ, diễn tả ba "thời khắc":
- "Ông ta tìm được viên ngọc quý",
- "Ông ta ra đi, bán hết tất cả những gì mình có",
- "Ông ta mua viên ngọc đó".
Ba thời khắc đó tượng trưng cho ba chiều kích thời gian khác nhau của Nước Trời:
- "Tìm được viên ngọc quý", là gặp được, là cảm nghiệm được thời khắc đó như một món quà bất ngờ, như một điều đột hiện lên chứ không nằm trong quyền sử dụng bình thường của chúng ta. Các dụ ngôn khác khai triển thêm ý nghĩa sự bất ngờ này với kết thúc "bi ai" (truyện 10 trinh nữ) hay kết thúc có hậu (kho báu cất giấu).
- Thời khắc thứ hai là thời khắc trở lại: "Ông ta bán hết tất cả những gì mình có": Tức thời, những gì xưa nay là giá trị cực điểm thì bây giờ chỉ là tưong đối, phụ thuộc, không đáng gì so với điều độc nhất cần thiết. Chính cái thời khắc trở lại này minh họa, với nghệ thuật kịch diễn, cái dụ ngôn rất quen biết về người con hoang đàng: "Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ…(Lc 15:17).
- Thời khắc thứ ba, "mua viên ngọc đó", là thời khắc dấn thân bằng hành động. Thời khắc này tiếp nối thời khắc trở lại (thời khắc một cách nhìn mới, một tưởng tượng mới) trờ thành thời khắc hiệu nghiệm, với thực năng thay đổi sự vật. Khi mà thời khắc thứ ba này được khai triển trong chiều kích xã hội của nó, thì thời khắc này sẽ nẩy sinh ra một loạt những biến động như được diễn tả trong dụ ngôn người Samaritanô nhân lành (Lc 10:34tt).
Như thế, một dụ ngôn nhỏ như dụ ngôn viên ngọc cũng hàm chứa hạt mầm, trong sơ đồ ba bước, tất cả thế giới của dụ ngôn. Thời gian mới (Nước Trời) được diễn tả trong đó cả ba thời khắc:
- một biến cố bất ngờ,
- một sự đảo ngược tất cả những trải nghiệm trong quá khứ,
- một dấn thân trong một tương lai hành động và lịch sử mới với tha nhân.
Chính cái sơ đồ ba bước thời gian này thiết kế cấu trúc thế giới các dụ ngôn.
5. Thế giới các dụ ngôn:
Ta hãy nhấn mạnh để kết thúc với câu nói: thế giới các dụ ngôn. Một dụ ngôn riêng lẻ sẽ không có ý nghĩa. Nhưng tất cả cùng nhau, các dụ ngôn làm thành biểu trưng cho Nước Trời.
Có những dụ ngôn nói lên món quà biếu tặng của Chúa, như các dụ ngôn hạt giống, sự lớn lên kỳ diệu, mùa hái gặt, bàn tiệc và lễ cưới: người gieo giống, hạt cải trổ sinh to lớn, những người làm thuê vào những giờ khác nhau…
Có những dụ ngôn nói lên hành trình của con người (được kêu gọi, trở lại, dấn thân xã hội) và gợi lên một nền thần học về sự tự do của con người: người Samaritanô nhân hậu, viên ngọc quý…
Có những dụ ngôn nói lên cách thức cầu nguyện: người bạn phiền hà, quan toà bất công…
Có những dụ ngôn, mang tính thế mạt, nói đến sự sống trong Nước Trời: cây lúa và cỏ lùng, lưới cá giăng ra biển hồ, người giàu chất của đầy kho lẫm, thợ làm vườn nho giết chết các đầy tớ rồi cả người con mà ông chủ gửi đến, yến tiệc…
Các dụ ngôn không chọn ra các nền thần học khả dĩ rồi tự khép mình trong đó. Nhưng dụ ngôn khai triển một mạng lưới ẩn dụ hàm chứa trong mình những tiềm năng có cơ phát sinh ra những tư tưởng thần học, mỗi ý một vẻ, một khía cạnh, một khuynh hướng. Chính vì thế, người ta có thể nói, có nhiều sự thật trong tập hợp các dụ ngôn hơn là trong mọi thứ thần học của chúng ta.
Nguồn: Études théologiques et religieuses, 51 (1976) 15-19.
Frankfurt, CHLB Ðức.
21.03.2012
Lưu Hồng Khanh