Đức tin đến bởi sự người ta nghe, mà người ta nghe, là khi lời của Đấng Christ được rao giảng.

September 12, 2012

Sau Sự Chết Có Gì?

Chồng của bà Sarah Winchester đã tích lũy được một gia tài kết xù nhờ sản xuất và bán súng trường. Sau khi chồng chết năm 1918, bà Sarah dời về sống ở San Jose, California. Trong lúc buồn chán, bà bắt đầu say sưa tham dự vào các hoạt động đồng bóng, ma thuật, tâm linh. Khi bà tìm cách liên lạc với vong linh của chồng mình, một người đồng bóng đã nói với bà, "Bao lâu bà tiếp tục xây cất ngôi nhà của mình thì bấy lâu bà chưa có chết." Bà Sarah tin lời người đồng bóng nầy. Bà mua một lâu đài 17 phòng đang xây cất dang dở và bắt đầu mở rộng thêm. Chương trình kiến trúc vẫn tiếp tục mãi cho đến khi bà chết năm bà được 85 tuổi. Công trình xây cất trên tốn kém đến 5 triệu đô-la, mà theo thời giá bấy giờ mỗi công nhân lãnh năm mươi cents mỗi ngày. Lâu đài mở rộng đến 150 phòng, 13 phòng tắm, 2,000 cửa chính, 47 lò sưởi và 10,000 cửa sổ. Lâu đài có những cầu thang không dẫn tới đâu cả và có những cửa mở để chỉ nhìn vào những vách tường. Khi công trình xây dựng chấm dứt lúc bà Sarah chết, người ta thấy còn có đủ vật liệu để tiếp tục xây cất đến 80 năm nữa! Ngày nay lâu đài Winchester được làm nơi thu hút du khách nhưng nó cũng làm chứng tích lặng thinh cho sự sợ chết đã cầm tù vô số con người. Dầu bà Sarah là một trường hợp cá biệt, bà vẫn là một trong số rất nhiều người đã xây dựng lên những hệ thống tín ngưỡng phức tạp để trốn tránh thực trạng không tránh khỏi của loài người. Cuối cùng ai cũng sẽ chết.

Trong vòng 100 năm nữa, ngoại trừ một số ít người sống lâu, còn tất cả những người đang sống hiện nay trên thế giới đều chết hết, không còn người nào. Đối với một số người, nói đến chết chỉ là chuyện xa vời, không ai muốn nhắc đến. Chuyện đó còn lâu mới tới, lo gì cho mệt! Có người nói chết là hết, bận tâm làm gì? Tử giã biệt luận mà! Nhưng trong thực tế đã có người như Vua Philip, thân phụ của Hoàng Đế A-lịch-sơn Đại Đế, đã quyết định nhắc đến sự chết mỗi ngày. Mỗi buổi sáng, ông truyền lịnh cho một đầy tớ đánh thức ông dậy với câu nói, "Philip, hãy nhớ rằng nhà ngươi sẽ chết."
Chúng ta không chỉ đối diện với sự chết của chính mình nhưng cũng của những người thân yêu của chúng ta nữa. Đây là vấn đề muôn thuở của loài người. Biết bao nhiêu người đã đặt câu hỏi: Sau sự chết còn có gì không? Chết rồi tôi sẽ đi đâu? Có thiên đàng và hoả ngục không? Đời sống tôi hôm nay có ảnh hưởng đến tương lai của tôi sau khi chết không?
Thái độ của chúng ta đối với sự chết sẽ quyết định lối sống của chúng ta. Nếu một người không tin có đời sau thì trong đời nầy người đó sẽ chỉ cần thoả mãn những nhu cầu thể xác và sống phớt tỉnh đối với nhu cầu tâm linh. Người đó cũng sẽ sống với rất ít mục đích sống. Sẽ không có hy vọng gì cho người đó bên giường chết. Ngược lại nếu một người tin có đời sau thì tư tưởng, tình cảm và thái độ của người đó sẽ biểu lộ cách khác hẳn. Người đó có nhiều mục đích sống, sống với nhiều ý nghĩa và luôn luôn có hy vọng cho người đó bên giường chết.
Nếu chết là hết thì hôm nay tôi có quyền hưởng thụ, chơi bời, sống thoả mãn tối đa mọi nhu cầu thể xác, không cần biết đời sau có gì. Nhưng nếu có thể có đời sau thì tôi phải sống cẩn trọng hơn. Hôm nay tôi phải tìm hiểu và chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc hành trình của tôi sau cái chết.
Tuy nhiên, làm sao để biết chắc sau sự chết có gì? Có ai sống lại từ cõi chết để kể lại cho tôi biết sau sự chết thì việc gì xảy ra không? Xưa nay, đối diện với câu hỏi nầy, chúng ta có hai câu giải đáp. Một giải đáp đến từ sự suy tư triết lý tôn giáo với chủ trương của loài người. Một giải đáp đến từ sự mặc khải của Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa. Chúng ta có quyền chọn lựa giữa hai câu giải đáp nầy.
Thưa các nhà thông thái đời nầy: Xin hỏi "Sau Sự Chết Có Gì?"
Thông thường theo giải đáp của loài người, người ta có ba tín ngưỡng sau đây về việc gì sẽ xảy ra sau sự chết.


  • Sau khi chết, chúng ta không còn hiện hữu nữa. Chết là hết. Không có đời sau nào cả. Chỉ có đời nầy mà thôi. Đây là chủ trương của người vô thần hoặc những người vô tôn giáo.
    Nếu không có đời sau thì loài người chẳng khác nào loài vật như điểu thú côn trùng, chết rồi thôi. Nếu không có đời sau thì hãy ăn, hãy uống, hãy vui chơi cho vội vàng vì mai đây chết rồi không còn cơ hội để hưởng thụ nữa. Thực tế con người không sống cho hiện tại mà cũng sống cho tương lai nữa. Dù nghèo hèn kém thiếu hay sang trọng quyền quí đến đâu, con người vẫn luôn hướng về những gì vĩnh cửu, vĩ đại, cao cả. Chúng ta từng thấy những kim tự tháp của người Ai Cập, đã được xây dựng to lớn mấy ngàn năm trước Chúa cũng như những lăng tẩm của các vì vua chúa, những ngôi mộ kiên cố, đẹp đẽ đủ kiểu của mọi dân tộc khắp nơi trên thế giới. Tất cả đều thể hiện niềm tin về sự thực hữu của đời sau.
    Chúng ta cũng trân trọng và ngã mũ trước một người quá cố. Chúng ta nói ông bà cha mẹ của tôi qua đời chứ không nói con mèo con chó con trâu con gà con vịt của tôi qua đời. Chúng ta thường tin vong linh ông bà cha mẹ chúng ta vẫn còn đó. Có nhiều người Việt, người Hoa đang thờ cúng vong linh của ông bà. Tất cả những hành động của loài người chứng tỏ họ không tin chết là hết.
    Sứ đồ Phao-lô đã nói với những người tin Chúa, tin có đời sau, "Nếu chúng ta chỉ có hy vọng trong Đấng Christ ở đời nầy mà thôi, thì trong tất cả mọi người, chúng ta là kẻ khốn nạn hơn hết" (I Cô-rinh-tô 15:19).

  • Sau khi chết, tất cả chúng ta sẽ lên thiên đàng. Một số người tin rằng bất kể một người tin Chúa hay không tin; có vâng phục mạng lịnh của Chúa hay không hết thảy đều sẽ lên thiên đàng.

    Đây là chủ trương của những nhà Thần học Tân phái, tin rằng Chúa yêu thương và rốt cuộc sẽ cho mọi người vào thiên đàng. Điều mĩa mai ở đây là chủ trương nầy không cho phép ai vào hỏa ngục cả, kể cả những người đại ác như Hitler, những tên cướp của giết người, những người vô luân, những người chỉ muốn sống ở hỏa ngục chứ không thích thiên đàng...
    Chủ trương nầy mâu thuẩn với Kinh Thánh và trái với ý thức công bình của chúng ta. Lời Chúa bày tỏ rằng Đức Chúa Trời muốn tất cả mọi người được sự Cứu rỗi và Ngài đã ban Con Một của Ngài để Cứu rỗi thế gian. Nhưng chúng ta phải lấy đức tin tiếp nhận tình yêu của Đức Chúa Trời và bày tỏ đức tin đó qua sự vâng phục. Kinh Thánh nói rõ: "Ai tin Con thì được sự sống đời đời, ai không chịu tin Con thì chẳng thấy sự sống đâu, nhưng cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời vẫn ở trên người đó" (Giăng 3:36).

  • Sau khi chết, chúng ta sẽ trở lại, nghĩa là sẽ luân hồi chuyển kiếp hoặc đầu thai thành người khác.

    Đây là triết lý tôn giáo của nhiều nước á Đông. Người Ấn Giáo và Phật Giáo nghĩ rằng đời sống hiện tại chỉ là một trong nhiều đời sống của chu kỳ sinh ra, chết và tái sanh. Theo luật Karma (Nghiệp Báo) của Ấn Giáo, mỗi hành động đều có hậu quả.Những hậu quả nầy gắn liền với người làm ra những hành động đó. Một người trở thành sâu bọ hay thành một thầy tế lễ tùy thuộc vào cách người đó cư xử trên thế gian nầy. Quá trình tái sanh là nhằm để tẩy sạch tội lỗi và làm thoả mãn sự công bình của vũ trụ. Khi một người cuối cùng trở nên đủ tốt, người đó đạt được phước hạnh vĩnh cửu khi người đó hoà nhập vào với linh vũ trụ. Người Phật Giáo cũng tin luật Nghiệp Báo nhưng quyết tâm sống một đời sống kỹ luật cao để loại bỏ hết mọi ham muốn và để mong đạt được trạng thái hiện hữu mà họ gọi là Niết Bàn (Nirvana). Đó là nơi giải thoát không còn sinh tử luân hồi.
    Nếu những nổ lực của những người tin thuyết luân hồi là đúng thì thế giới lẽ ra phải có đời sống đạo đức càng ngày càng khá hơn trước mới phải, trái lại điều nầy đã không xảy ra. Nếu con người tu được để thoát ra khỏi vòng luân hồi thì thế giới nầy sẽ giảm bớt số người đi thật nhiều nhờ đã được giải thoát.Trái lại điều nầy đã không xảy ra, loài người càng ngày càng sinh sôi nẩy nở và tội ác con người càng ngày càng nhiều hơn và tinh vi ác độc hơn.

    Có người hỏi, "Nếu có kiếp trước thì tại sao tôi không còn nhớ gì về kiếp trước?" Tất cả mọi người không ai nhớ đến kiếp trước của mình. Tại sao? Tại vì không có kiếp trước làm sao nhớ!
    Một Mục sư Tin Lành đã thuyết phục một người tin thuyết luân hồi, "Nếu có nhiều kiếp để tu cho tốt hơn, tại sao anh không thử dành một kiếp nầy thôi để tin nhận Chúa? Nếu kiếp nầy tin Chúa mà anh không thấy khá hơn, tốt hơn, và được Cứu rỗi linh hồn, thì anh vẫn còn nhiều kiếp nữa để tu?"

    Chúng ta thử suy nghĩ hậu quả của những người tin và không tin thuyết luân hồi sẽ như thế nào? Nếu tôi tin rằng sẽ còn có nhiều cơ hội nữa trong nhiều đời nữa để tôi tu sửa thì trong đời nầy tôi sẽ sống ra sao? Hoặc nếu tôi tin rằng tôi chỉ có một đời nầy để sống cho tốt, tôi phải tu sửa trong đời nầy mà thôi, tôi phải ăn năn làm lại cuộc đời vì không có cơ hội nào khác nữa trong đời sau, số phận vĩnh cửu của tôi tùy thuộc vào cuộc sống của tôi trong đời nầy, thì trong đời nầy tôi sẽ sống ra sao?
    Niềm tin vào thuyết luân hồi chỉ là hy vọng hão huyền của loài người vào nỗ lực tự tu sửa, tự Cứu rỗi của một số người. Trong thực tế không ai biết chắc mình phải tu sửa thế nào mới thoát được vòng luân hồi. Không biết có ai nhờ tu mà thoát được vòng luân hồi chưa? Ai có quyền điều khiển vòng luân hồi? Ai quyết định cho tôi trở thành người hay thành thú vật? Ai phán xét để quyết định cho tôi đủ tốt để thoát được vòng luân hồi? Nếu thuyết luân hồi không đúng, không có thật thì những cố gắng tự Cứu của những người theo thuyết nầy sẽ ra hư không, vô ích. Họ sẽ đi đâu?

Kinh Thánh không hề đề cập đến hay dạy đến chuyện luân hồi, chuyển kiếp. Kinh Thánh đề cao địa vị con người khác hẳn muôn loài vạn vật, con người mang hình ảnh Đức Chúa Trời. Không có chuyện con vật thành con người hay con người trở thành con vật bao giờ. Chính thuyết luân hồi phủ nhận một Đức Chúa Trời thực hữu công bình và ân điển đang tể trị thế gian. Thuyết luân hồi chủ trương con người phải tự Cứu và không cần ai Cứu cả. Thuyết luân hồi phủ nhận mọi việc Chúa Giê-xu đã làm cho nhân loại.
Mục sư Charles Spurgeon đã ví sánh như sau: "Một người nên thử vượt Đại Tây Dương bằng chiếc thuyền giấy tốt hơn là cố đến thiên đàng bằng những việc làm lành."
Dĩ nhiên câu nói nầy không phủ nhận giá trị của việc làm lành, nó chỉ khẳng định rằng không ai có thể đến thiên đàng được nhờ việc tu sửa hay làm lành riêng tư của mình. Muốn lên thiên đàng chúng ta phải vâng theo điều kiện của Đức Chúa Trời trên thiên đàng.
Thưa Đức Chúa Trời: Xin hỏi "Sau Sự Chết Có Gì?"
Giải đáp của loài người không làm cho ai thỏa mãn bởi vì tất cả chỉ là võ đoán, mơ hồ, không chắc chắn. Vậy chúng ta hãy ngước lên trông chờ sự mạc khải đến từ Đức Chúa Trời.
Kinh Thánh khẳng định rằng sau khi chết, chúng ta sẽ được Chúa phán xét và sẽ đi đến một trong hai nơi hoàn toàn khác nhau, đó là thiên đàng hay là hỏa ngục. Đây là giải đáp của Đức Chúa Trời. Kinh Thánh chép: "Theo như đã định cho loài người phải chết một lần, rồi chịu phán xét" (Hê-bơ-rơ 9:27). Sẽ có một ngày Chúa xét xử công bình. Người ác bị phạt, người lành được thưởng. Chúa Giê-xu dạy rõ trong Bài Giảng Trên Núi của Ngài. "Nếu mắt bên phải gây cho các con phạm tội, cứ móc quăng đi, vì thà chột mắt còn hơn cả thân thể bị ném vào hoả ngục. Nếu tay phải gây cho các con phạm tội, cứ cắt bỏ đi, vì thà cụt tay còn hơn cả thân thể bị sa vào hỏa ngục" (Ma-thi-ơ 5:29-30).
Kinh Thánh chép: "Hiện nay chẳng còn có sự định tội nào cho những kẻ ở trong Đức Chúa Giê-xu" (Rô-ma 8:1). Những người tin Chúa không còn sợ bị phán xét nữa. Chúa chỉ phán xét để ban thưởng cho người tin Chúa chứ không phải để hình phạt họ nữa. Mọi việc cần thiết để khai mở con đường dẫn đến thiên đàng thì Chúa Giê-xu đã thực hiện xong rồi. Ngài đã chết thế tội chúng ta và Ngài đã từ kẻ chết sống lại. Ngài là Đấng duy nhất chúng ta tin cậy bước theo khi chuẩn bị cuộc hành trình hướng về đời sau.
Có một nơi gọi là Thiên Đàng. Theo sự dạy dỗ của Chúa Giê-xu, có một chỗ được gọi là thiên đàng vinh hiển, đẹp đẽ và phước hạnh. Đó là chỗ giống như vườn địa đàng ê-đen được khôi phục. Tại đó chúng ta sẽ nhận lãnh một thân thể mới (1Cô 15:35-44). Chúng ta sẽ tiếp tục làm những cá nhân độc đáo và có thể nhận biết nhau. Thân thể sống lại của chúng ta là thân thể thiêng liêng. Đó là một thân thể vinh hiển (1 Giăng 3:1-3). Đó cũng là thân thể bất tử, không bao giờ chết nữa để thích hợp với thiên đàng.
Ở đó sẽ không có buồn bả, khóc lóc, đau đớn, chết chóc nữa (Khải Huyền 21:4). Ở đó không có điều ác, không có ruả sả nữa (Khải Huyền 21:27; 22:3). Ở thiên đàng chúng ta sẽ phục vụ Đức Chúa Trời, sẽ đồng trị với Đấng Christ cho đến đời đời (Khải Huyền 22:3, 5). Ở đó chúng ta sẽ biết mọi sự mà ngày nay chúng ta mong muốn biết, chúng ta sẽ được thoả mãn mọi khát vọng vĩnh cửu của tâm hồn. Sứ đồ Giăng đã viết: "Hỡi kẻ rất yêu dấu, chính lúc bây giờ chúng ta là con cái Đức Chúa Trời, còn về sự chúng ta sẽ ra thể nào, thì điều đó chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Ngài hiện đến, chúng ta sẽ giống như Ngài, vì sẽ thấy Ngài như vốn có thật vậy. Ai có sự trông cậy đó trong lòng, thì tự mình làm nên thanh sạch, cũng như Ngài là thanh sạch" (1 Giăng 3:2,3).
Có ai thấy được thiên đàng? Có ba người: Phao-lô (2 Cô-rinh-tô 12:2-4); Giăng (Khải Huyền 4-22); Chúa Giê-xu (Giăng 14:1-6).
Làm sao để chắc đến thiên đàng? Hãy tin cậy Chúa Giê-xu là Đấng duy nhất đưa ta đến thiên đàng.
Chúa Giê-xu đã phán hứa với những môn đồ của Ngài: "Lòng các người chớ hề bối rối; hãy tin Đức Chúa Trời cũng hãy tin ta nữa. Trong nhà Cha ta có nhiều chỗ ở; nếu không có vậy thì ta đã nói trước cho các ngươi rồi. Ta đi sắm sẵn cho các ngươi một chỗ. Khi ta đã đi và đã sắm sẵn cho các ngươi một chỗ rồi, ta sẽ trở lại đem các ngươi đi với ta, hầu cho ta ở đâu thì các ngươi cũng ở đó. Các ngươi biết ta đi đâu và biết đường đi nữa. Thô-ma thưa rằng: Lạy Chúa, chúng tôi chẳng biết Chúa đi đâu; làm sao biết đường được? Vậy Đức Chúa Giê-xu đáp rằng: Ta là đường đi, lẽ thật và sự sống; chẳng bởi ta thì không ai được đến cùng Cha" (Giăng 14:1-6).
Có một nơi gọi là Hỏa Ngục. Cũng theo sự dạy dỗ của Chúa Giê-xu, có một nơi gọi là hỏa ngục. Chúa Giê-xu nói về hỏa ngục nhiều hơn thiên đàng. Ngài cảnh cáo để loài người tránh xa hỏa ngục và mau mau hướng đến thiên đàng. Ngài nói đến con đường khoảng khoát dẫn đến hỏa ngục, kẻ vào đó cũng nhiều.
Tại sao Chúa Tốt Lành và Yêu Thương lại đày người ta xuống hoả ngục? Đó là do sự ghê gớm của tội lỗi. Đó là do bản tính thánh khiết và công chính của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời không đày ai xuống địa ngục. Bản tính tội lỗi và ý chí tự do của một tội nhân dẫn người đó xuống hỏa ngục. Hỏa ngục là nơi dành cho Ma quỉ, không phải dành cho loài người. Người nào không ăn năn tội quay vể nhờ Chúa Cứu, người đó tự nhiên đã chọn con đường xa cách Chúa và hậu quả là hư mất.
Hoả ngục được mô tả như thế nào?
  • Chúa Giê-xu mô tả: Đó là nơi lửa cháy (Ma-thi-ơ 5:22), nơi thân xác đau đớn (Ma-thi-ơ 5:29,30); nơi phân cách hoàn toàn với Đức Chúa Trời (Ma-thi-ơ 7:23); nơi tối tăm, khóc lóc và nghiến răng (Ma-thi-ơ 8:12).
  • Các sứ đồ mô tả: Nơi lửa cháy (Gia-cơ 3:6, Giu-đe 6,7), nơi khói đau khổ tỏa lên đời đời (Khải huyền 14:11); hồ lửa là sự chết thứ hai (Khải Huyền 20:14, 15).
Có hai sự lựa chọn: Bước vào thang máy, bạn muốn đi xuống hay muốn đi lên? Bạn có quyền chọn lựa. Hãy sáng suốt chọn lựa khi còn có cơ hội. Đừng để người khác chọn lựa thay bạn. Mỗi người chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của mình. Không chọn thiên đàng là đương nhiên bạn đang chọn hoả ngục. Hãy quyết định hôm nay. Mong bạn chọn đúng con đường hẹp của Chúa Cứu Thế Giê-xu để bạn được lên thiên đàng.

Mục sư Nguyễn Văn Huệ
Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...

Nỗ Lực Truyền Bá Phúc Âm (Evangelism Explosion)

Chương trình Nỗ Lực Truyền Bá Phúc Âm là việc sử dụng hai câu hỏi chẩn đoán. Sau khi thăm hỏi về đời sống thế tục, bối cảnh tôn giáo của thân hữu, về Hội Thánh chúng ta và về lời chứng cá nhân hoặc của Hội Thánh, ta nêu ra hai câu hỏi chẩn đoán.

 

Câu hỏi thứ nhất: “Trong đời sống tâm linh hiện tại, bạn có chắc rằng nếu qua đời bạn sẽ vào Thiên Đàng chăng?” Nếu câu trả lời là không biết chắc, chứng đạo viên sẽ tiếp tục hỏi.

Câu hỏi thứ hai: Giả định bạn qua đời và ứng hầu trước mặt Thượng Đế, rồi Ngài hỏi bạn: “Tại sao ta phải cho con vào Thiên Đàng?” Bạn sẽ thưa với Chúa làm sao?”.[1]

Để thích ứng với văn hóa Việt Nam khi sử dụng hai câu hỏi chẩn đoán, chúng ta nên hỏi như sau:

Câu hỏi 1: “Một ngày nào đó, tất cả chúng ta phải từ giã cõi đời nầy, đôi khi ngày ấy đến sớm hơn chúng ta suy nghĩ. Tôi biết chắc rằng sau khi qua đời tôi sẽ được lên Thiên Đàng. Không rõ trong cuộc sống tâm linh hiện tại, ông, hoặc bà biết chắc rằng nếu qua đời ông/bà sẽ được lên Thiên Đàng không?”

Câu hỏi 2: “Nếu qua đời và ứng hầu trước mặt Thượng Đế, Ngài hỏi chúng ta rằng: “Tại sao Ta cho con vào Thiên Đàng?” Tôi biết sẽ trả lời với Chúa như thế nào? Còn ông/bà thì sao?”

Những câu hỏi chẩn đoán sẽ giúp ta dễ dàng chuyển tiếp qua phần trình bày Phúc Âm.

 

BỐ CỤC TRÌNH BÀY PHÚC ÂM

 

I. LỜI MỞ ĐẦU

Ta sẽ nói đến: Đời sống thế tục, bối cảnh tôn giáo của họ. Hội Thánh của chúng ta, lời chứng cá nhân hoặc của Hội Thánh, rồi chuyển qua hai câu hỏi chẩn đoán.

Đời sống thật là lý thú phải không bạn? Nhưng rồi tất cả chúng ta phải từ giã cõi đời nầy một ngày nào đó, đôi khi ngày ấy đến sớm hơn chúng ta suy tưởng. Tôi biết chắc rằng sau khi qua đời tôi sẽ được lên Thiên Đàng, không rõ trong cuộc sống tâm linh hiện tại, bạn có biết chắc rằng nếu qua đời bạn sẽ được lên Thiên Đàng không?

- Tôi tưởng không ai có thể biết chắc điều đó.

- Trải qua nhiều năm chính tôi cũng không biết, nhưng sau đó tôi khám phá được một điều kỳ diệu! Đó là lý do tại sao Thánh Kinh được chép ra. Thánh Kinh dạy: “Ta đã viết những điều này cho các con, hầu cho các con biết mình có sự sống đời đời, là kẻ nào tin đến danh Con Đức Chúa Trời” (IGiăng 5:13).

- Bạn có muốn tôi chia sẻ với bạn làm cách nào tôi biết chắc rằng tôi sẽ vào Thiên Đàng và bạn cũng có thể biết được như vậy không?

- Có, tôi thật muốn biết.

Được rồi, tôi sẵn sàng chia sẻ với bạn, nhưng trước hết xin hỏi câu thứ hai mà tôi nghĩ sẽ đem chúng ta đến gần vấn đề và làm sáng tỏ tư tưởng chúng ta hơn. Giả định rằng bạn qua đời và ứng hầu trước Thượng Đế. Ngài hỏi bạn: “Tại sao Ta cho con vào Thiên Đàng?” Bạn sẽ thưa với Chúa làm sao?

- Tôi không nghĩ ra được câu trả lời nào chính xác. Nhưng nếu tôi cố gắng hết sức ăn ngay ở lành, sống cuộc đời thánh thiện, Trời sẽ cho tôi vào Thiên Đàng.

- Được rồi bạn ạ, điều đó thật đáng khen. Bạn biết không? Khi bạn trả lời câu hỏi thứ nhất, tôi tưởng tôi đã có tin mừng cho bạn. Và sau khi nghe bạn trả lời câu hỏi thứ hai, tôi biết tôi thật có tin mừng đó. Thật thế tôi còn dám quả quyết trong vòng một phút sắp tới, bạn được nghe tin vui lớn nhất mà chưa bao giờ trong đời bạn được nghe! Đó chắc hẳn là một điều lạ phải không?

 

II. CHIA SẺ PHÚC ÂM

1. Ân phúc: Thiên Đàng là tặng phẩm biếu không. Chẳng phải làm lành lánh dữ mà được. Tôi cảm thấy phần lớn đời tôi cũng sống và suy nghĩ đúng như bạn. Tôi đã nghĩ nếu muốn vào Thiên Đàng thì tôi phải trả giá, hoặc giành chiếm cho được. Tôi phải trở nên người đủ thánh thiện và làm việc sao cho xứng đáng để được vào nước Thiên Đàng.

Nhưng sau đó tôi khám phá ra Thiên Đàng tuyệt đối là một tặng phẩm biếu không chứ không phải cố gắng giành chiếm, hoặc nhờ công đức riêng mà được. Hoàn toàn biếu không thế có kỳ lạ không?

Để tôi chỉ cho bạn câu Kinh Thánh Tân Ước, Rôma 6:23. Đây này bạn hãy tự đọc lấy “Vì tiền công của tội lỗi là sự chết, nhưng sự ban cho của Đức Chúa Trời là sự sống đời đời trong Chúa Giê-xu Christ, Chúa chúng ta”. Tặng phẩm của Thượng Đế là đời sống vĩnh viễn… thế có lạ lùng không?

Có lẽ bạn nghĩ làm sao có thể như vậy được? Làm sao chúng ta có thể có được? Tôi biết một phương pháp giúp cho bạn có thể khám phá được điều này, chẳng những đây là cách thức mà còn là phương pháp duy nhất mà thôi.

 

2. Con người: Trước hết, con người là tội nhân trước mặt Thượng Đế. Thánh Kinh dạy rằng vì mọi người đã phạm tội, cho nên chẳng ai trong chúng ta thánh thiện đủ để được vào Thiên Đàng vì tiêu chuẩn của Thượng Đế là hoàn hảo. Chúa Giê-xu phán: “Các con phải hoàn hảo như Cha các con trên trời là Đấng toàn hảo” (Mat 5:48 Hiệu Đính BTT). Nhưng vì mỗi người đều phạm tội, không còn phản chiếu vinh quang Thượng Đế (Rôm 3:23). Trong tư tưởng, lời nói, việc làm, chúng ta đã thất bại vì không vâng giữ điều luật của Chúa, thậm chí những điều chúng ta bỏ qua không làm dù biết đó là điều thiện (Gia 4:17).

Con người không thể tự cứu mình: Đây là lý do không một ai trong chúng ta có thể tự kiếm được con đường vào Thiên Đàng, chúng ta không thể tự cứu mình. Thánh Kinh dạy: “Vậy anh em được cứu nhờ ân điển, bởi đức tin, mà anh em được cứu, điều đó không phải đến từ anh em, bèn là sự ban cho của Đức Chúa Trời. Ấy chẳng phải bởi việc làm đâu, hầu cho không ai khoe mình” (Êph 2:8-9).

 

3. Đức Chúa Trời: Đức Chúa Trời (Thượng Đế) đầy lòng thương xót và thương yêu, đầy ơn và nhân từ, nhưng cũng chính Thánh Kinh dạy rằng Thượng Đế công bình, thánh khiết “Mắt Chúa thánh sạch chẳng nhìn sự dữ, chẳng có thể nhìn được sự trái ngược” (Hab 1:13). Ngài phải hình phạt tội, Thánh Kinh dạy rằng Thượng Đế mỗi ngày nỗi giận cùng người ác và Ngài truyền cho mọi người ở khắp nơi đều ăn năn. Tuy nhiên chúng ta biết Thánh Kinh dạy Thượng Đế thương yêu, đầy ân phúc và hay thương xót, Ngài phải xử lí tội lỗi, nhưng Ngài không muốn hình phạt chúng ta. Vậy, câu giải đáp cho nan đề này là gì?

Với sự khôn ngoan vô hạn của Thượng Đế, Ngài đã hoạch định một giải pháp. Thượng Đế sai Con Một Ngài vào thế gian để giải quyết vấn đề này.

 

4. Chúa Cứu Thế Giê-xu: Ngài là ai? Ngài là thần nhân vô hạn. Theo lời Thánh Kinh, Chúa Giê-xu là Đức Chúa Trời, Ngôi Hai trong Ba Ngôi Thiên Chúa, Đấng tạo hoá vũ trụ. Thánh Kinh dạy ban đầu có Chúa Cứu Thế, Chúa Cứu Thế ở với Thượng Đế từ nguyên thủy vì Ngài là Thượng Đế Ngôi Hai… Chúa Cứu Thế đã mang lấy hình hài thể xác con người sinh hoạt giữa chúng ta (Giăng 1:1,3,14). Ngài đã làm gì? Đã trả giá đền tội cho chúng ta, dự bị Thiên Đàng làm tặng phẩm cho chúng ta.

Ngài đến để làm gì? Cả Kinh Thánh luận về công lao cứu chuộc vĩ đại. Hãy tưởng tượng quyển sách bên tay phải tôi chứa đựng bản ghi chép tỉ mỉ cuộc đời chúng ta: tư tưởng, mọi việc làm cách bí mật hay công khai, cớ tích đều ghi chép trong sách này. Thánh Kinh dạy rằng một ngày kia sách sẽ mở ra và mọi người sẽ biết mọi điều về chúng ta. Ngày đó nhiều người sẽ bị hổ thẹn! Tôi xin xác quyết một điều: Nếu người nào bị đoán xét tùy theo những điều ghi trong sách của đời sống mình, chắc chắn người ấy sẽ bị kết tội.

Đây (nâng cuốn sách lên) là nan đề của chúng ta, bạn thấy rõ đó tội lỗi đè lên chúng ta như một gánh nặng to lớn (để cuốn sách trong lòng một bàn tay). Điều này ngăn trở vào Thiên Đàng, chúng ta phải làm gì với các tội đó?

Giả định bàn tay kia của tôi tượng trưng cho Chúa Cứu Thế Giê-xu. Thánh Kinh dạy rằng Thượng Đế chất mọi tội lỗi của chúng ta lên Ngài (chuyển cuốn sách qua tay “Giê-xu”). Có nghĩa mọi tội lỗi đã được Chúa Cứu Thế Giê-xu giải quyết. Kế đó tôi đọc một điều mà tôi, bậc làm cha mẹ, phải sửng sốt: “Giê-hô-va lấy làm vừa ý mà làm tổn thương người…” (Ê-sai 53:10). Thượng Đế đã tuôn đổ cơn thạnh nộ đối với tội lỗi trên chính Con Ngài.

Chính Chúa Giê-xu phán: “Ta đi sắm sẵn cho các ngươi một chỗ. Khi Ta đã đi và sắm sẵn cho các ngươi một chỗ rồi, ta sẽ trở lại đem các ngươi đi với Ta, hầu cho Ta ở đâu thì các ngươi cũng ở đó” (Giăng 14: 2-3). Ngài chuẩn bị một nơi cho chúng ta ở Thiên Đàng.

Bạn biết điều diệu kỳ mà Chúa Cứu Thế đã sắm chỗ ở trên Thiên Đàng và biếu cho chúng ta như một tặng phẩm. Tặng phẩm của Thượng Đế là đời sống vĩnh cửu. Nhờ ân điển của Ngài và bởi đức tin, chúng ta tiếp nhận tặng phẩm đó.

 

5. Đức tin: Đức tin không phải chỉ là thừa nhận theo trí khôn, không phải là mù quáng, không tạm thời. Nhiều người nghĩ họ có đức tin nhưng không rõ đức tin là gì. Nhiều người tin rằng Chúa Giê-xu đã sống, chết, sống lại và họ cho rằng đó là đức tin. Nhưng đây chỉ là sự thừa nhận của trí tuệ đối với sự kiện lịch sử, Thánh Kinh dạy rằng cả đến ma quỷ cũng tin Chúa Cứu Thế theo cách đó (Gia 2:19), đức tin như vậy chưa đủ.

Người khác tưởng họ có đức tin trong Chúa Cứu Thế nhưng khi bạn hỏi họ, họ chỉ cậy Chúa Cứu Thế vì những điều tạm bợ của đời sống như sức khỏe, tài chính, danh vọng, những điều chỉ cần trong cuộc sống ở trần thế này.

Đức tin là gì? Thánh Kinh dạy đức tin là chỉ tin cậy một mình Chúa Giê-xu để được hưởng ơn Cứu rỗi, đặt niềm hy vọng về đời sống vĩnh viễn trong Chúa Cứu Thế. (Giăng 3:36a)

Chúa Cứu Thế không phải đến trần thế để cho chúng ta được tai qua nạn khỏi. Song, Ngài đến để đem chúng ta lên Thiên Đàng hầu chúng ta hưởng sự sống vĩnh viễn.

Con người chỉ tin cậy một trong hai điều hoặc chính mình hoặc Chúa Cứu Thế Giê-xu. Trước kia tôi giống như bạn, tin vào những cố gắng của mình để sống cuộc đời thánh thiện. Kế đó tôi nhận thấy rằng nếu vào Thiên Đàng bằng cách này, tôi sẽ tự cứu mình và tất nhiên tôi sẽ là cứu chúa của tôi. Khi đó, tôi sẽ cạnh tranh với Chúa Cứu Thế Giê-xu, Đấng xưng mình là cứu tinh của cả thế giới.

Điều tôi cần làm là chấm dứt tin cậy chính mình và khởi sự tin cậy Chúa Cứu Thế Giê-xu. Với lòng chân thành, tôi ăn năn và nhận được tặng phẩm của sự sống vĩnh viễn. Tôi không đáng được, nhưng chỉ nhờ ân phúc Chúa mà tôi có được điều đó.

Bạn có tin ghế này thật có không? Bạn tin nó có thể giữ vững bạn không? Hiện giờ nó chưa giữ vững bạn. Làm cách nào bạn có thể chứng minh rằng chiếc ghế thật có và có thể giữ vững bạn. Bằng cách ngồi lên nó.

Chiếc ghế tượng trưng cho Chúa Cứu Thế, trải qua một thời gian dài tôi tin ghế thật có và có thể giúp tôi, nhưng tôi không ngồi trên ghế đó, vậy nó chẳng ích lợi chi cho tôi. Tôi không có sự sống vĩnh viễn vì tôi đang tin cậy vào công đức để vào nước Thiên Đàng.

Hãy nhớ điều bạn đã thưa với Thượng Đế nếu Ngài hỏi tại sao Ngài cho bạn vào Thiên Đàng? Bạn đã thưa: “Tôi đã làm hết sức mình, ăn ngay ở lành…” người duy nhất mà bạn viện dẫn đến trong câu trả lời này là ai? Chính là tôi.

Khi bạn nói điều đó thì bạn tin cậy vào ai để vào Thiên Đàng? Vào tôi.

Muốn nhận sự sống vĩnh cửu bạn phải chuyển sự tin cậy nơi bạn qua sự tin cậy nơi Chúa Cứu Thế.

 

III. SỰ TÍN THÁC

1. Câu hỏi để biết chắc: “Những điều tôi vừa trình bày có rõ cho bạn không?”

Ồ có chứ, thật kỳ diệu.

Bạn vừa nghe câu chuyện vĩ đại nhất về một sự cống hiến vĩ đại nhất, bởi Con Người vĩ đại nhất từng sống trên thế gian.

 

2. Câu hỏi tín thác: Bạn có muốn tiếp nhận tặng phẩm về sự sống vĩnh viễn mà Chúa Cứu Thế đã từ bỏ cõi trời và chịu chết trên thập tự giá để ban cho bạn không?

 

Nếu như thân hữu tin nhận Chuá thì ta thực hiện tiếp các bước sau.

-        Cầu nguyện ngắn, dễ hiểu.

-        Bảo đảm sự cứu rỗi Giăng 6:47 Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, hễ ai tin thì được sự sống đời đời.

-        Hẹn gặp lại (trong vòng 1 tuần)

-        Cầu nguyện, mời đến dự lễ thờ phượng, giúp học giáo lý căn bản….

 

 

 

 

 
Kennedy là người quản lý vũ trường Arthur Murray. Một ngày nọ chiếc máy thu thanh đã làm ông tỉnh ngộ trước câu hỏi của nhà truyền giảng Donald Gray Barhouse: “Giả sử bạn qua đời đêm nay và đứng trước mặt Thượng Đế, Ngài hỏi bạn rằng: “Tại sao Ta cho con vào Thiên Đàng? Bạn sẽ thưa với Chúa thế nào?” Câu hỏi đó khiến cho Kennedy suy nghĩ đến số phận đời đời của ông và thúc đẩy ông tiếp nhận Chúa Cứu Thế.

Khi tốt nghiệp Chủng viện Thần học Columbia năm 1959 Kennedy được mời làm Mục sư của Hội Thánh Trưởng lão Coral Ridge. Sau một năm số tín hữu từ 45 người giảm xuống còn 17 người. Để cứu vãn tình trạng đó, Kennedy tiến hành chương trình thăm viếng. Tuy nhiên với bản tính nhút nhát cố hữu cộng thêm việc không biết cách làm chứng về Chúa, chương trình thăm viếng ấy đã thất bại.

Giữa lúc Kennedy thất vọng và nghi ngờ về sự kêu gọi của chức vụ mình, ông nhận được thư của Mục sư Ken Smartt mời ông đến hầu việc Chúa cho chiến dịch truyền giảng mười ngày. Khi đến nơi Kennedy mới biết chương trình được chia như sau: ba ngày đi từ nhà này sang nhà khác thăm viếng và làm chứng, ban đêm truyền giảng.

Kennedy viết: “Sáng hôm sau chúng tôi ra đi, sau chừng nửa giờ với những cố gắng vấp váp của tôi, ông Mục sư bèn tiếp lấy cuộc đối thoại chỉ trong vòng 15 hay 20 phút sau đã dẫn người ấy đến với Chúa Cứu Thế”.

Sau chiến dịch mười ngày ấy, Kennedy đã học được phương cách dắt đưa người hư mất về với Chúa Cứu Thế. Kinh nghiệm đó đánh dấu sự thay đổi quan trọng trong chức vụ hầu việc Chúa của ông

Trở về Hội Thánh, Kennedy bắt đầu đi làm chứng và thu gặt kết quả thật khích lệ. Ngay sau đó ông nhận thức rằng dù đã hết sức cố gắng nhưng ông chỉ đi thăm và làm chứng được một ít người. Vì thế Kennedy nghĩ đến việc huấn luyện tín hữu cho công tác truyền bá Phúc Âm.

Tại đây ông học được nguyên tắc quan trọng khác cho việc huấn luyện và nó đã trở thành nguyên tắc căn bản cho chương trình Nỗ Lực Truyền Bá Phúc Âm.

Qua những lần không thành công, Kennedy mới nghĩ ra phương pháp hiện đang sử dụng là phối hợp lớp học với việc thực tập chứng đạo. Ông khám phá rằng phải dẫn học viên đi ra và cho họ thấy trưởng toán làm chứng. Nhờ vậy họ thắng được sự sợ hãi là ngăn trở lớn nhất trong việc truyền bá Phúc Âm. Trải qua nhiều năm, Kennedy đã soạn thảo chương trình chứng đạo chi tiết gồm có: sứ điệp Phúc Âm, chương trình huấn luyện và phương pháp chăm sóc. D. James Kennedy qua đời năm 2007.
______________________________________________


[1] D. James Kennedy, Nỗ Lực Truyền Bá Phúc Âm. Bản Tiếng Việt tái bản lần thứ ba (Nhà In Printers’ Sales Idea Service Company, không năm), tr.35.
Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...