Làm Thần học đòi hỏi con người phải đặt mình vào mối quan hệ với Đức Chúa Trời, kết chặt mối tương giao với Ngài như hình với bóng. Kinh thánh mô tả mối quan hệ này như Cha với con vẫn chưa đủ. Trong giai đoạn cuối để kết thúc sứ vụ trên đất này , Chúa Giê xu tuyên bố với tính cách khá gần gũi và thân mật hơn như tình bạn hữu, có tính cách gắn chặt với mối quan hệ chung với Ngài "Ta chẳng gọi các ngươi là đầy tớ nữa, vì đầy tớ chẳng biết điều chủ mình làm; nhưng ta đã gọi các ngươi là bạn hữu ta, vì ta từng tỏ cho các ngươi biết mọi điều ta đã nghe nơi Cha ta. " (Giăng 15:15). Vì thế, Nhà Thần học rất cần đến hình ảnh tương giao này. Sedmak dùng cụm động từ: "Đi-Nói-Làm" để nói lên mối quan hệ vĩ đại này.
ĐI. Từ niềm tin có được Cứu Chúa vào chính cuộc đời này thì phải nhận biết ân điển mà Ngài đã dành cho. Ân điển đó chính là sự sống đời đời và được tương giao mỗi ngày bằng lời thì thầm của sự cầu nguyện, bằng lòng biết ơn. Đi vào ân điển diệu kỳ , đi trong lời Chúa và chính Lời đã trở thành ngọn đèn dẫn bước cuộc đời mình, cho dù bước ngay trong trũng của bóng sự chết ta cũng chẳng sợ gì. Đi tìm người lân cận, đi đến chốn nghèo nàn tận cùng của biên giới ngăn đôi giữa cái sống và cái chết để tìm kiếm con người đang khốn cùng của sự đau khổ, để sẽ chia gánh nặng và kinh nghiệm đau thương của thập giá Ngài. Việc này dẫn đến việc dìu dắt nhiều người đến gần Đức Chúa Trời "Hãy giải cứu kẻ bị đùa đến sự chết, Và chớ chối rỗi cho người đi xiêu tó tới chốn hình khổ." (Châm 24:11); "Những chiên ta đi lạc trên mọi núi và mọi đồi cao; những chiên ta tan tác trên cả mặt đất, chẳng có ai kiếm, chẳng có ai tìm.´( Ê-xê-chi-ên 34:6). Đi là việc tìm kiếm trong ân sủng Đức Chúa Trời và chúng ta có thể tìm thấy được trong chính Chúa Giê-xu, "Thay vì chúng ta ngước nhìn lên cây thần học đầy ấn tượng với cành nhánh xum xuê, chúng ta sẽ cúi đầu nhìn xuống gốc của nó."
NÓI. là sự bày tỏ về sự sáng tạo của Đức Chúa Trời, là Chúa của Trời và đất. Nói về sự liên hệ giữa Chúa và người như thế nào đến nỗi Ngài chấp nhận gánh lấy sự yếu đuối của chúng ta bằng chính sự chết của Ngài. Chúng ta không cần phải nói những điều quá xa xôi đến nỗi người nghe khó có thể tưởng tượng nỗi nhưng phải nói những điểm gần nhất như bày tỏ kinh nghiệm trong sự yếu đuối và vì sao trở nên mạnh mẻ trong ân điển của Đức Chúa Trời. Nói về sự sống và sự chết (Phục 30:19). Quan điểm thần học không tách rời và không trung dung nh ưng phải nói cách thẳng thắn để người ta hiểu được mục đích của Đức Chúa Trời trong sự cứu rỗi và trách nhiệm của con người trong ân điển Ngài.
LÀM. Làm Thần học là nghiên cứu về sự sống, là một phần trong đời sống tôn giáo mà mọi người cần phải biết. Nó là một phần trong việc chúng ta đặt câu hỏi trong cương vị là con người, là tín hữu, là cộng đồng. Người làm Thần học phải có trách nhiệm chia sẽ khải tượng về sự chết, sự sống lại của Chúa cứu thế Giê xu. Phản tỉnh những điều mình học biết về cuộc sống con người liên hệ với sự đau khổ và sự cứu chuộc của Chúa Giêxu sẽ trở thành trung tâm trong đời sống của tất cả người tin. Làm Thần học còn phải chia sẽ và chăm sóc, chữa lành vết thương người đau khổ "Ta sẽ tìm con nào đã mất, dắt về con nào đã bị đuổi, rịt thuốc cho con nào bị gãy, và làm cho con nào đau được mạnh." (Ê-xê-chi-ên 24:6a). Làm Thần học cũng giống như thầy thuốc chăm sóc vết thương của người khác, chữa lành và an ủi, giúp con người biết suy tư, nhận thức về ý nghĩa của cuộc đời. Bởi vì chính chúng ta cũng từng trãi nghiệm trong sự đau khổ nên cần phải giúp những con người đau khổ tìm lại hạnh phúc cho mình trong Đấng Christ.
Đi-Nói-Làm là ba khía cạnh cần thiết cho người làm Thần học. Nếu chỉ ĐI và NÓI không thì chưa đủ, Vì thiếu khía cạnh LÀM. Làm Thần học là sự nghiên cứu và áp dụng thực tế cho chính cuộc sống hiện tại và làm nên khát vọng của người làm Thần học, nếu thiếu khía cạnh LÀM thì việc đi và nói cũng chỉ là sự bày tỏ sự hiểu biết của những người đi trước hơn là sự nhìn nhận về Thần học cho chính mình. Ngày nay, nhân loại đã trãi nghiệm qua chặng đường khá dài. Một phần nhỏ nhân loại đã kinh nghiệm của sự cứu chuộc, sống hoà bình, tha thứ, yêu thương với mọi người vì nhận biết mình đã được cứu và thuộc về thiên đàng hơn là phải tranh đấu từng ngày nơi dương thế. Nhưng phải nhận biết rằng , hơn rất nhiều lần trong số đó vẫn tìm kiếm thần hư danh, lầm lũi trong cuộc sống tạm bợ bằng sự tranh giành quyền lợi, xâu xé trong chính trường, giết người hàng loạt để tìm kiếm sự "hoà bình" giả tạo. Họ loại bỏ Chúa Cơ đốc ra ngoài cuộc sống, đem ảo tưởng và tham vọng thay thế vào sự phước hạnh mà Chúa đã đem đến cho họ. Ai là người có thể nhận lấy trọng trách làm ánh sáng cho thế gian và làm muối cho đất? Có phải những con người từng nhận biết sự yếu đuối của mình bởi tội lỗi và đã nhận lấy món qua cứu rỗi từ Thiên đàng? Đúng vậy, những con người đó cần phải có trách nhiệm với những con người đang hư mất. Chúa muốn như thế và Ngài đã kêu gọi "Vậy, hãy đi dạy dỗ muôn dân, hãy nhân danh Đức Cha, Đức Con, và Đức Thánh Linh mà làm phép báp-têm cho họ, 20 và dạy họ giữ hết cả mọi điều mà ta đã truyền cho các ngươi. Và nầy, ta thường ở cùng các ngươi luôn cho đến tận thế. (Mat 28:18-20) . đó là lời nói sau cùng Chúa Giêxu nhắn gửi khi hoàn tất sứ vụ trên đất này.
Tóm lại, người làm thần học phải có mục đích tối thượng là vì mọi người, cũng giống như người làm bếp giỏi, biết nhu cầu của thực khách và biết thay đổi các món ăn thích hợp với khẩu vị và có ích cho sự phát triển "linh hồn". Vì thế, không nhất thiết phải sử dụng công thức nhất định nào mà phải biết áp dụng và phát triển từ gia vị từ truyền thống địa phương mình đang sống. Thành công chính là nhờ vào sự kết hợp thần học kinh điển với thần học có tính chất địa phương.
Nguyễn Nhật Tảo
March 18, 2012
January 20, 2012
NGƯỜI VIỆT NAM VỚI ĐẠO TIN LÀNH
NGƯỜI VIỆT NAM VỚI ĐẠO TIN LÀNH
Câu trả lời khẳng định là: KHÔNG, xin được giải bày như sau:
Nhiều người Việt Nam , vì chưa tìm hiểu đến nơi đến chốn nên đã vội cho rằng theo Đạo Tin Lành là bỏ ông bỏ bà. Đây là thành kiến không đúng do không hiểu cách người Tin Lành bày tỏ lòng hiếu thảo đối với cha mẹ, tổ tiên. Người Tin Lành biểu lộ sự hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ chủ yếu khi ông bà cha mẹ còn sống, còn khi ông bà cha mẹ qua đời thì con cháu lo chôn cất chu đáo theo nghi lễ trang nghiêm của Hội Thánh trong tinh thần thương tiếc, hy vọng, ngoài ra không nhang đèn, không lập bàn thờ bài vị, không van vái, không cúng bái người đã chết. Có lẽ vì người Tin Lành không làm theo phong tục cổ truyền đối với người quá cố như những người Việt Nam khác nên một số đồng bào cứ lầm tưởng như vậy là bỏ ông bỏ bà, thậm chí có người cho vậy là bất hiếu. Đạo nào cũng dạy con người biết hiếu kính ông bà cha mẹ vì đó là nền tảng cho sự sinh tồn của nhân loại. Đạo Tin Lành là đạo kính Chúa yêu người, lấy lời Đức Chúa Trời làm mẫu mực thiêng liêng cho cuộc sống, lại càng chuyên tâm dạy dỗ, khuyên bảo người tín hữu và con em mình hết lòng hiếu kính ông bà cha mẹ đúng như lời Chúa dạy. Sỡ dĩ người Tin Lành không làm theo phong tục cổ truyền đối với người quá cố là vấn đề niềm tin cùng lý do thực tế.

Subscribe to:
Posts (Atom)