Đức tin đến bởi sự người ta nghe, mà người ta nghe, là khi lời của Đấng Christ được rao giảng.

September 12, 2012

Nước Trời Trong Dụ Ngôn Của Đức Giêxu

Tác giả: Paul Ricoeur
Người dịch: Lưu Hồng Khanh



"Nước Trời giống như … "Đó thường là cách bắt đầu các dụ ngôn của Đức Giêxu, theo như các sách Tin mừng Marco, Luca, Matthêu thuật lại.

1. Những nguồn văn nào được Đức Giêxu xử dụng trong công việc giảng dạy của Ngài?

Trong công việc giảng dạy của Ngài, Đức Giêxu đã xử dụng các nguồn văn từ nhiều thể văn khác nhau đã từng được các tôn sư Do thái xử dụng trước Ngài. Như trong Cựu ước: Cây biết lành biết dữ (ST 3), Con chiên của người nghèo khó (2 Sam 12), Sách tiên tri Giôna. Dụ ngôn là một trong những thể văn đó. Ngoài ra còn có thể văn tuyên cáo và thể văn châm ngôn.

Thể văn tuyên cáo thường nói đến điểm chung kết của thời gian, của thế giới (do đó được gọi là "tận thế", "cánh chung", "thế mạt"), để dấy động lên tâm tình về sự cấp bách của một cơn khủng hoảng, trong đó con người nhất thiết phải cấp bách lấy một quyết định và thay đổi cuộc sống.

Thể văn châm ngôn thường xử dụng các nguồn văn nghịch lý, như khi Ngài đảo ngược các số phận cuộc đời: "Kẻ đứng đầu sẽ là người đứng cuối, và kẻ đứng cuối sẽ là người đứng đầu" (Mt 19:30), hoặc nguồn văn ngoa ngữ hay quá thuyết (hyperbole): "Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn là người giàu đi vào Nước Trời" (Mt 19:24). Như thế, châm ngôn gây nên sự bất ngờ, hay cả sự vấp phạm, và kêu gọi, giống như dụ ngôn, một quyết định cấp bách trong một thời gian khủng hoảng.

Trong thể văn dụ ngôn, Đức Giêxu giảng dạy bằng ẩn dụ, cũng gọi là so sánh. Tính cách biểu trưng của sự giảng dạy này đặc biệt ấn tượng trong các dụ ngôn về Nước Trời.

Không nơi đâu, Đức Giêxu nói Nước Trời là gì. Ngài chỉ nói Nước Trời giống cái gì. Chính điều đó cũng là điều rất sáng ý (instructif). Đức Giêxu không phát ngôn như một nhà thần học, Ngài không giảng dạy bằng khái niệm, nhưng bằng hình ảnh. Tất cả những gì Ngài muốn nói thì được diễn tả một cách gián tiếp, bằng cách so sánh. Và như thế Ngài làm cho mọi người đều có thể hiểu được, kẻ ngu dốt cũng như người thông minh. Ta có thể nói, biểu tượng làm ta nghĩ ngợi, bắt ta suy tư. Dụ ngôn bất ngờ bắt chộp lấy ta, làm ta kinh ngạc, gây chấn động, nêu thách thức: Dụ ngôn cho thấy điều này điều kia là định kiến (nghĩa là ý kiến hay tin tưởng được áp đặt lên con người do hoàn cảnh, tập tục, giáo dục, thời đại), đòi hỏi ta phải xem xét lại sự vật và lấy một quyết định mới.

2. Vai trò của truyện kể trong dụ ngôn:

Đặc điểm thứ hai trong dụ ngôn là vai trò của truyện kể hay trình thuật, làm dàn tựa cho sự so sánh. Nước Trời không giống như một ông vua (Mt 22:2), một người cha (Lc 15:11), một người làm công (Lc 19:12), một người chăn chiên (Jn 10:11), v.v… Nước Trời giống như điều xảy ra trong một câu truyện , trong đó nói đến một ông vua, một người cha, v.v…

Nước Trời là như câu truyện, rằng … Điều đó có nghĩa, Nước Trời không phải là một tình trạng nào đó của sự vật, một sự thể cứng nhắc nào đó, nhưng quả như là một "tấn kịch", nghĩa là một cấu kết các biến cố xẩy ra do tác động của một số người liên hệ với nhau. Điều làm nên dụ ngôn, không phải là các nhân vật, nhưng là cái bố cục được kết cấu với một điểm khủng hoảng và một điểm kết thúc. Kết thúc này có thể là "bi ai": Thí dụ câu truyện các trinh nữ mang đèn không dầu khi vị hôn phu đến, và do đó họ không được nhập đoàn lễ cưới (Mt 25:1-12)…; một khách mời bị đuổi ra khỏi phòng tiệc, vì không mang áo cưới (Mt 22:11-18). Kết thúc cũng có thể là "hài hước" (trong nghĩa kết thúc có hậu). Thí dụ: người con hoang đàng trở về nhà cha (Lc 15:17-24); con chiên đi lạc được tìm thấy lại (Lc 15:16).

Chính cái ngập ngừng lơ lửng của cái thời điểm khủng hoảng, cùng với những biến cố bất ngờ khác nhau có thể xảy ra, gây nên ấn tượng, đưa ra cảnh báo, gây ra lo âu, thúc bách phải lấy quyết định. Cái hiệu ứng này đạt được, bởi vì các diễn cảnh mô tả thật rất đơn giản, thông suốt, rất gần gũi với cuộc sống đời thường. Tự nó, chúng cũng đã nói lên ý nghĩa, không có gì cầu kỳ, bí mật, che dấu. Như thế, ẩn dụ (hình ảnh) Nước Trời được dựa trên những khía cạnh bi tráng nhất (nghĩa là đặc biệt, khác thường, bất ngờ) của cuộc sống thường nhật. Ta có thể nói, dụ ngôn là những truyện kể bình thường mà tất cả hiệu năng của ẩn dụ được tập trung vào trong một thời điểm khủng hoảng và với một kết thúc bi ai hay có hậu.

3. Đặc tính quái dị của dụ ngôn:

Đặc điểm thứ ba của dụ ngôn xem ra như là phản nghịch với đặc điểm vừa nói trên. Nếu các truyện kể đều lấy ra từ cuộc sống đời thường, chúng lại hàm chứa một yếu tố quái dị, một yếu tố mang kịch tích, gây bất ngờ:

  • Có người chăn chiên nào bỏ lại 99 con để đi tìm một con đi lạc cho đến khi tìm lại được nó mới thôi ? (Mt 18:10-14);
  • Có người cha nào đón nhận lại với tất cả xa hoa hào phóng đứa con hoang đàng đã bỏ nhà ra đi nay trở về lại? (Lc 15:11-32);
  • Có người chủ nhà nào lại xua đuổi khách mời của mình ra khỏi nhà, chỉ vì vị khách mời này mặc áo không tiêm tất? (Mt 22:11);
  • Có hạt cải nào trổ cây cao to đến độ có thể để chim trời đến làm tổ? (Mt 13:31-32).

Quả thật chúng ta đụng đầu với nghịch lý của dụ ngôn: Dụ ngôn bắt đầu một cách bình thường, để quay ra hoang tưởng. Nhưng là một hoang tưởng trong đời thường, không chút siêu phàm như trong các truyện thần tiên hay trong các huyền thoại. Sự khác thường trong bình thường, đó quả là điều làm ta bối rối và tự hỏi: tại sao người ta lại kể câu truyện đó? Không phải là để dạy cách làm vườn, nuôi gia súc hay làm kinh tế gia đình! Nhưng nếu không phải là truyện kể để kể cho vui, thì truyện kể trong cái tầm thường của nó ắt phải muốn nói lên cái gì khác. Cái "trượt" ý của truyện kể như thế chính là cái bí quyết của thể văn "dụ ngôn". Dụ ngôn ở đây muốn nói về Nước Trời, chính nhờ cái quái dị nói trên làm cho câu truyện bung ra khỏi cái khuôn khổ bình thường của truyện kể.

Nếu ta lần theo sợi chỉ suy tư này, thì ta sẽ đi đến việc nối kết dụ ngôn với hai loại thể văn khác: ngôn sứ và châm ngôn, cả hai loại này cũng hàm chứa khía cạnh quái dị: sự đột nhập một Cái gì khác được các ngôn sứ thông báo: "Con Người sẽ đến như một người ăn trộm…", hay nữa là sự đảo ngược số phận như trong châm ngôn: "Kẻ cuối cùng sẽ là người đầu tiên".

Ta cũng sẽ thấy một sự quái dị như thế trong các giới răn: "Khi người ta vả má phải ngươi, thì ngươi cũng hãy dơ ra má trái" (Mt 5:39). Một đòi hỏi bất khả thi như thế đòi buộc ta phải đặt lại vấn đề về cái khôn ngoan dân gian truyền thống nhắm giữ gìn ta khỏi những bất ngờ trong cuộc đời, và cả những châm ngôn quen thuộc bảo vệ ta khỏi những sự không dè chứng: "Nếu ngươi muốn hòa bình, thì hãy chuẩn bị chiến tranh" (châm ngôn latinh), "Hãy tự giúp minh, thì Trời sẽ giúp ngươi" (La Fontaine).

4. Thời gian trong các dụ ngôn:

Nếu đào sâu thêm, ta sẽ thấy những loại diễn ngôn như thế đều có dính dáng đến vấn đề thời gian. Nhất là dụ ngôn, bởi dụ ngôn được xây dựng trên truyện kể, nghĩa là có liên hệ đến cái gì xảy ra và điều gì người ta làm - dụ ngôn như thế nói về thời gian của Nước Trời. Chính cái<em >thời gian đólàm đảo ngược thời gian của chúng ta, làm lạc hướng, để định hướng lại thời gian của chúng ta.

Ta hãy thử lấy dụ ngôn rất đơn giản trong cấu trúc truyện kể là dụ ngôn viên ngọc quý (Mt 13:45-46). Dụ ngôn này chỉ có ba động từ, diễn tả ba "thời khắc":

  • "Ông ta tìm được viên ngọc quý",
  • "Ông ta ra đi, bán hết tất cả những gì mình có",
  • "Ông ta mua viên ngọc đó".

Ba thời khắc đó tượng trưng cho ba chiều kích thời gian khác nhau của Nước Trời:

  1. "Tìm được viên ngọc quý", là gặp được, là cảm nghiệm được thời khắc đó như một món quà bất ngờ, như một điều đột hiện lên chứ không nằm trong quyền sử dụng bình thường của chúng ta. Các dụ ngôn khác khai triển thêm ý nghĩa sự bất ngờ này với kết thúc "bi ai" (truyện 10 trinh nữ) hay kết thúc có hậu (kho báu cất giấu).
  2. Thời khắc thứ hai là thời khắc trở lại: "Ông ta bán hết tất cả những gì mình có": Tức thời, những gì xưa nay là giá trị cực điểm thì bây giờ chỉ là tưong đối, phụ thuộc, không đáng gì so với điều độc nhất cần thiết. Chính cái thời khắc trở lại này minh họa, với nghệ thuật kịch diễn, cái dụ ngôn rất quen biết về người con hoang đàng: "Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ…(Lc 15:17).
  3. Thời khắc thứ ba, "mua viên ngọc đó", là thời khắc dấn thân bằng hành động. Thời khắc này tiếp nối thời khắc trở lại (thời khắc một cách nhìn mới, một tưởng tượng mới) trờ thành thời khắc hiệu nghiệm, với thực năng thay đổi sự vật. Khi mà thời khắc thứ ba này được khai triển trong chiều kích xã hội của nó, thì thời khắc này sẽ nẩy sinh ra một loạt những biến động như được diễn tả trong dụ ngôn người Samaritanô nhân lành (Lc 10:34tt).

Như thế, một dụ ngôn nhỏ như dụ ngôn viên ngọc cũng hàm chứa hạt mầm, trong sơ đồ ba bước, tất cả thế giới của dụ ngôn. Thời gian mới (Nước Trời) được diễn tả trong đó cả ba thời khắc:

  • một biến cố bất ngờ,
  • một sự đảo ngược tất cả những trải nghiệm trong quá khứ,
  • một dấn thân trong một tương lai hành động và lịch sử mới với tha nhân.

Chính cái sơ đồ ba bước thời gian này thiết kế cấu trúc thế giới các dụ ngôn.

5. Thế giới các dụ ngôn:  

Ta hãy nhấn mạnh để kết thúc với câu nói: thế giới các dụ ngôn. Một dụ ngôn riêng lẻ sẽ không có ý nghĩa. Nhưng tất cả cùng nhau, các dụ ngôn làm thành biểu trưng cho Nước Trời.

Có những dụ ngôn nói lên món quà biếu tặng của Chúa, như các dụ ngôn hạt giống, sự lớn lên kỳ diệu, mùa hái gặt, bàn tiệc và lễ cưới: người gieo giống, hạt cải trổ sinh to lớn, những người làm thuê vào những giờ khác nhau…

Có những dụ ngôn nói lên hành trình của con người (được kêu gọi, trở lại, dấn thân xã hội) và gợi lên một nền thần học về sự tự do của con người: người Samaritanô nhân hậu, viên ngọc quý…

Có những dụ ngôn nói lên cách thức cầu nguyện: người bạn phiền hà, quan toà bất công…

Có những dụ ngôn, mang tính thế mạt, nói đến sự sống trong Nước Trời: cây lúa và cỏ lùng, lưới cá giăng ra biển hồ, người giàu chất của đầy kho lẫm, thợ làm vườn nho giết chết các đầy tớ rồi cả người con mà ông chủ gửi đến, yến tiệc…

Các dụ ngôn không chọn ra các nền thần học khả dĩ rồi tự khép mình trong đó. Nhưng dụ ngôn khai triển một mạng lưới ẩn dụ hàm chứa trong mình những tiềm năng có cơ phát sinh ra những tư tưởng thần học, mỗi ý một vẻ, một khía cạnh, một khuynh hướng. Chính vì thế, người ta có thể nói, có nhiều sự thật trong tập hợp các dụ ngôn hơn là trong mọi thứ thần học của chúng ta.





Nguồn: Études théologiques et religieuses, 51 (1976) 15-19.

Frankfurt, CHLB Ðức.
21.03.2012
Lưu Hồng Khanh
Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Lý luận của Ðức Giêxu - Thư Rôma 5

Tác giả: Paul Ricoeur
Người dịch: Lưu Hồng Khanh
 
Lời nói đầu của người dịch:
Bài viết này nguyên thủy là một bài giảng được Paul Ricoeur trình bày vào tháng mười 1976 trong nguyện đường Rockefeller thuộc đại học Chicago. Bài này sau đó được đăng tải bằng tiếng Anh trong tạp chí Criterion, 18 (1979), 4-6, với tựa đề The Logic of Jesus, the Logic of God; rồi bằng tiếng Pháp trong tạp chí Études théologiques et religieuses, 55 (1980), 420-425, với tựa đề La Logique de Jésus, Romains 5; và tạp chí Esprit tháng Mars/Avril 2006. Trong số tạp chí Esprit này, bài giảng được mang một tựa đề khác nhưng cũng cùng một bản văn và cũng cùng một ý nghĩa: Équivalence et Surabondance – Les deux logiques.
Cái "Lý luận của sự tương ứng, sự cân bằng" - 'mắt đền mắt, răng đền răng' - đối với con người hiện đại là một sự man rợ, nhưng trong văn mạch lịch sử của nó, cái lý luận nói trên đã là một sự chinh phục đầu tiên của tính nhân bản trên thù hận không biên giới. Cái "Lý luận của Ðức Giêxu, của Ðức Chúa Trời" là cái lý luận của "lòng quảng đại, sự bao dung, quà biếu, tặng phẩm, sự ban cho dư dật", có khả năng thay đổi và chuyển hóa cái lý luận cân bằng hãn hẹp thường tình của con người. Ngày nay, chúng ta cũng được mời gọi sống và thể hiện cái lý luận "cho thêm", "cho nhiều", "cho dư dật". Không dòng tư tưởng nào biểu lộ tính nhân bản và niềm tin tôn giáo sinh động và kỳ diệu hơn trong cuộc sống đơn giản thường ngày.
Chủ đề "Lý luận của Ðức Giêxu", hay "Lý luận của sự cân bằng và lý luận của sự dư dật" đã được Paul Ricoeur trình bày nhiều lần, nhiều nơi, trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, tham chiếu nhiều đoạn văn trong Kinh thánh khác nhau, và mỗi lần với những suy tư bổ sung, đào sâu, mở rộng. Chúng tôi sẽ có dịp lần lượt giới thiệu một số các phiên bản này. Ở đây, chúng tôi biên dịch phiên bản bài giảng tại nguyện đường Rockefeller thuộc đại học Chicago năm 1976 và được đăng tải trong tạp chí Études théologiques et religieuses nói trên.


Những đoạn văn liên hệ trong Kinh thánh:

  • Sáng thế (ST) 6:5-8, 12-13; 7:13-14, 22-23; 8:1: Lụt đại hồng thủy.
  • Rôma (Rm) 5:1-20: Lề luật và Ân điển.
  • Matthêu (Mt) 5:34-48: Bài giảng trên núi.



Trong thư Rôma, đặc biệt chương 5, sứ đồ Phaolô đã xử dụng một thuật văn với một sức hùng biện hiếm có để diễn tả một cách hào hùng điều mà tôi gọi là cái lý luận (logic) của Ðức Giêxu – cái lý luận của Ðức Chúa Trời. Phaolô lặp lại ba [hai] lần: lại còn lớn lao hơn biết mấy (cc.15, 17, 20). Qua bài này, tôi mong ước quý bạn có thể phần nào đoán nhìn ra được cái lý luận này qua thuật văn hùng biện của Phaolô.
Nhưng trước hết ta hãy nói về cái lý luận của con người, cái lý luận của chúng ta; và hãy đặt vấn đề trong cùng một lãnh vực mà Phaolô đã đưa đến một thứ lý luận khác, lãnh vực của luật hình sự. Ðể hiểu cuộc cách mạng tư tưởng mà Tin mừng đòi hỏi, ta cần trước đó nhìn ra được cái lớn lao của cái lý luận mà Ðức Giêxu và sứ đồ Phaolô đã muốn bẻ gãy và vượt qua. Mà quả thật cái danh dự của luật hình sự của chúng ta là gắng sức luôn mãi làm cho cân đối hơn nữa hình phạt với tội phạm. Lý tưởng, theo tinh thần của bộ luật này, là hình phạt phải ngang bằng với tội phạm. Trong cái nổ lực đáng kính này, ta thấy được sự kết tinh của cái lý luận của con người, đó là cái lý luận về sự cân bằng, sự tương ứng. Nhưng cái lý luận của Ðức Chúa Trời, cái lý luận của Ðức Giêxu, cái lý luận của sứ đồ Phaolô thì khác hẳn. Ðó là cái lý luận của sự trổi vượt, của sự dư dật. Hãy xem thư Rôma, chương 5, của Phaolô. Nhưng ta khoan vội đi vào bản văn của Phaolô. Bản văn đó quá cô đọng và giả thiết rất nhiều điều cần được thấu hiểu trước đó.
Một ít điều của cái lý luận khác lạ này, ta đã được nghe đọc lên vừa rồi trong câu truyện lụt đại hồng thủy, hay nói cách khác trong câu truyện huyền thoại cổ đại Babylon được nhà văn Kinh thánh viết lại. Câu truyện bắt đầu như một huyền thoại trừng phạt (ST 6:57). Tất cả cái lý luận về trừng phạt được chất chứa tại đây, và có thể nói là được thần thánh hóa. Ðó là cái lý luận của sự cân bằng tương ứng. Khi một tội ác đụng chạm đến thần linh, thì chỉ có án chết, nghĩa là một tội phạm khác mới có thể xóa sạch tội ác kia.
Nhưng này đây, thông qua cái lý luận của sự trừng phạt, thì có một lý luận khác được mở đường. Lý luận này được diễn tả một cách rất đơn giản, rất ngây thơ, dường như cách Ðức Chúa Trời hối hận. Ở phần cuối câu truyện, Ðức Chúa Trời không sợ phải tự mâu thuẫn với chính mình (ST 8:21-22). Câu truyện huyền thoại cổ thời về lụt đại hồng thủy nay được chuyển hóa thành ẩn dụ về sự sống lại của nước cho nhân loại. Và như thế, một cái lý luận khác được gợi lên cho chúng ta, cái lý luận của sự dư dật. Cái lý luận này được tỏ bày trong tiếng nói của các ngôn sừ, như nơi Giêrêmi, Êxêchien, và trong các Thi thiên Thánh vịnh.
Nhưng chính trong những lời nói của Ðức Giêxu mà cái lý luận khác lạ này được cất lên, hùng mạnh và sáng tỏ. Ta hãy cùng nhau đọc lại đoạn văn này: Mt 5:39b-42.
Câu 38: "Các ngươi đã nghe…", đó là luật cũ. Luật như thế nào? "Mắt đền mắt, răng đền răng". Ta hãy thận trọng. Cái luật báo thù khét tiếng này đối với chúng ta ngày nay là man rợ. Nhưng khoa nhân chủng học lại cho ta thấy, luật đó là sự chinh phục đầu tiên chống lại sự báo thù không có giới hạn, đó là biện pháp đầu tiên của sự trừng phạt tương ứng với mức độ của tội phạm. Nhưng cho dầu sự chinh phục về việc ấn định một hình phạt có giới hạn có ấn tượng đến bao nhiêu đi nữa, nó cũng còn nằm trong cái lý luận cũ của sự cân bằng tương ứng. Và chính cái lý luận này mà Ðức Giêxu muốn lật bỏ. Bằng cách nào? Bằng cách đưa ra bốn lần liên tiếp một giới răn cực điểm, mỗi lần đều gây băn khoăn, có thể làm công phẫn, ít nữa là làm cho ta sững sờ bối rối.
Ta hãy nhìn kỹ hơn cái hùng biện lạ lùng của bản văn này. Ðức Giêxu không làm theo cách các nhà luân lý học bằng cách đưa ra một giới luật khái quát. Ngài mỗi lần đều bắt đầu từ một hoàn cảnh cụ thể, có thể là hiếm thấy, không chắc là có thật, nhưng mỗi lần Ngài làm nổ tung sự việc đó ra bằng cái mà ta có thể gọi là một câu trả lời cực đoan.
Câu 39: Một cái vả trên má? Ðó quả là một sự việc thất thường, nhất là đối với một người lớn - và ngay cả đối với một em bé (không thể được - có phải thế không? – sao lại đánh đập vào mặt một em bé?). Nhưng, hãy xem đây, nếu có ai vả vào mặt bạn! Phản ứng thế nào? Phải, hãy giơ cả má kia ra! Làm sao có thể thực hành theo chân chữ giới răn này, nếu không phải là trao cho kẻ mạnh hơn trọn cả nhóm người thiểu số, yếu kém, nơi đây, nơi kia, trên cả trái đất này?

Câu 40: Trường hợp thứ hai của giới răn cực điểm này nói đến vụ kiện đối với một người bị lấy áo trong, lại để cho người ta lấy cả áo ngoài. Một người nghèo gia tài không có gì đáng giá hơn là một chiếc áo bình thường. Nay giới răn dạy: bị mất áo trong, lại cho thêm cả áo ngoài, thì không những không còn đồng xu cháy túi, mà chỉ còn da bọc xương!...
Câu 41: Trường hợp thứ ba - theo một vài tác giả - nói đến những kẻ phải đi làm khổ sai. Một người ngoại bang bị tù hay bị làm nô lệ phải làm việc gánh vác – có thể là để xây cất các kim tự tháp – cho một chủ nhân chiếm cứ hay xâm lược. Và giới răn là: nếu bị bắt đi một dặm, thì hãy đi thêm với người ấy hai dặm. Như thế đơn giản có phải là tròng thêm gấp đôi dây xích và giáng thêm gấp đôi sự nô lệ?
Câu 42: Trường hợp thứ tư cuối cùng này cũng không ít cực đoan, khi nói rằng: "Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi", khi ta thấy kẻ cho vay mượn không thận trọng, luôn bị lợi dụng, nhất định sẽ rơi vào tình trạng không tiền không bạc cho bữa ăn ngày hôm sau, không còn cơm bánh hằng ngày. Và từ nay sẽ là cuộc sống như chim trên trời và hoa cỏ ngoài đồng nội!
Như thế, những giới răn này làm chúng ta kêu lên: Phải đi đến tận đó! Phải làm như thế! Mỗi khi một hành động đòi phải được thực hiện hoàn toàn ngược lại với cách bình thường và tự nhiên chúng ta thường làm là "mắt đền mắt, răng đền răng"… Tôi gợi ý suy nghĩ rằng, những giới răn nhất quyết là phi lý kia đã được nói lên đơn giản với mục đích đánh đổ cái khuynh hướng tự nhiên của chúng ta. Rồi thay vào đó là một khuynh hướng ý thức và tự chọn được thiết lập giữa giới răn mới và khuynh hướng tự nhiên mà chúng ta thường sống, thường suy nghĩ, thường hành động, cách tự nhiên và bình thường.
Nghĩ như thế, chúng ta hiểu được cái dụng ý của sự đưa ra cách dồn dập những trường hợp cực điểm và những phản ứng cực độ nói trên. Dụng ý này không nhắm đưa lại cho chúng ta một quy luật khôn ngoan có thể áp dụng theo chân chữ và một cách máy móc tức thì, nhưng bằng sự kết hợp một vài hoàn cảnh tiêu biểu làm thí dụ, gợi ý cho chúng ta về một thái độ phải có trong các cuộc xung đột, không phải chỉ trong một số hành động lẻ tẻ, nhưng là trong toàn bộ cách sống, cách hành xử trong cuộc đời của chúng ta. Một giới răn không ăn khớp với cái lý luận đạo đức thường ngày sẽ là câu hỏi đối với cái lý luận đạo đức đó. Hơn nữa, cái tính cách eo hẹp của các thí dụ cực đoan nói trên không cho phép ta quan niệm theo cách "giải nố" (casuistique) bằng cách sắp xếp chúng lại thành từng loại hoàn cảnh với từng loại giải quyết, mang nhãn pháp lý, luân lý, xã hội, chính trị. Không đâu, không có một quy luật nào được phát xuất từ đây để người ta có thể áp đặt thành một lý thuyết hay một nền pháp luật. Trong bốn hoàn cảnh mà Ðức Giêxu đưa ra, khó lòng mà trông chờ có được sự sáng tỏ của luật pháp. Ðức Giêxu giảng dạy không phải bằng luật lệ, nhưng bằng luật trừ đối với lề luật.
Như thế có phải là chúng ta không được định hướng? Ở đây, theo tôi nghĩ, cũng giống như những trường hợp Ðức Giêxu vẫn thường dùng một ngôn ngữ cực độ - hoặc là sự dị thường của phần kết một dụ ngôn, hay một quá thuyết - với mhững thuật ngữ của các châm ngôn: cái xà nhà trong mắt, con lạc đà chui qua lỗ kim! Dụ ngôn, nghịch thuyềt, ngoa ngữ, giới răn cực độ, những điều làm ta lạc hướng, nhưng là để ta định hướng lại. Nhưng điều gì được định hướng lại trong ta? Và định hướng về đâu? Tôi nghĩ rằng, điều được định hướng lại bởi những lời quá thuyết nói trên, là dành để cho trí tưởng tượng của chúng ta hơn là cho ý chí. Ý chí của chúng ta, đó là khả năng đi theo không chút ngần ngại con đường một khi đã quyết chọn, là vâng phục không chống cự một giới răn đã chấp nhận. Còn trí tưởng tượng của chúng ta, đó là năng lực làm cho chúng ta mở mình ra trước những khả năng mới, là khám phá ra một con đường khác bằng cách nhìn sự vật một cách khác đi, là năng lực tiếp nhận một giới luật mới thông qua giáo huấn của luật trừ.


Và đường hướng nào mà những lời giảng dạy của Ðức Giêxu đem lại cho trí tưởng tượng đạo đức của chúng ta? Tôi nghĩ là nhìn ra được đường hướng đó phân xuất từ loạt câu trả lời cực độ - tự nó là để mở - do những hoàn cảnh cực điểm đòi hỏi. Dĩ nhiên không có một giới luật nào được trưng bày hiển hiện, nhưng có một cái gì mà chúng ta có thể gọi là một cung cách hành xử. Và cung cách này là cung cách của một sự ứng đáp dư trội so chiếu với sự ứng đáp bình thường chờ đợi.
Vâng, mỗi sự ứng đáp đều đưa lại nhiều hơn là sự khôn ngoan bình thường đòi hỏi. Má phải ư? Cả má trái nữa! Áo trong ư? Cả áo ngoài nữa! Một dặm ư? Cả đến hai dặm nữa! Không những điều này, mà cả điều kia nữa! Chính cái sự đưa lại nhiều hơn này cho tôi thấy cái điều cốt lõi của những giới răn cực điểm này. Và thông qua cái đưa lại nhiều hơn này mà được tỏ hiện ra cái lý luận (logique) của Ðức Giêxu được diễn tả trong các ẩn dụ, châm ngôn, và các lời về thế mạt của Ngài. Chính cái lý luận của sự quảng đại này đã chạm trán với cái lý luận của sự cân bằng, thứ lý luận cũng đã từng chế ngự những trao đổi thường ngày của chúng ta, trong mua bán, trong luật hình sự, mà chúng ta cũng đã vừa thấy được tôn dương trong luật báo thù mang tính hoàn vũ của câu truyện huyền thoại lụt hồng thủy cổ đại. Cái lý luận của sự quảng đại này dĩ nhiên cũng phần nào có thể ước đoán được thông qua lời giao hứa của Chúa Giavê đối với nhân loại được sống lại từ nước lũ. Nhưng chính bây giờ, cái lý luận của sự quảng đại đó lại đã chiếm trọn phần trong những lời giảng dạy của Ðức Giêxu. Và cũng còn chính cái lý luận của sự quảng đại đó nay cũng lại được hưng phấn thổi vào bản thư văn căng thẳng, tương phản, nghịch thường của sứ đồ Phaolô trong một đoạn thư Rôma mà chúng ta vừa đọc: Rm 5:1-20.


Ðể nhìn ra cái lý luận của Phaolô, ta nên xem đoạn văn nói trên của Phaolô từ điểm đến hơn là từ điểm phát xuất. Tiện đây, tôi cũng nói qua rằng, tôi không tin vào luận điểm của Nietzsche cho rằng, Phaolô đã sáng tạo ra Kitô-giáo, nếu không như là một sứ điệp, thì chí ít cũng như là một giáo thuyết. Phaolô nói cũng một điều như Ðức Giêxu, nhưng trên một âm vực khác, trừu tượng và lý thuyết hơn. Nhưng cũng cùng một ý nghĩa. Bởi chính cũng cùng một cái lý luận của sự dư dật bẻ gãy cái lý luận của sự cân bằng. Phaolô - để nhấn mạnh ý tưởng nói trên - đã không ngần ngại lặp lại đến bốn lần cũng cùng một lối văn hùng biện: "lại còn hơn thế nữa…", như thể cái dư dật của lời nói phải hình dung bắt chước cái dư dật của tặng phẩm mà sứ đồ Phaolô tôn vinh. Nhưng cái lý luận này được diễn tả trong diễn ngôn bình dân của ẩn dụ, châm ngôn, khuyến dụ, thì nay được chuyển đổi vào một thứ diễn ngôn khác, từ đó phát xuất ra nền thần học của giáo phụ Augustinus và nhà cải chánh Luther. Ðó là cái biện chứng của định mệnh con người nay được diễn tả qua những khái niệm sự hư mất và sự nên công chính, sự thù địch và sự giải hòa với Ðức Chúa Trời, lề luật và ân điển, sự chết và sự sống. Cái cuộc hỗn chiến của những khái niệm vĩ đại này có lẽ làm ta e ngại. Cũng có thể bởi nó được diễn tả thông qua một ngôn ngữ xa lạ với nền văn hóa của chúng ta.


Vậy để giải mã ngôn ngữ đó, ta hãy lấy lại lời nói đơn giản hơn của Tin mừng. Và chúng ta đọc được, dưới những từ "đại ngôn" như công chính hóa, tái hòa giải, đích thực những gì vừa được giải bày trong đoạn văn kỳ diệu của Matthêu. Thư Rôma, đọc dưới ánh sáng của Bài giảng trên núi, sẽ bắt đầu lại cuộc nói chuyện với ta, và chúng ta sẽ khám phá ra rằng, Phaolô đã nói cũng cùng một điều như Ðức Giêxu, nhưng trên một bình diện ngôn ngữ khác. Hơn nữa, điều độc nhất mới mà Phaolô nói, sẽ trở nên, như một tương phản, vô cùng quý báu. Cái điều mới này là: Ðức Giêxu Ðấng Christ là chính cái "còn hơn thế nữa của Ðức Chúa Trời". Trong Tin mừng, Ðức Giêxu trước hết là kẻ lên tiếng và nói lời Tin mừng. Giờ đây, Ngài được loan báo như là kẻ - bởi cái điên rồ của thập tự giá - bẻ gãy cái cân bằng thảm đạm của sự tội và sự chết. "Còn hơn thế nữa bây giờ, được công chính hóa trong bửu huyết của Ngài, chúng ta sẽ nhờ Ngài mà được cứu khỏi cơn thịnh nộ". Cái cuộc hỗn chiến của những khái niệm vĩ đại mà chúng ta vừa nhắc đến, đó là:

  • luận phạt và công chính hóa
  • lề luật và ân điển
  • sự chết và sự sống

nay được nhập thể trong hai hình hài:

  • một bên, người đầu tiên: "nếu bởi tội của chỉ một người mà mọi kẻ khác đều phải chết…"
  • bên kia, con người đích thực: "thì ơn của Ðức Chúa Trời và sự ban-cho trong ơn Ngài tỏ ra bởi một người là Ðức Giêxu Ðấng Christ càng dồi dào hơn biết mấy cho muôn người!"

Và như thế, Hội thánh, qua lời nói của Phaolô, đã đặt tên – tên Ðức Giêxu Ðấng Christ – cho cái giới răn sự dư dật. Nhưng, dẫu thế, sự tuyên xưng của Hội thánh này vẫn chỉ là một lời nói đóng kín, nếu ta không nối kết được cái lời nói huyền diệu "còn lớn hơn biết mấy" này với những câu nghịch lý đầy soi sáng của Thầy Giêxu.

Chúng ta hãy trở về lại với chính mình chúng ta để kết thúc.


Có lẽ các bạn sẽ đặt câu hỏi, làm sao chúng ta ngày hôm nay có thể sống được theo cái lý luận của sự dư dật này. Chúng ta đã nói, không gì xa lạ với tinh thần của Tin mừng hơn là cái kỳ vọng muốn rút ra từ những lời giảng dạy nghịch thường của Ðức Giêxu để làm thành một khoa luân lý học cứng nhắc. Trái lại, điều mà ta có thể làm, là thực hiện những chỉ dấu cụ thể về cái kế hoạch sống mới này. Xin cho phép tôi gợi lên ở đây một vài dấu chỉ, không mục đích nào khác hơn là để khích động những suy nghĩ tương tự, hoặc nữa là để từ đây các bạn có thể đưa ra được những điều làm còn khác xa và sâu xa hơn những điều tôi gợi ý.

Trong lĩnh vực hình sự, nơi mà chúng ta bắt đầu: không phải là chúng ta trước tiên được cảnh giác phải giữ mình khỏi cái khuynh hướng tự nhiên thỏa lòng với cái lý luận của sự cân bằng nó chế ngự toàn bộ luật hình sự của chúng ta? Nói cách khác, không phải chúng ta được mời gọi phải phân biệt, đến cả trong những hình phạt công bằng nhất, bóng dáng đáng gây ưu tư của sự giận dữ và oán thù? Là một điều tốt, khi được khích động bởi sự nghịch lý của Ðức Giêxu, chúng ta nghi ngờ đến cả những việc làm tốt lành nhất của chúng ta. Nhưng không phải chỉ nghi ngờ mà thôi. Một cách tích cực hơn, không phải chúng ta phải quyết tâm điều chỉnh hình phạt, nhắm sự cải tội hơn là đến sự đền tội? Bởi Tin mừng đứng về phía nào: về phía báo thù của xã hội, hay là về phía phục hồi người tội phạm?
Chúng ta hãy mở rộng hơn lĩnh vực tự vấn và hỏi mình, có phải toàn bộ giao thương của chúng ta đều đặt nền tảng trên luật mậu dịch, nghĩa là trên luật cân bằng? Và có phải luật mậu dịch, cũng giống như luật hình sự, là một hình thức trá hình của sự cưỡng bức, cách riêng khi nó dấu ẩn dưới hình thức pháp lý một tương quan lực lượng? Sự nghi ngờ về những nền tảng trong giao thương của chúng ta cũng giống như sự nghi ngờ về những nền tảng trong pháp luật của chúng ta, bởi cũng là một thứ lý lẽ nó chế ngự cả lĩnh vực này giống như cả lĩnh vực kia. Và ở đây, chúng ta cũng được yêu cầu đưa ra những chỉ dấu tích cực. Luật thương mại không phải là vĩnh hằng. Khoa nhân chủng học cho ta biết, có một nền giao thương ân nghĩa quà tặng còn cổ kính hơn nền giao thương mậu dịch trao đổi. Khoa nhân chủng học này cũng nói đến những lễ hội trong đó người người đua nhau thi thố sự quảng đại và lòng nhân hậu. Công việc của chúng ta, trên bình diện quốc gia cũng như quốc tế, không phải là làm xuất hiện ra phần nào một nền thương mại dựa trên sự biếu tặng trong một xã hội hiện đại? Không phải là chỉnh sửa lại bằng những can thiệp tích cực những bất đồng phát xuất chính do sự áp dụng cái lý luận cân bằng trong mọi giao dịch kinh tế và thương mại?
Tôi xin ngừng lại ở đây, để không lấy những câu hỏi cũng như những câu trả lời của tôi thay thế cho câu hỏi của Ðức Giêxu và của sứ đồ Phaolô, và nhất là để không thay thế cho câu trả lời sắc bén của các ngài. Chúng ta không nghi ngờ gì nữa. Ðem ra thực hành lời dạy nhận được sáng nay, đó là tìm cách thực hiện những chỉ dấu cụ thể, điều mà chúng ta được đòi hỏi phải thực hiện ngày hôm nay, về cái lý luận của Ðức Giêxu, [cái lý luận của sự dư dật, chứ không phải của sự cân bằng "mắt đền mắt, răng đền răng"]!





  • Nguồn: Études théologiques et religieuses, 65 (1980), 420-425.

  • Frankfurt, CHLB Ðức
    Lễ Phục Sinh, Chủ nhật, 08-04-2012
    Lưu Hồng Khanh
    Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...